Đại hội Đảng VI là cái mốc đánh dấu của nền kinh tế Việt Nam, sự chuyển đối sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, cùng với sự ra đời của mọi thành phần kinh tế, các doanh nghiệp không còn chế độ bao cấp, mà chuyển sang cơ chế thị trường, hoạch toán kinh doanh độc lập, cạnh tranh lành mạnh, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt. Do vậy, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tổ chức kinh doanh một cách sao cho có hiệu quả.
Là một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, thì hoạt động đầu tư là không thể tránh khỏi, trong khi đó dự án đầu tư là kim chỉ nam, là cơ sở vững chắc, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế - xã hội mong muốn.
Trong quá trình thực tập tại công ty dịch vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc. Tôi đã tìm hiểu về " dự án nghiên cứu khả thi sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của công ty dịch vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc" và thực hiện đề tài tốt nhgiệp". " Tổ chức thực thi dự án sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của công ty dịch vụ và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc". Đề tài gồm 3 phần sau:
Phần I: Cơ sở lý luận chung về tổ chức thực thi dự án đầu tư.
Phần II: Phân tích quá trình tổ chức thực thi dự án sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của công ty dịch vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc.
Phần III: Phương hướng và giải pháp nhằm tổ chức thực thi thành công dự án sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của Công ty dịch vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc .
61 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1013 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tổ chức thực thi dự án sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của công ty dịch vụ và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đại hội Đảng VI là cái mốc đánh dấu của nền kinh tế Việt Nam, sự chuyển đối sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ, cùng với sự ra đời của mọi thành phần kinh tế, các doanh nghiệp không còn chế độ bao cấp, mà chuyển sang cơ chế thị trường, hoạch toán kinh doanh độc lập, cạnh tranh lành mạnh, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt. Do vậy, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tổ chức kinh doanh một cách sao cho có hiệu quả.
Là một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh, thì hoạt động đầu tư là không thể tránh khỏi, trong khi đó dự án đầu tư là kim chỉ nam, là cơ sở vững chắc, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế - xã hội mong muốn.
Trong quá trình thực tập tại công ty dịch vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc. Tôi đã tìm hiểu về " dự án nghiên cứu khả thi sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của công ty dịch vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc" và thực hiện đề tài tốt nhgiệp". " Tổ chức thực thi dự án sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của công ty dịch vụ và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc". Đề tài gồm 3 phần sau:
Phần I: Cơ sở lý luận chung về tổ chức thực thi dự án đầu tư.
Phần II: Phân tích quá trình tổ chức thực thi dự án sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của công ty dịch vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc.
Phần III: Phương hướng và giải pháp nhằm tổ chức thực thi thành công dự án sản xuất giống và chăn nuôi lợn xuất khẩu trong nông hộ giai đoạn 2002 - 2005 của Công ty dịch vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn Vĩnh Phúc .
Phần I
Cở sở lý luận chung về tổ chức thực thi dự án đầu tư.
I/ Những vấn đề lý luận chung về dự án đầu tư:
1. Sự cần thiết phải tiến hành các hoạt động đầu tư theo dự án:
Hoạt động đầu tư ( gọi tắt là đầu tư ) là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài chính, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất khác nhằm trực tiếp hoặc gián tiếp tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất ký thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của các cở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Các cơ quan quản lý Nhà nước và xã hội nói riêng.
Hoạt động đầu tư trực tiếp tái sản xuất các cơ sở vật chất kỹ thuật trên đây gọi là đầu tư phát triển. Đó là một quá trình có thời gian kéo dài trong nhiều năm với số lượng các nguồn lực được huy động cho từng công cuộc đầu tư khá lớn và nằm khê đọng trong suất quá trình thực hiện đầu tư.
Các thành quả của loại đầu tư này cần và có thể được sử dụng trong nhiều năm đủ để các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn những nguồn lực đã bỏ ra, chỉ có như vậy công cuộc đầu tư mới được coi là có hiệu quả. Nhiều thành quả đầu tư có giá trị sử dụng rất lâu, hàng trăm năm.
Khi các thành quả đầu tư là các công trình xây dựng hoặc cấu trúc hạ tầng như: nhà máy, hầm mỏ, các công trình thuỷ điện, các công trình thuỷ lợi, đường xá, cầu cống, bến cảng... thì các thành quả này sẽ tiến hành hoạt động của mình ngay tại nơi chúng đã được tạo ra. Do đó, sự phát huy tác dụng của chúng chịu ảnh hưởng nhiều của các điều kiện kính tế xã hội, tự nhiên tại nơi đây.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển được tiến hành thuận lợi, đạt mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao thì trước khi bỏ vốn phải làm tốt công tác chuẩn bị, có nghĩa là phải xem xét, tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế - kỹ thuật, điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội, pháp lý...
Có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư, đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư, phải dự đoán các yếu tố bất định
( sẽ xẩy ra trong suốt quá trình kể từ khi thực hiện đầu tư cho đến khi các thành quả của hoạt động đầu tư kết thúc sự phát huy tác dụng theo dự kiến trong dự án ) Có ảnh hưởng đến sự thành bại của công cuộc đầu tư. Mọi sự xem xét, tính toán và chuẩn bị này được thể hiện trong dự án đầu tư. Thực chất của sự xem xét và chuẩn bị này chính là lập dự án đầu tư. Có thể nói, dự án đầu tư ( được soạn thảo tốt ) là kim chỉ nam, là cơ sở vững chắc, là tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế - xã hội mong muốn.
2. Khái niệm dự án đầu tư:
Dự án đầu tư có thể được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau:
Về mặt hình thức, dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và chi phí theo một kế hoạch để đạt được những kết quả và thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Trên góc độ quản lý, dự án đầu tư là một công cụ quản lý việc sử dụng vốn, vật tư, Lao động để tạo ra các kết quả tài chính, kinh tế - xã hội trong một thời gian dài.
Trên góc độ kế hoạch hoá, dự án đầu tư là một công cụ thể hiện kế hoạch chi tiết của một công cuộc đầu tư sản xuất kinh doanh, phát triển kinh tế - xã hội, làm tiền đề cho các quyết định đầu tư và tài trợ. Dự án đầu tư là một hoạt động kinh tế riêng biệt nhỏ nhất trong công tác kế hoạch hoá nền kinh tế nói chung.
Xét về mặt nội dung, dự án đầu tư là một tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau được kế hoạch hoá nhằm đạt các mục tiêu đã định bằng việc tạo ra các kết qủa cụ thể trong một thời gian nhất định, thông qua việc sử dụng các nguồn lực xác định.
Như vậy, một dự án đầu tư bao gồm 4 thành phần chính:
- Mục tiêu của dự án được thể hiện ở 2 mức:
1. Mục tiêu phát triển là những lợi ích kinh tế xẫ hội do thực hiện dự án đem lại.
2. Mục tiêu trước mắt là các mục đích cụ thể cần đạt được của việc thực hiện dự án.
- Các kết quả: Đó là những kết quả cụ thể, có thể định lượng, được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án. Đây là điều kiện cần thiết để thực hiện được các mục tiêu của dự án
- Các hoạt động: Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực hiện được trong dự án để tục ra các kết quả nhất định. Những nhiệm vụ hoặc hành động này cùng với một lịch biểu và trách nhiệm cụ thể của các bộ phận thực hiện sẽ tạo thành kế hoạch làm việc của dự án.
- Các nguồn lực: Về vật chất, tài chính và con người cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án. Giá trị hoặc chi phí của các nguồn lực nàychính là vốn đầu tư cần cho dự án.
Trong 4 thành phần trên thì các kết quả được coi là cột mốc đánh dấu tiến độ của dự án. Vì vậy, trong quá trình thực hiện dự án phải thường xuyên theo dõi đánh giá các kết quả đạt được. Những hoạt động nào có liên quan trực tiếp đối với việc tạo ra các kết quả được coi là hoạt động chủ yếu phải được đặc biệt quan tâm.
3. Chu kỳ dự án đầu tư.
- Chu kỳ của dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua, bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án được hoàn thành, chấm dứt hoạt động.
Sơ đồ chu kỳ của dự án đầu tư:
ý đồ về
dự án
đầu tư
ý đồ về
dự án
mới
Sản xuất kinh doanh dịch vụ
Thực hiện đầu tư
Chuẩn bị đầu tư
4. Đặc điểm của dự án đầu tư:
- Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư:
- Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều tiến động xẩy ra.
- Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đủ bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động 2 mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế...
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhều năm, có khi hàng trăm năm... Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển.
- Mọi thành quả và hậu quả của quá trình thực hiện đầu tư chịu ảnh
hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian.
- Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế- xã hội cao đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị.
5. Phân loại các dự toán đầu tư:
Có rất nhiều cách khác nhau để phân loại các đự án đầu tư. Sau đây là một số cách thức phân loại các dự án đầu tư.
5.1. Theo cơ cấu tái sản xuất:
Dự án đầu tư được phân thành dự án đầu tư theo chiều rộng và dự án đầu tư theo chiều sâu. Trong đó đầu tư chiều rộng có vốn lớn để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn lâu. Tính chất kỹ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
5.2. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của dự án đầu tư.
Có thể phần chia thành dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
( Kỹ thuật và xã hội )...hoạt động của các dự án đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau, chẳng hạn các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao: Còn các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiền lực cho các dự án đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, cở sở hạ tầng và các dự án đầu tư khác.
5.3. Theo giai đoạn hoạt động của các dự án đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội:
Có thể phân loại các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành dự án đầu tư thương mại và dự án đầu tư sản xuất, dự án đầu tư thương mại là loại dự án đầu tư có thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi vốn đầu tư ngắn, tính chất bất định không cao lại dễ dự đoán và dự đoán dễ đạt độ chính xác cao.
Dự án đầu tư sản xuất là loại dự án đầu tư có thời hạn hoạt động dài hạn ( 5,10,20 năm hoặc lâu hơn ) Vốn đầu tư lớn thu hồi chậm, thời gian thực hiện đầu tư lâu, độ mạo hiểm cao, tính chất kỹ thuật phức tạp, chịu tác động của nhiều yếu tố bất định trong tương lai không thể dự đoán hết và dự đoán chính xác được, ( Về nhu cầu, giá cả đầu vào đầu ra, cơ chế chính sách, tốc độ phát triển của khoa học kỹ thuật, thiên tai, sự ổn định về chính trị...)
Loại dự án đầu tư này phải được chuẩn bị kỹ, phải cố gắng dự đoán những gì có liên quan đến vất vả và hiệu quả của hoạt động đầu tư trong tương lại xa: phải xem xét các biện pháp xử lý khi các yếu tố bất định xảy ra để đảm bảo thu hồi vốn và có lãi khi hoạt động của dự án đầu tư kết thúc.
Trong thực tế, người có tiền thích đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh thương mại. Tuy nhiên trên giác độ xã hội, hoạt động của loại dự án đầu tư này không tạo ra của cải vật chất cụ thể một cách trực tiếp, những giá trị tăng thêm do hoạt động của dự án đầu tư thương mại đem lại chỉ là sự phân phối lại thu nhập giữa các ngành các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Do đó, trên góc độ điều tiết vĩ mô, Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách của mình để hướng dẫn được các nhà đầu tư không chỉ đầu tư vào lĩnh vực thương mại mà còn đầu tư vào cả lĩnh vực sản xuất, theo cách định hướng và mục tiêu đã dự kiến trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đất Nước.
5.4. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra:
Ta có thể phân chia các dự án đầu tư thành dự án đầu tư ngắn hạn ( như dự án đầu tư thương mại ) và dự án đầu tư dài hạn (Các dự án đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật ).
5.5. Theo phân câp quản lý:
Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 52/1999/ NĐ - CP ngày 8/7/1999 của Thủ tướngChính phủ phân chia dự án thành 3 nhóm A.B.C tuỳ theo tính chất và quy mô của dự án. Trong đó nhóm A do thủ tướng Chính phủ quyết định: Nhóm B và C do bộ trưởng, Thủ trưởng Cơ qua trực thuộc Chính phủ, UBND cấp Tỉnh ( Và thành phố trực thuộc TW ) quyết định.
5.6. Theo nguồn vốn:
Dựa vào nguồn vốn, dự án đầu tư có thể được phân chia thành:
- Dự án đầu tư có vốn huy động trong nước ( Vốn tích luỹ của Ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư )
- Dự án đầu tư có vốn huy động từ Nước Ngoài ( Vốn đầu tư trực tiếp, vốn đầu tư gián tiếp )
Việc phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của từng ngành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế.
5.7. Theo vùng lãnh thổ Theo Tỉnh, theo vùng kinh tế của Đất Nước)
Cách phân loại này cho thấy tình hình đầu tư của từng Tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương.
Ngoài ra trong thực tế, để đáp ứng yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế, người ta con phân chia dự án đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo quy mô và theo nhiều tiêu thức khác:
6. Một số yếu tố liên quan trực tiếp đến dự án đầu tư:
- Điều kiện về địa lý tự nhiên ( Địa hình, khí hậu, địa chất ) có liên quan đến việc lựa chọn, thực hiện và phát huy hiệu quả của dự án sau này:
- Điều kiện về dân số và lao động cóliên quan đến nhu cầu phương hướng tiêu thụ sản phẩm, đến nguồn lao động cung cấp cho dự án.
- Tình hình chính trị, các chính sách và luật lệ có ảnh hưởng đến sự an tâm của nhà đầu tư:
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Đất Nước, của địa phương, tình hình phát triển sản xuất kinh doanh của ngành, của cơ sở ( tốc độ gia tăng GDP, tỷ lệ đầu tư so với GDP, quan hệ với tích luỹ và tiêu dùng, GDP/ đầu người...) có ảnh hưởng đến quá trình thực hiện và sự phát huy hiệu quả của dự án.
- Tình hình ngoại hối ( Cán cân thanh toán ngoại hối, dự trữ ngoại tệ, nợ nần và tình hình thanh toán nợ... ) đặc biệt đối với các dự án phải nhập khẩu nguyên liệu, thiết bị.
- Hệ thống kinh tế và các chính sách:
+ Cơ cấu tổ chức hệ thống kinh tế theo ngành, theo quan hệ sở hữu, theo vùng lãnh thổ để đánh giá trình độ và lợi thế so sánh của dự án đầu tư.
+ Các chính sách phát triển, cải cách kinh tế, chuyển dịch cơ cấu nhằm đánh giá trình độ nhận thức, đổi mới tư duy và môi trường thuận lợi cho đầu tư.
+ Thực trạng kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân theo thời hạn, theo mức độ chi tiết, theo mục tiêu, các ưu tiên các công cụ tác động để từ đó thấy được các khó khăn, thuận lợi, mức độ ưu tiên mà dự án sẽ được hưởng, những định chế mà dự án phải tuân theo.
- Tình hình ngoại thương và các định chế có liên quan như tình hình xuất nhập khẩu, thuế xuất nhập khẩu, chính sách tỷ giá hối đoán, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế... những vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với các dự án sản xuất hàng xuất khẩu, nhập khẩu nguyên vật liệu máy móc.
II/ Quá trình quản lý một dự án đầu tư:
Quá trình quản lý dự án đầu tư là quá trình lập kế hoạch tổng thể, điều phối và kiểm soát một dự án đầu tư khi bắt đầu đến khi kết thúc nhằm đạt được những mục tiêu về thời gian, chi phí, kỹ thuật và chất lượng.
Quá trình quản lý dự án là một quá trình bắt đầu tư khi khởi thảo dự án đến khi kết thúc, từ giai đoạn nghiên cứu cơ hội đầu tư đến giai đoạn thực hiện các kết quả đầu tư.
1. Quá trình quản lý dự án đầu tư:
1.1. Quá trình lập mặt dự án đầu tư.
a. Nghiên cứu, phát hiện và đánh giá các cơ hội đầu tư.
Mục đích của bước này là phát hiện các cơ hội đầu tư và xác định sơ bộ khả năng khai thác ( Thực hiện ) từng cơ hội để tiến hành các bước nghiên cứu xây dựng dự án tiếp theo.
Yêu cầu đặt ra đối với bước nghiên cứu phát hiện và đánh giá cơ hôi đầu tư là phải đưa ra được những thông tin cơ bản phản ánh một cách sơ bộ khả năng thực thi và triển vọng của từng cơ hội đầu tư.
Sản phẩm của bước nghiên cứu và đánh giá cơ hội đầu tư là các báo cáo kỹ thuật về các cơ hội đầu tư.
Để phát hiện và đánh giá các cơ hội đầu tư cần dựa vào những căn cứ sau:
- Chiến lược phát triển kinh tế - xã hôi của cả nước, vùng, ngành hoặc chiến lược kinh doanh của các doach nghiệp.
- Nhu cầu của thị trường về sản phẩm, dịch vụ.
- Tình hình sản xuất và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ ở trong nước, trong vùng và trên thị trường thế giới.
- Các nguồn lực, đặc biệt là các lợi thế so sánh đối với các nước, các vùng, các doanh nghiệp. - Những kết quả về tài chính, kinh tế, xã hội sẽ đạt được nếu thực hiện hoạt động đầu tư.
Sau khi nghiên cứu phát hiện và đánh giá cơ hội đầu tư, những thông tin cơ bản về từng cơ hội đầu tư được hệ thống hoá trong báo cáo kinh tế kỹ thuật về cơ hội đầu tư.
b. Nghiên cứu tiền khả thi.
Đây là bước tiếp tục nghiên cứu các cơ hội đầu tư đã được phát hiện và đánh giá ở trên nhằm sàng lọc lựa chọn những cơ hội đầu tư có triển vọng và phù hợp nhất để tiến hành nghiên cứu sâu hơn chi tiết và kỹ lưỡng hơn. Thực chất của bước nghiên cứu này là thông qua nghiên cứu các báo cáo kinh tế kỹ thuật về các cơ hội đầu tư để chọn các cơ hội đầu tư có triển vọng phù hợp nhất.
Kết quả nghiên cứu tiền khả thi là bản báo cáo nghiên cứu tiền khả thi với những nội dung cơ bản sau:
- Nghiên cứu bối cảnh đầu tư.
- Nghiên cứu thị trường sản phẩm, dịch vụ có liên quan đến cơ hội đầu tư.
- Nghiên cứu mặt kỹ thuật và công nghệ của đầu tư.
- Phân tích khía cạnh tài chính của đầu tư.
- Phân tích mặt kinh tế - xã hội của đầu tư.
- Nghiên cứu về mặt tổ chức quản lý đối tượng đầu tư.
Các nội dung trên ở bước nghiên cứu tiền khả thi được xem xét ở trạng thái tĩnh, sơ bộ và chưa chi tiết, tức là chưa đề cập tới sự tác động của các yếu tố bất địch và các kết quả tính toán chỉ là những ước tính sơ bộ, sản phẩm của bước nghiên cứu tiền khả thi là dự án tiền khả thi. Đây là một hồ sơ trình bày kết quả nghiên cứu tiền khả thi về cơ hội đầu tư.
c. Nghiên cứu khả thi.
Đây là bước nghiên cứu chi tiết và sâu sắc nhằm sàng lọc lần cuối cùng để xác định phương án tối ưu, giai đoạn nghiên cứu này có tính đến ảnh hưởng của các yếu tố bất định có thể diễn ra theo từng nội dung nghiên cứu. Đồng thời các nôi dung được nghiên cứu một cách chi tiết, kỹ lưỡng, nghiên cứu khả thi, nhằm từng bước đi sâu nghiên cứu chi tiết, đầy đủ và kỹ lưỡng, loại bỏ những sai sát có thể ở bước nghiên cứu cơ hội đầu tư và nghiên cứu tiền khả thi.
Nội dung của bước nghiên cứu khả thi gồm những vân đề sau:
- Căn cứ xây dựng dự án.
- Sản phẩm đầu ra của dự án.
- Thị trường của sản phẩm dự án.
- Khả năng đảm bảo và phương thức cung cấp các yếu tố đầu vào của dự án.
- Địa điểm bố trí dự án.
- Quy mô xây dựng và các hạng mục công trình.
- Tổ chức sản xuất kinh doanh.
- Nhu cầu nguồn cung cấp nhân lực.
- Tổ chức và tiến độ thực hiện đầu tư.
- Phân tích tài chính của dự án.
- Phân tích kinh tế của dự án.
- Phân tích tác động môi trường và xã hội của dự án.
- Một vài kết luận và kiến nghị.
d. Thẩm định dự án để quyết định đầu tư:
Đây là bước do cơ quan quản lý chức năng thực hiện, nội dung của bước này là thẩm tra, giám định dự án để quyết định có phê duyệt dự án hay không, một dự án đầu tư chỉ thực sự hình thành khi nó được cơ quan quản lý có đủ thẩm quyền thẩm định và phê duyệt.
1.2. Quá trình tổ chức thực thi dự án.
1.2.1. Chuẩn bị triển khai dự án đầu tư.
1.2.2. Chỉ đạo thực thi dự án đầutư.
1.2.3. Kiểm tra và điều chỉnh dự án.
2. Quá trình tổ chức thực thi dự án đầu tư:
Quá trình tổ chức thực thi dự án đầu tư là quá trình biến dự án đầu tư thành các kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động có tổ chức của các chủ thể tham gia dự án nhằm thực hiện những mục tiêu mà dự án đề ra.
Có thể nói, quá trình tổ chức thực thi dự án đầu tư có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công hay thất bại của một dự án đầu tư.
Một dự án đầu tư dù có được lập ra tốt đến đâu chăng nữa nhưng nếu công tác tổ chức thực thi dự án không tốt thì cuối cùng dự án dẫn đến thất bại. Như vậy tổ chức thực thi dự án là điều kiện đủ, điều kiện quyết định để đưa dự án vào hoạt động thực tế, để có một dự án thành công. Đây là giai đoạn quan trọng hơn cả, ở giai đoạn này 85% - 99,5% vốn đầu tư của dự án được chi ra nằm khê đọng trong suốt những năm thực hiện dự án đầu tư. Đây là những năm vốn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư cũng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn. Do đó, tổ chức thực thi dự án đầu tư không được tiến hành hoặc tiến hành không tốt, sẽ dẫn đến tính khả thi của dự án không cao.
Có những vấn đề thực tiễn mà trong giai đoạn xây dựng dự án đầu tư chúng chưa phát sinh, chưa bộc lộ hoặc đã phát sinh nhưng những người xây dựng không nhận thấy được, đến giai đoạn tổ chức thực thi mới phát hiện ra được, quá trình thực thi dự án còn góp phần điều chỉnh, bổ xung và hoàn thiện dự án đầu tư.
Quá trình tổ chức thực thi dự án đầu tư có thể coi như một quá trình liên tục bao gồm 3 giai đoạn chính với các nội dung sau:
2.1. Chuẩn bị triển khai dự án đầu tư.
21.1. Xây dựng cơ cấu tổ chức thực thi dự án đầu tư.
Lựa chọn cơ quan chủ chốt chịu trách nhiệm chính trong việc thực thi dự án. Cơ quan này có nhiệm vụ quản lý chung và chủ trì toàn bộ quá trình thực thi dự án. Thông thường cơ quan chủ chốt được lựa chọn là cơ quan nếu được thực hiện sẽ có hiệu quả hơn so với các cơ quan khác. Đó là cơ quan sẽ phải cung cấp nhiều thông tin và sức người cho việc thực thi dự án.
Các cơ quan phối hợp thực thi dự án đầu tư có vai trò góp phần thúc đẩy việc thực thi dự án đó, thiếu sự phối hợp của các cơ quan này sẽ có thể dẫn đến sự cản trở cho việc thực thi dự án.
Sau khi đã xác định các cơ quan thực thi một dự án đầu tư nào đó. Còn cần xác định rõ mối quan hệ phân công về chức năng nhiệm vụ, quyền lực và lợi ích ( Nếu có ) giữa các cơ quan phối hợp và tham gia thực thi.
2.1.2. Xây dựng chương trình hành động.
Cơ quan tổ chức thực thi dự án đầu tư, căn cứ vào nhiệm vụ trên giao, sẽ xây dựng những chương trình hành động cụ thể để đưa dự án đầu tư vào thực tế. Tức là xây dựng phương hướng và biện pháp thực thi cụ thể cuả cơ quan mình, các cơ quan thực thi phải lập các kế hoạch tác nghiệp để chuẩn bị triển khai dự án.
Trong đó xác định một cách rõ ràng.
- Thời gian triển khai dự án đầu tư.
- Danh mục các công việc cần phả thực hiện.
- Mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn thực thi dự án.
- Sự phân bổ các nguồn lực để thực hiện từng mục tiêu cụ thể của dự án đầu tư trong từng giai đoạn.
2.1.3. Tổ chức tập huấn, tham quan, học tập:
Cho các cán bộ chịu trách nhiệm thực thi dự án đầu tư và cho các đối tượng chủ yếu của dự án, để trang bị cho họ những kiến thức, những hiểu biết, những kỹ năng cơ bản nhất, để tiến hành thực thi dự án đầu tư một cách hiệu quả nhất.
2.2. Chỉ đạo thực thi dự án đầu tư:
Chỉ đạo thực thi dự án đầu tư là thực hiện việc triển khai dự án đầu tư, đưa dự án đầu tư vào thực tiễn.
2.2.1. Hệ thống tuyên truyền thông tin đại chúng.
Hệ thống này, thông qua các phương tiện tuyên truyền, báo trí, quảng cáo, truyền hình..., giúp cho mọi người hiểu biết về nội dung của dự án đầu tư, thấy được vai trò và tầm quan trọng của dự án, thấy được những lợi ích mà dự án đem lại cho mọi người, cho xã hội và cho bản thân, từ đó họ nhận thức được lợi ích của dự án nếu mình tham gia, từ đó thúc đẩy họ tham gia vào việc tổ chức triển khai dự án:
2.2.2. Xây dựng, thẩm định các kế hoạch hàng năm cho dự án đầu tư:
Dự án đầu tư có thể được thực hiện trong thời gian từ vài tháng đến hàng năm. thậm chí hàng chục năm. Do đó để đảm bảo được mục đích cuối cùng của dự án, đòi hỏi trong quá trình tổ chức thực thi dự án, phải xây dựng được các kế hoạch hàng năm, kế hoạch từng năm, nhằm giúp cho việc thực hiện được các mục tiêu của dự án, các kế hoạch hàng năm giúp cho việc thực hiện từng mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn, giúp cho chúng ta tập chung được nguồn lực vào khâu xung yếu nhất của dự án và nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư, các kế hoạch hàng năm, nhằm cụ thể hoá dự án đầu tư trong thực tế.
2.2.3. Xây dựng kế hoạch sử dụng nguồn vốn:
Trong quá trình thực hiện dự án, đòi hỏi phân bổ nguồn vốn sao cho đạt hiệu quả nhất, tổ chức thực thi dự án thực hiện trong thời gian kéo dài. Căn cứ vào việc xây dựng kế hoạch công việc hàng năm, nhiệm vụ phải được thực hiện từng năm, đồng thời phải xây dựng kế hoạch, sử dụng nguồn vốn cho từng năm theo từng nhiệm vụ về công việc cụ thể, việc phân bổ nguồn vốn sao cho đạt hiệu quả, tránh gây lãng phí. Do đó, đòi hỏi việc quản lý nguồn vốn phải thực sự nghiêm ngặt và hiệu quả.
2.2.4, Tiến hành phối hợp, hoạt động của các bộ phận, phân hệ tham gia dự án:
Để thực hiện dự án thành công, đòi hỏi phải có sự phối hợp của các bộ phận tham gia, đồng thời phải chỉ rõ trách nhiệm của từng bộ phận, lợi ích và trách nhiệm của các bên tham gia. Chức năng nhiệm vụ của các bên tham gia dự án.
Công việc phối hợp chỉ có thể được tiến hành một cách hiệu quả khi:
- Nó được thực hiện theo kế hoạch ( Kế hoạch này đã được lập ra từ giai đoạn chuẩn bị triển khai ) trong đó ghi rõ: Khi nào phối hợp ? Cơ quan nào chịu trách nhiệm chung? Cơ quan nào chịu trách nhiệm với nhau ? Chức năng nhiệm vụ quyền hạn của mỗi cơ quan đó?
- Phải chỉ ra được cơ chế phối hợp hợp lý. Duy trì mối quan hệ quản lý và phối hợp theo chiều dọc và chiều ngang,thông qua hệ thống thông tin, thông qua các cuộc trao đổi, gặp gỡ, hội họp giữa các bộ phận, phân hệ tham gia dự án đầu tư.
2.3, Kiểm tra và điều chỉnh dự án:
2.3.1, Giám sát việc thực hiện dự án dầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100259.doc