Quan hệ sở hữu là một nội dung quan trọng nhất của quan hệ sản xuất. Đó là quan hệ kinh tế giữa người với người trong sự chiếm hữu hay nói cách khác đó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Do đó, cũng như quan hệ sản xuất, sự vận động của quan hệ sở hữu về hình thức, mức độ và phạm vi không phải là ý muốn chủ quan của con người mà là khách quan do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.
Đi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trong lịch sử, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản ta thấy tương ứng với mỗi lực lượng sản xuất thì cũng có các quan hệ sở hữu khác nhau, từ đó mà cũng tồn tại các quan hệ sản xuất khác nhau. Tức là sự phát triển của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong điều kiện quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, do nền sản xuất chưa qua chủ nghĩa tư bản nên trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất vẫn ở mức thấp. Trong nền kinh tế tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu này là các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau. Do đó, trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay tất yếu tồn tại kinh tế nhiều thành phần.
17 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1394 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Tính tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I - mở đầu
Quan hệ sở hữu là một nội dung quan trọng nhất của quan hệ sản xuất. Đó là quan hệ kinh tế giữa người với người trong sự chiếm hữu hay nói cách khác đó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Do đó, cũng như quan hệ sản xuất, sự vận động của quan hệ sở hữu về hình thức, mức độ và phạm vi không phải là ý muốn chủ quan của con người mà là khách quan do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.
Đi theo sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội trong lịch sử, từ phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản ta thấy tương ứng với mỗi lực lượng sản xuất thì cũng có các quan hệ sở hữu khác nhau, từ đó mà cũng tồn tại các quan hệ sản xuất khác nhau. Tức là sự phát triển của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Trong điều kiện quá độ lên xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, do nền sản xuất chưa qua chủ nghĩa tư bản nên trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất vẫn ở mức thấp. Trong nền kinh tế tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu này là các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh khác nhau. Do đó, trong thời kỳ quá độ chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay tất yếu tồn tại kinh tế nhiều thành phần.
II - Nội dung
1. Trước hết, ta đi sâu làm rõ các khái niệm về sở hữu và chế độ sở hữu.
Sở hữu là một phạm trù kinh tế cơ bản và xuất phát của kinh tế chính trị học. Đó là quan hệ kinh tế giữa người với người trong sự chiếm hữu của cải. ở đây, quan hệ sở hữu không phản ánh mối quan hệ giữa người với vật mà nó phản ánh quan hệ giữa người với người đối với vật.
Nội dung của quan hệ sở hữu được xét trên hai mặt.
- Thứ nhất: Xét về mặt pháp lý, sở hữu được luật pháp hoá thành các quyền, bao gồm: quyền sở hữu, quyền định đạt, quyền chuyển nhượng, quyền kế thừa... và cơ chế để thực hiện các quyền đó thì gọi là chế độ sở hữu.
- Thứ hai: Xét về mặt kinh tế, khi sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, nó gắn liền với lợi ích và thu nhập của chủ sở hữu đối với của cải, mang lại thu nhập cho chủ sở hữu. Mỗi hình thức sở hữu mang lại hình thức thu nhập khác nhau cho chủ sở hữu.
Sở hữu cổ phần đ thu nhập là cổ tức
Sở hữu ruộng đất đ thu nhập là địa tô
Khi quan hệ sở hữu được luật pháp hoá thành các quyền: quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt... và cơ chế để thực hiện các quyền đphát sinh gọi là chế độ sở hữu. ở bất kỳ xã hội nào, chế độ sở hữu đều là vấn đề căn bản nhất của chế độ kinh tế xã hội đó. Bởi vì nó là nội dung quan trọng nhất trong quan hệ sản xuất, quyết định đến tính phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ có trên cơ sở giải quyết đúng đắn vấn đề sở hữu mới có căn cứ để giải quyết các vấn đề về động lực, vấn đề lợi ích kinh tế, vấn đề chính trị, vấn đề pháp quyền và các vấn đề xã hội.
Chúng ta cùng xem xét trong lịch sử, giai đoạn từ năm 1975 - 1986, giai đoạn chúng ta mới thực hiện xong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn này, do chúng ta nôn nóng, chủ quan duy ý chí, muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội mà chúng ta xoá bỏ hết các hình thức sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể. Do không tính đến điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta ở giai đoạn đó nên chúng ta đã bị sai lầm. Do chế độ sở hữu sai lầm như vậy sẽ không giải quyết thoả đáng các vấn đề về động lực, lợi ích kinh tế đ từ đó dẫn đến các khó khăn về kinh tế cho đời sống dân cư, nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển đ dẫn tới hàng loạt các khó khăn về chính trị và các vấn đề xã hội khác. Qua đó mà ta thấy được tầm quan trọng của việc giải quyết đúng đắn các vấn đề về sở hữu trong bất cứ xã hội nào. Nhận thức được điều này, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, trên quan điểm thẳng thắn, Đảng ta đã thừa nhận sai lầm trên; chúng ta cho phép nền kinh tế tồn tại đa hình thức sở hữu trong thời kỳ quá độ. Những thành tựu to lớn trong những năm đổi mới vừa qua đã chứng tỏ tính đúng đắn của chế độ sở hữu ở nước ta hiện nay.
Chế độ sở hữu bao gồm 3 nội dung:
- Thứ nhất là nội dung vật chất của sở hữu hay còn gọi là đối tượng của sở hữu, nó bao gồm sở hữu tư liệu tiêu dùng, sở hữu tư liệu sản xuất, sở hữu vốn, sở hữu chất xám, sở hữu bản quyền, sở hữu thị trường...
- Thứ hai là nội dung kinh tế của sở hữu.
- Thứ ba là nội dung pháp lý của sở hữu.
Ba mặt trên của chế độ sở hữu thống nhất với nhau và chỉ có thể đảm bảo tính thống nhất của ba mặt đó thì chế độ sở hữu mới phát huy được hiệu quả và không trở thành hình thức.
Trong chế độ sở hữu, cần phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất.
- Trong nền kinh tế tự cung tự cấp và trong nền sản xuất hàng hoá nhỏ thì quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất là đồng nhất với nhau. Đó là sở hữu của những nông dân và thợ thủ công. Người sở hữu cũng là người sử dụng tư liệu sản xuất đó.
- Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thì quyền sở hữu và quyền sử dụng tư liệu sản xuất lại có những diễn biến đa dạng do sự xuất hiện của nhiều loạ hình sở hữu, nhiều chủ thể sở hữu và các cấp độ khác nhau. Do đó, quyền sở hữu và quyền sử dụng có thể thuộc về chủ thể duy nhất, cũng có thể là quyền sở hữu thuộc người này nhưng quyền sử dụng lại thuộc về người khác, tức là có sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Thí dụ, trong chủ nghĩa tư bản, giai cấp địa chủ vẫn có quyền sở hữu đối với ruộng đất, nhưng quyền sử dụng lại thuộc về nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp thuê ruộng đất đó của địa chủ. Như vậy, giai cấp địa chủ đã chuyển quyền sử dụng ruộng đất sang các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp. Thí dụ khác nữa đó là trong hình thức công ty cổ phần, quyền sở hữu vốn thuộc về các cổ đông, nhưng quyền sử dụng vốn (dùng vốn để tiến hành sản xuất kinh doanh) lại tuộc về ban quản trị. Tuy nhiên, trong hình thức doanh nghiệp tư nhân tư bản chủ nghĩa thì thông thường quyền sở hữu và quyền sử dụng thuộc về một chủ thể (nhà tư bản tự bỏ ra tiến hành sản xuất kinh doanh).
ở Việt Nam cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới, khi nói đến chế độ sở hữu thì thường chỉ đề cập tới đối tượng sở hữu chủ yếu là chế độ sở hữu thì thường chỉ đề cập tới đối tượng sở hữu chủ yếu là tư liệu sản xuất, nhưng ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất hàng hoá dưới tác động mạnh mẽ của cuộc sống khoa học công nghệ hiện đại thì đối tượng sở hữu cũng phong phú hơn. Ngoài sở hữu tư liệu sản xuất còn sở hữu vốn, sở hữu công nghệ, sở hữu thị trường....
2. Vậy, vì sao chúng ta nói rằng sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên?
Như phần trên chúng ta đã làm rõ khái niệm sở hữu, sở hữu về tư liệu sản xuất là hình thái xã hội của sự chiếm hữu về tư liệu sản xuất, là một nội dung chủ yếu trong quan hệ sản xuất xã hội và nền sản xuất xã hội. Hình thức, mức độ, phạm vi và tính đa dạng của sở hữu không phải do ý muốn chủ quan của con người quyết định mà nó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Điều đó có nghĩa sự xuất hiện, tồn tại, phát triển và chuyển hoá các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất là do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
a. Về mặt lý luận, theo Mác, sự biến đổi của các hình thức sở hữu được quyết định bởi quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Ông đã dùng quy luật này để lý giải sự ra đời và phát triển của 5 phương thức sản xuất xã hội trong lịch sử và coi phương thức sản xuất xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết định.
Với tư cách là những người sáng lập ra trường phái kinh tế chính trị Mácxít, Mác và Ănghen không phải chỉ một lần bàn về vấn đề sở hữu. Đặc biệt trong tác phẩm "Tuyên ngôn Cộng sản", ông đã nhấn mạnh: "Chủ nghĩa cộng sản không xoá bỏ của ai quyền chiếm hữu các của cải mà chỉ xoá bỏ việc dùng những của cải ấy để nô dịch lao động của người khác". Để nhấn mạnh quan điểm về sự biến đổi của các hình thức sở hữu như là quá trình lịch sử tự nhiên, Ăng hen khuyên rằng: "Không thể xoá bỏ ngay tư hữu và thiết lập ngay chế độ công hữu về tư liệu sản xuất" bởi vì sự tồn tại của các hình thức sở hữu là khách quan, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
b. Về mặt thực tiễn, ta đi sâu phân tích các chế độ sở hữu đã từng tồn tại trong lịch sử tương ứng với các phương thức sản xuất nhất định.
- Trong phương thức sản xuất Cộng sản nguyên thuỷ, chế đọ sở hữu là sở hữu tập thể của các thị tộc và bộ lạc về tư liệu sản xuất cũng như của cải kiếm được.
ở chế độ cộng sản nguyên thuỷ, hình thức sản xuất chủ yếu là săn bắn, hái lượm, công cụ sản xuất rất thô sơ, chủ yếu là cung tên, rìu đá. Tổ chức xã hội dưới hình thái các thị tộc, bộ lạc. Do đặc điểm tổ chức xã hội và trình độ phát triển của sản xuất rất thấp như vậy nên hình thức sở hữu trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ đó là sở hữu tập thể và các tư liệu sản xuất và từ đó cũng sở hữu tập thể về thức ăn, của cải kiếm được. Mọi người trong bộ lạc đều phải đi săn bắn, hái lượm đem về trong các hang đá, và cùng ăn, cùng hưởng. Như vậy, tương ứng với trình độ phát triển rất thấp của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ là chế độ sở hữu tập thể của các thị tộc, bộ lạc về các tư liệu sản xuất (chú ý phân biệt chế độ sở hữu tập thể này với hình thức sở hữu tập thể trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam hiện nay, chúng khác nhau rất nhiều về trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất).
Khi các công cụ sản xuất dần phát triển, lực lượng sản xuất phát triển thì trong các thị tộc, bộ lạc bắt đầu xuất hiện của cải dư thừa, không tiêu dùng hết. Chúng lại thuộc về các tộc trưởng, từ đó nảy sinh tư hữu. Như vậy, do sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi tương ứng với nó là quan hệ sở hữu hay nói rộng hơn là quan hệ sản xuất phù hợp với nó, đưa xã hội lên một phương thức sản xuất cao hơn đó là phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ.
- Trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ, chế độ sở hữu là sở hữu của các chủ nô về tư liệu sản xuất và cả người nô lệ. Của cải sản xuất ra thuộc toàn bộ về các chủ nô.
ở giai đoạn này, các chủ nô sở hữu các đồn điền, các tư liệu sản xuất khác, mua các nô lệ như các hàng hoá khác và tiến hành tổ chức sản xuất. Hình thức sản xuất chủ yếu không phải là săn bắn, hái lượm nữa mà chủ yếu là trồng trọt, chăn nuôi trong các đồn điền, nông trang... Như vậy, do lực lượng sản xuất phát triển mà đòi hỏi tương ứng với nó phải là hình thức sở hữu, quan hệ sản xuất và hình thức sản xuất phù hợp. Hình thức sở hữu tập thể của các công xã không còn phù hợp nữa, kìm hãm sản xuất đ tất yếu đòi hỏi chế độ sở hữu mới đó là sở hữu của các chủ nô về tư liệu sản xuất.
Tuy nhiên, lực lượng sản xuất không chỉ phát triển đến đó mà nó còn tiếp tục phát triển. Khi mà lực lượng sản xuất phát triển tới một trình độ nhất định thì sở hữu của chủ nô về tư liệu sản xuất và người nô lệ không còn phù hợp nữa, nó kìm hãm sản xuất, người nô lệ không chịu nổi những áp bức bóc lột hà khắc đó nữa, họ đứng lên lật đổ giai cấp chủ nô, đưa xã hội lên một phương thức sản xuất mới là phương thức sản xuất phong kiến tiến bộ hơn.
- Trong phương thức sản xuất phong kiến, chế độ sở hữu là sở hữu ruộng đất thuộc về địa chủ. Người nông dân muốn thuê ruộng để sản xuất thì phải nộp địa tô cho địa chủ. Chế độ sở hữu này tiến bộ hơn chế độ sở hữu trong phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ. Người nông dân được tự do về thân thể, họ thuê đất để tiến hàn sản xuất kinh doanh. Sau khi nộp tô cho địa chủ thì phần còn lại họ được hưởng. Tuy nhiên, do năng suất lao động trong thời kỳ này vẫn còn thấp, do kỹ thuật sản xuất thủ công, lạc hậu nên họ cũng chỉ đủ sống do sưu cao thuế nặng.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, các kỹ thuật sản xuất mới, hiện đại ra đời, sản xuất không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nữa mà mở sang lĩnh vực công nghiệp. Trong xã hội xuất hiện một giai cấp mới đó là giai cấp tư sản và giai cấp này càng lớn mạnh. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì chế độ sở hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ không còn phù hợp nữa, nó kìm hãm sản xuất lớn đ tất yếu nó sẽ bị thay thế bởi chế độ sở hữu mới tiến bộ hơn và phù hợp hơn đó là chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất đ đưa xã hội lên phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn là phương thức tư bản chủ nghĩa.
- Trong phương thức sản xuất tư bản ch, tồn tại chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Các nhà tư bản sở hữu về vốn, tư liệu sản xuất, kỹ thuật đứng ralập các xí nghiệp tư bản, thuê nhân công và trả lương cho họ (sức lao động trở thành hàng hoá), sản phẩm làm ra thuộc về nhà tư bản.
Do chế độ tư hữu trong thời kỳ này phù hợp, nó phát huy được tối đa sức sản xuất trong xã hội vì mục tiêu của sản xuất là lợi nhuận. Năng suất lao động dưới chủ nghĩa tư bản cao gấp nhiều lần trong các phương thức sản xuất trước đó, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất vẫn tiếp tục phát triển trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao đ tất yếu đòi hỏi quan hệ sở hữu hay quan hệ sản xuất phải thay đổi theo cho phù hợp. ở thời điểm hiện nay, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại là do những yếu tố tích cực, hợp lý của nó vẫn còn tồn tại. Theo phân tích của Mác, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tất yếu sẽbị thay thế bởi phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa mà ở đó chế độ sở hữu là sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất.
- Giai đoạn phát triển thấp của chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa xã hội. ở chủ nghĩa xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chưa cao như chủ nghĩa cộng sản đ đòi hỏi quan hệ sở hữu cũng phải phù hợp với lực lượng sản xuất đó. Tuy nhiên trước đây, do nhận thức chưa đúng, chúng ta đã thay đổi quan hệ sở hữu bằng cách công hữu hoá một cách vô hạn độ, công hữu hoá càng nhiều, càng nhanh càng tốt mà không xét đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Điều này là chủ quan, duy ý chí dẫn đến sai lầm vì nó làm cho chế độ sở hữu trở nên sơ cứng, không những không phát huy được vai trò tích cực của mình mà nó còn kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm trì trệ toàn bộ nền kinh tế. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), chúng ta đã có một bước chuyển biến căn bản trong nhận thức và chỉ đạo thực tiễn trong vấn đề sở hữu. Chúng ta đã thừa nhận rằng do những yếu tố kinh tế - xã hội quy định như sự khác biệt về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ công nghệ, trình độ của nq lao động), sự khác biệt về lợi ích, sự khác biệ về trình độ quản lý... nên thực hiện chế độ sở hữu bao gồm nhiều hình thức sở hữu. Cụ thể, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vừa qua, Đảng ta xác định trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay tồn tại các hjt sở hữu sau đây:
- Sở hữu Nhà nước
- Sở hữu tập thể
- Sở hữu của các cá thể, tiêu thủ
- Sở hữu tư bản tư nhân
- Sở hữu hỗn hợp Nhà nước - tư bản
- Sở hữu của người nước ngoài.
Như vậy, qua phân tích trên đây cả về mặt lý luận và thực tiễn, ta thấy sự hình thành, phát triển và biến đổi của sở hữu là một quá trình lịch sử tự nhiên, do sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định. Do lực lượng sản xuất phát triển dần từ thấp đến cao nên quan hệ sở hữu cũng dẫn phát triển từ thấp đến cao.
3. Tính tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam hiện nay.
a. Như đã phân tích ở trên, trong thời kỳ quá độ ở nước ta, do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, do những yếu tố, những đặc điểm kinh tế trong thời kỳ quá độ mà trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Mặt khác, tương ứng với mỗi hình thức sở hữu là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nhất định (một thành phần kinh doanh nhất định). Do đó, trong thời kỳ quá độ ở nước ta hiện nay, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần. Điều này được thể hiện:
* Xét về mặt lịch sử: sau khi cách mạng dân tộc dân chủ thành công (1975), cả nước tiến lên xã hội chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải tiếp thu một nền kinh tế có các thành phần khác nhau, trong đó thành phần kinh tế cá thể tiểu chủ và thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Trong mỗi thành phần kinh tế này lại có các loại hình, các quy mô khác nhau và do đó cũng có vai trò khác nhau trong nền kinh tế. Trong kinh tế cá thể có kinh tế sản xuất hàng hoá nhỏ của nông dân và thợ thủ công, có kinh tế tự cung tự cấp. Trong thành phần kinh tế tư bản tư nhân có kinh tế tư sản mại bản và tư bản nhỏ và vừa (còn gọi là tư sản dân tộc). Do yêu cầu của sự phát triển nền kinh tế và từng bước củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất mới, tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước, chúng ta đã tiến hành quốc hữu hoá các xí nghiệp của tư sản mại bản, biến nó thành sở hữu Nhà nước. Đồng thời, trong thời kỳ này, Nhà nước cũng tăng cường đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới. Từ đó, thành phần kinh tế quốc doanh ra đời và ngày càng mở rộng. Đồng thời với quá trình đó, Nhà nước cũng đã từng bước cải tạo các thành phần kinh tế khác. Do đó, trong thời kỳ quá độ, ở nước ta xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác. Thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế cá thể.
* Xét về mặt hiệu quả kinh tế: nền kinh tế nhiều thành phần sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Bởi vì:
- Mỗi thành phần kinh tế (kể cả những thành phần kinh tế cũ, do lịch sử để lại như thành phần kinh tế tư bản tư nhân có những mặt tiêu cực là bóc lột lao động làm thuê). Nhưng vì sự tồn tại của nó góp phần làm tăng tổng sản phẩm xã hội, giải quyết làm việc, làm tăng nguồn thu ngân sách... nghĩa là nó vẫn có vai trò tích cực đối với nền kinh tế. Kinh nghiệm lịch sử cho chúng ta thấy rằng mỗi thành phần kinh tế sẽ không tự mất đi khi chưa hết vai trò của nó. Do đó, trong thời kỳ quá độ, chúng ta vẫn cho phép nó tồn tại, vẫn phải thừa nhận nó như là một thành phần kinh tế quá độ, từ đó có các chính sách phù hợp đối với thành phần kinh tế này để nó đóng góp vào sự phát triển kinh tế của đất nước.
- Trong thời kỳ quá độ chúng ta phải thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội lớn, đó là mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Muốn đạt được mục tiêu này, chúng ta phải có vốn, có kỹ thuật, có kinh nghiệm quản lý. Song, chúng ta lại đang rất thiếu những yếu tố này, đặc biệt là về vốn. Đề giải quyết vấn đề này, chúng ta phải sử dụng đến nhiều biện pháp khác nhau, nhưng biện pháp lâu dài đó là chúng ta phải huy động được nguồn nội lực của đất nước. Trên thực tế, nếu như chúng ta khai thác được tiềm năng về vốn, về lao động, về quản lý của các thành phần kinh tế thì chúng ta sẽ có được một cơ sở rất tốt cho sự phát triển kinh tế. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của các thành phần kinh tế, động viên, sử dụng tối đa mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế là biện pháp, là con đường để thực hiện mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội.
- Nước ta có nguồn nhân lực dồi dào, phong phú, một số có trình độ nhưng do nền kinh tế còn đang kém phát triển nên chưa có khả năng thu hút được toàn bọ nguồn nhân lực đó và hàng năm lượng lao động bổ sung thêm vào lực lượng này do dân số tăng nhanh. Hiện tượng này gây ra sức ép lớn đối với nền kinh tế, đối với xã hội. Do đó, Nhà nước đã và đang tạo mọi điều kiện để những người trong độ tuổi lao động có cơ hội để làm việc bằng cách cho phép các thành phần kinh tế phát triển trong khuôn khổ của pháp luật và theo định hướng của Nhà nước. Như vậy, việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần còn góp phần giải quyết làm việc, động viên nhân lực vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước.
b. Tính tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ còn được thể hiện ở những tác dụng, tính tích cực của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế.
- Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần cũng có nghĩa là tồn tại nhiều hình thức của quan hệ sản xuất, do đó nó sẽ phù hợp với các trình độ phát triển khác nhau của lực lượng sản xuất, từ đó mà cóthể tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả kinh tế trong mỗi thành phần kinh tế và làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
- Sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Bởi vì chỉ có phát triển kinh tế nhiều thành phần mới làm tăng sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể - đẩy mạnh trao đổi và phát triển thị trường. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chính là đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền dân chủ, công bằng về mặt kinh tế cho mọi người. Mọi công dân đều có quyền hoạt động kinh tế trong khuôn khổ của pháp luật để làm giàu cho mình và làm giàu cho xã hội.
- Nền kinh tế nhiều thành phần không những tạo điều kiện sử dụng sức mạnh tổng hợp của mọi thành phần kinh tế trong nước mà còn tạo ra môi trường thông thoáng, thích hợp cho việc thu hút vốn, công nghệ tiên tiến của thế giới. Bởi vì trong các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ có cả thành phần kinh tế tư bản Nhà nước và thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Những thành phần kinh tế này đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn và công nghệ tiên tiến của thế giới.
- Nền kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện thực hiện và mở rộng các hình thức kinh tế quá độ, đặc biệt là hình thức kinh tế tư bản Nhà nước, đây là thành phần kinh tế được coi là cầu nói giữa nền sản xuất nhỏ để chuyển lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Bởi vì thành phần kinh tế này do Nhà nước chi phối và quản lý, đồng thời lại thu hút được vốn và công nghệ tiên tiến của thế giới.
Về mặt lý luận, tại Hội nghị Trung ương lần thứ VI khoá VI đã chỉ rõ: "chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược, lâu dàu, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về mặt kinh tế, đảm bảo cho mọi người được tự do làm ăn theo pháp luật".
c. Tính tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần được thể hiện ở vai trò của từng thành phần kinh tế đối với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ (theo Nghị quyết Đại hội IX).
c1 - Thành phần kinh tế Nhà nước: Tương ứng với hình thức sở hữu Nhà nước.
- Thành phần kinh tế này bao gồm các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế mà tài sản, vốn thuộc sở hữu Nhà nước đang hoạt động kinh tế. Thành phần kinh tế Nhà nước được hình thành do thực hiện quốc hữu hoá hay do đầu tư xây dựng mới bằng ngân sách Nhà nước; có đặc điểm là tài sản, vốn thuộc sở hữu Nhà nước, do Nhà nước quản lý, thực hiện phân phối theo lao động.
- Vai trò của kinh tế Nhà nước: Ngay cả trong thời kỳ quá độ, thành phần kinh tế này vẫn phải giữ vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế.
+ Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước không có nghĩa là thành phần kinh tế này phải chiếm tỷ trọng lớn mà là nó phải nắm giữ được các ngành kinh tế then chốt, các lĩnh vực kinh tế quan trọng như: hệ thống Ngân hàng, ngành Bưu chính viễn thông, các ngành công nghiệp nặng, hệ thống cơ sở hạ tầng...
+ Vai trò chi phối, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác đi vào định hướng phát triển kinh tế chung.
+ Vai trò là công cụ kinh tế, là thực lực kinh tế để Nhà nước thực hiện điều tiết kinh tế vĩ mô.
c2 - Thành phần kinh tế tập thể: tương ứng với hình thức sở hữu tập thể.
- Thành phần kinh tế này bao gồm các hợp tác xã trong các lĩnh vực: nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.. được hình thành dựa trên nguyên tắc tự nguyện và dần từ thấp đến cao. Thành phần kinh tế này dựa trên sở hữu tập thể vốn, tư liệu sản xuất, phân phối vừa theo lao động, vừa theo tài sản.
- Vai trò của kinh tế tập thể.
+ Cùng với kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể hợp thành nền tảng của nền kinh tế, đưa nền kinh tế đi vào định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Thành phần kinh tế tập thể tạo ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ (đặc biệt là nông sản, thủ công mỹ nghệ...) thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
+ Giải quyết làm việc cho nhân dân, nso đặc biệt có ý nghĩa trong việc giải quyết nạn thất nghiệp trá hình ở nông thôn Việt Nam.
c3 - Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ:
- Thành phần kinh tế này bao gồm kinh tế của những người sản xuất nhỏ: tiểu nông, tiểu thương... dựa trên chế độ tư hữu nhỏ và sử dụng lao động của chính bản thân và gia đình.
- Vai trò của thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ:
+ Do kinh tế cá thể tiểu chủ rất đa dạng đ nó thoả mãn được những nhu cầu rất đa dạng của thị trường.
+ Do quy mô sản xuất nhỏ đ phản ứng rất nhanh nhạy, linh hoạt với thị trường.
+ Kinh tế cá thể, tiểu thủ sử dụng được vốn lao động nhàn rỗi trong gia đình, tạo ra lượng hàng hoá và dịch vụ đáng kể cho xã hội.
c4- Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước:
- Thành phần kinh tế này bao gồm các xí nghiệp liên doanh, các công ty cổ phần dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp vừa của Nhà nước, vừa của nhà tư bản. Thực hiện phân phối theo tài sản và vốn đóng góp.
- Vai trò của kinh tế tư bản Nhà nước: trong thời kỳ quá độ, Đảng ta xác định thành phần kinh tế này giữ vai trò quan trọng.
+ Huy động được các nguồn vốn, sử dụng được nghệ thuật quản lý kinh doanh ở cả trong nước và của tư bản nước ngoài.
+ Tiếp thu được các công nghệ tiên tiến của thế giới thông qua hình thức chuyển giao công nghệ, là nơi áp dụng và tiếp thu nhiều nhất c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50007.doc