Đề tài Tình hình triển khai sản phẩm an sinh giáo dục của tổng công ty bảo việt Nhân Thọ

Bảo hiểm hỗn hợp cho trẻ em là một loại hình bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được nguyện vọng của nhiều người, thể hiện được tình cảm của cha mẹ với con cái, xây dựng quỹ tài chính độc lập để các khoản chi không ảnh hưởng đến nhau, là hành trang để cho con vững bước vào đời. Loại hình bảo hiểm này không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội thể hiện tính nhân văn cao cả. Nó bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành, tạo dựng cho trẻ em một tương lai vững chắc về mặt tài chính, thể hiện được tình thương yêu đối với con cái của các bậc cha mẹ. Vì vậy, ngay từ ngày đầu triển khai Tổng Công Ty Bảo Việt Nhân Thọ đã cho ra đời chương trình bảo hiểm dành cho trẻ em (sản phẩm bảo hiểm An Sinh Giáo Dục) và được đón nhận nồng nhiệt của khách hàng. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai loại hình sản phẩm này ở Việt Nam cũng gặp phải nhiều khó khăn trong các công tác khai thác, đánh giá rủi ro, công tác quản lý hợp đồng, cũng như trong công tác giám định và giải quyết quyền lợi bảo hiểm, marketing và phát triển sản phẩm. Điều trở ngại lớn nữa là hiện nay nhận thức về việc tham gia bảo hiểm đối với nhiều người dân ở Việt Nam chưa thật sự sâu sắc. Nhận thức được tầm quan trọng của sản phẩm An Sinh Giáo Dục cũng như quá trình triển khai sản phầm này của Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của Tổng Công Ty Bảo Việt NhânThọ” và đưa ra ý kiến nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của sản phẩm An Sinh Giáo Dục.

Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp thống kê sử dụng số liệu thu thập cùng các phương pháp tổng hợp, phân tích theo tư duy biện chứng. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 4 chương:

 

Chương 1: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ

Chương 2: Những nội dung cơ bản về sản phẩm An Sinh Giáo Dục

Chương 3: Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của Tổng Công Ty Bảo Việt Nhân Thọ

Chương 4: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của sản phẩm An Sinh Giáo Dục

 

doc71 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tình hình triển khai sản phẩm an sinh giáo dục của tổng công ty bảo việt Nhân Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU Bảo hiểm hỗn hợp cho trẻ em là một loại hình bảo hiểm nhân thọ đáp ứng được nguyện vọng của nhiều người, thể hiện được tình cảm của cha mẹ với con cái, xây dựng quỹ tài chính độc lập để các khoản chi không ảnh hưởng đến nhau, là hành trang để cho con vững bước vào đời. Loại hình bảo hiểm này không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính xã hội thể hiện tính nhân văn cao cả. Nó bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành, tạo dựng cho trẻ em một tương lai vững chắc về mặt tài chính, thể hiện được tình thương yêu đối với con cái của các bậc cha mẹ. Vì vậy, ngay từ ngày đầu triển khai Tổng Công Ty Bảo Việt Nhân Thọ đã cho ra đời chương trình bảo hiểm dành cho trẻ em (sản phẩm bảo hiểm An Sinh Giáo Dục) và được đón nhận nồng nhiệt của khách hàng. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai loại hình sản phẩm này ở Việt Nam cũng gặp phải nhiều khó khăn trong các công tác khai thác, đánh giá rủi ro, công tác quản lý hợp đồng, cũng như trong công tác giám định và giải quyết quyền lợi bảo hiểm, marketing và phát triển sản phẩm. Điều trở ngại lớn nữa là hiện nay nhận thức về việc tham gia bảo hiểm đối với nhiều người dân ở Việt Nam chưa thật sự sâu sắc. Nhận thức được tầm quan trọng của sản phẩm An Sinh Giáo Dục cũng như quá trình triển khai sản phầm này của Tổng công ty Bảo Việt Nhân Thọ, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài “Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của Tổng Công Ty Bảo Việt NhânThọ” và đưa ra ý kiến nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh của sản phẩm An Sinh Giáo Dục. Phương pháp nghiên cứu của đề tài là phương pháp thống kê sử dụng số liệu thu thập cùng các phương pháp tổng hợp, phân tích theo tư duy biện chứng. Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài được chia làm 4 chương: Chương 1: Khái quát về bảo hiểm nhân thọ Chương 2: Những nội dung cơ bản về sản phẩm An Sinh Giáo Dục Chương 3: Tình hình triển khai sản phẩm An Sinh Giáo Dục của Tổng Công Ty Bảo Việt Nhân Thọ Chương 4: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của sản phẩm An Sinh Giáo Dục Chương I Khái quát về bảo hiểm nhân thọ Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ: 1. Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm nhân thọ: 1.1. Trên thế giới: Bảo Hiểm Nhân Thọ là sự cam kết giữa người mua bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đó định trước xảy ra (người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến một thời điểm nhất định), còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn. Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro có liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ của con người. Đối tượng tham gia BHNT rất rộng, bao gồm mọi người ở các lứa tuổi khác nhau. Lịch sử ra đời của BHNT khá sớm. Hợp đồng BHNT đầu tiên trên thế giới ra đời năm 1583, do công dân Luân Đôn là ông William Gybbom tham gia. Phí bảo hiểm ông đóng lúc đó là 32 bảng Anh, khi ông chết trong năm đó, người thừa kế của ông được hưởng 400 bảng Anh. Năm 1759, Công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Philadelphia (Mỹ). Công ty này đến nay vẫn còn hoạt động, nhưng lúc đầu nó chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, ở Anh thành lập công ty bảo hiểm nhân thọ Equitable. Đây là công ty đầu tiên bán các hợp đồng bảo hiểm rộng rãi cho nhân dân và áp dụng nguyên tắc phí bảo hiểm không đổi trong suốt thời gian bảo hiểm. Năm 1812, một công ty bảo hiểm nhân thọ nữa được thành lập ở Bắc Mỹ. Năm 1860, bắt đầu xuất hiện hệ thống mạng lưới đại lý bán bảo hiểm nhân thọ. Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, 2 công ty khác: Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay. Cho đến nay bảo hiểm nhân thọ đã phát triển rất mạnh mẽ và đa dạng. Từ những loại hình nhân thọ cơ bản là Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn (Bảo hiểm tử kỳ), Bảo hiểm trọn đời, Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp, Bảo hiểm trợ cấp hưu trí, mỗi công ty bảo hiểm đều thiết kế những sản phẩm mang những đặc thù riêng để đáp ứng nhu cầu tài chính của từng khu vực dân cư và phù hợp với chính sách kinh tế, xã hội của từng quốc gia. 1.2 Tại Việt Nam: Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu khách quan của con người và ra đời từ rất lâu trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng ra đời tương đối muộn. Sự ra đời và phát triển của ngành bảo hiểm gắn liền với những sự kiện lịch sử của đất nước. Trước năm 1954, ở miền Bắc những người làm việc cho Pháp đã được bảo hiểm và một số gia đình đã được hưởng quyền lợi bảo hiểm của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ này. Các hợp đồng bảo hiểm này đều do các công ty bảo hiểm của Pháp trực tiếp thực hiện. Ở miền Nam, vào những năm 1970, đã có một công ty bảo hiểm nhân thọ  ra đời có tên là công ty bảo hiểm nhân thọ Hưng Việt. Công ty bảo hiểm này triển khai được một số sản phẩm bảo hiểm như: bảo hiểm nhân thọ trọn đời, bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 năm, 10 năm, 20 năm. Nhưng công ty mới ở giai đoạn đầu triển khai nên chưa có kết quả rõ nét. Năm 1987, Bảo Việt đã có đề án “Bảo hiểm nhân thọ và việc vận dụng vào Việt Nam”, nhưng vào lúc đó điều kiện đất nước còn gặp nhiều khó khăn đã không cho phép công ty Bảo Việt phát triển nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ. Thay cho bảo hiểm nhân thọ, năm 1990 Bộ Tài chính cho phép công ty Bảo Việt triển khai “Bảo hiểm sinh mạng con người thời hạn 1 năm”. Năm 1996, thực hiện chủ trương mở rộng, cung cấp các sản phẩm và dịch vụ tới các tầng lớp dân cư, Bảo Việt đã nghiên cứu và đưa ra thị trường dịch vụ bảo hiểm nhân thọ lần đầu tiên ở Việt Nam, thể hiện vai trò tiên phong của Bảo Việt trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Ngày 20/3/1996, Bộ Tài Chính đã chính thức quyết định cho phép Bảo Việt triển khai 2 sản phẩm: Bảo hiểm hỗn hợp nhân thọ và Bảo hiểm an sinh giáo dục. Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đầu tiên ra thị trường, đánh dấu sự khởi đầu cho chặng đường phát triển đầy hứa hẹn của BHNT ở Việt Nam. Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam ra đời và phát triển đến  nay đã được hơn 10 năm, từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm duy nhất kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, cho đến nay thị trường bảo hiểm nhân thọ đã phát triển sôi động và hấp dẫn rất nhiều các công ty bảo hiểm nước ngoài vào đầu tư và kinh doanh. Tính đến hết năm 2008, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam có các công ty bảo hiểm nhân thọ sau: 7 doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, bao gồm 01 doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước đó là Bảo Việt Nhân thọ, 01 doanh nghiệp liên doanh đó là Bảo Minh- CMG (nay là Công ty bảo hiểm nhân thọ Dai-ichi - Công ty 100% Vốn  nước ngoài của Nhật Bản), 5 doanh nghiệp 100% Vốn  đầu tư nước ngoài khác đó là các công ty bảo hiểm nhân thọ Manu Life, Prudential, AIA, ACE, Prevoir. Chi tiết xin xem bảng sau: Bảng 1: Danh sách các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam TT Tên doanh nghiệp bảo hiểm Năm thành lập Hình thức sở hữu Vốn điều lệ 1 Bảo Việt Nhân thọ Việt Nam 2004 Nhà nước 1.500 Tỷ đồng 2 Công ty TNHH Dai-ichi 1999 100% vốn nước ngoài 25 triệu USD 3 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam 1999 100% vốn nước ngoài 75 triệu USD 4 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Manulife 1999 100% vốn nước ngoài 25 triệu USD 5 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ AIA Việt Nam 2000 100% vốn nước ngoài 25 triệu USD 6 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ ACE life 2005 100% vốn nước ngoài 20 triệu USD 7 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Prevoir Việt Nam 2005 100% vốn nước ngoài 10 triệu USD Nguồn: Vụ bảo hiểm - Bộ tài chính Ngoài ra, sự góp mặt của rất nhiều văn phòng đại diện của các công ty bảo hiểm nhân thọ nước ngoài tại Việt Nam như: Great Estern (Singapore), Ping An (Trung Quốc), Cathay life (Đài Loan)... góp phần làm cho thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trở nên sôi động hơn, đó là dấu hiệu cho thấy một làn sóng đầu tư của nước ngoài mạnh mẽ trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ thời gian tới. 2. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ: Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải gánh chịu những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583, ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ (BHNT). Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như: - Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán... - Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động... - Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát... Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình... làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con người đã có nhiều biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro. + Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn ngừa hết được hậu quả. + Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con người phải đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt tài chính của gia đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá nhân. Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc sống con người. Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển của nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Ở Châu Á, những năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế thì trong năm 2008 doanh thu phí BHNT tại Việt Nam đạt 10.339 tỷ đồng, chiếm 0,88% GDP. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn. Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra được những cơ sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội văn minh". Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp, chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển. BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước. II. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản: 1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong: Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia thành 2 nhóm: 1.1 Bảo hiểm tử kỳ (còn được gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh mạng có thời hạn): loại hình bảo hiểm này được ký kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ số phí bảo hiểm đã đóng. Điều đó cũng có nghĩa là người bảo hiểm không phải thanh toán STBH cho người được bảo hiểm. Ngược lại, nếu cái chết xảy ra trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, thì người bảo hiểm phải có trách nhiệm thanh toán STBH cho người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định. Đặc điểm: - Thời hạn bảo hiểm xác định - Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời - mức phí bảo hiểm thấp vì không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho người được bảo hiểm Mục đích: - Đảm bảo các chi phí mai táng chôn cất - Bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn - Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của người được bảo hiểm 1.2 Bảo hiểm nhâm thọ trọn đời (Bảo hiểm trường sinh) Loại hình bảo hiểm này cam kết chi tra cho người thụ hưởng bảo hiểm một STBH đã được ấn định trên hợp đồng, khi người được bảo hiểm chết vào bất cứ lúc nào kể từ ngày ký hợp đồng. Phương châm của người bảo hiểm ở đây là: “ bảo hiểm đến khi chết”. Ngoài ra, có một số trường hợp loại hình bảo hiểm này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay cả khi họ sống đến 100 tuổi. Đặc điểm: - STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết - Thời hạn bảo hiểm không xác định - Phí bảo hiểm có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm - Phí bảo hiểm cao hơn so với bảo hiểm sinh mạng có thời hạn, vì rủi ro chết chắc chắn sẽ xảy ra, nên STBH chắc chắn phải chi trả. - BHNT trọn đời là loại hình bảo hiểm dài hạn, phí đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt quá trình bảo hiểm, do đó đã tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng bảo hiểm vì chắc chắn người bảo hiểm sẽ chi trả STBH. Mục đích: - Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất - Bảo đảm thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình - Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau. 2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (còn gọi là bảo hiểm sinh kỳ): Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người được bảo hiểm cam kết chi trả những khoản tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Đặc điểm: - Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định hoặc cho đến khi chết - Phí bảo hiểm đóng 1 lần - Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định Mục đích: - Đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao sức yếu - Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già - Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời Như vậy, với một khoản phí bảo hiểm phải nộp khi ký hợp đồng mà người tham gia lựa chọn, người bảo hiểm sẽ thanh toán một khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng cho người được bảo hiểm. Nếu khoản trợ cấp này thanh toán định kỳ cho đến hết đời, người ta gọi là “ Bảo hiểm niên kim nhân thọ trọn đời”. Nếu chỉ được thanh toán trong một thời kỳ nhất định người ta gọi là “bảo hiểm niên kinh nhân thọ tạm thời”. Loại hình bảo hiểm này rất phù hợp với những người khi về hưu hoặc những người không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ BHXH đến độ tuổi tương ứng với độ tuổi về hưu đăng ký tham gia, để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng tháng. Vì vậy, tên gọi “bảo hiểm tiền trợ cấp hưu trí”, “bảo hiểm tiền hưu”, “niên kim nhân thọ” v.v... được các công ty bảo hiểm vận dụng linh hoạt. 3. Bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp: Thực chất của loại hình bảo hiểm này là bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro đang xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới. Đặc điểm: - STBH được trả khi: hết hạn hợp đồng hoặc người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn bảo hiểm - Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm....) - Phí bảo hiểm thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm. - Có thể chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. Mục đích: - Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân - Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ - Dùng làm vật thế chấp vay vốn hoặc khỏi nghiệp kinh doanh.. Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hoá loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi lợi nhuận, có lợi nhuận và các loại hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế. 4. Các điều khoản bảo hiểm bổ sung: Khi triển khai các loại hình BHNT, nhà bảo hiểm còn nghiên cứu, đưa ra các điểu khoản bổ sung để đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân. Có các điều khoản bổ sung sau đây thường hay được vận dụng: - Điều khoản bổ sung bảo hiểm nằm viện và phẫu thuật. - Điều khoản bổ sung bảo hiểm tai nạn. - Điều khoản bổ sung bảo hiểm sức khoẻ. Mục đích tham gia bảo hiểm ở đây nhằm có được những khoản tài chính nhất định để trợ giúp thanh toán các khoản chi phí y tế lớn và góp phần giải quyết, lo liệu các nhu cầu sinh hoạt ngay trong thời gian điều trị. Ngoài ra, trong một số hợp đồng BHNT, các công ty bảo hiểm còn đưa ra những điểm bổ sung khác nhau như: Hoàn phí bảo hiểm, miễn thanh toán phí khi bị tai nạn, thương tật v.v... nhằm tăng tính hấp dẫn để thu hút người tham gia. Mặc dù có mức phí cao hơn, nhưng các HĐBH nhân thọ có các điều khoản bổ sung đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tham gia bảo hiểm. Chương II Những nội dung cơ bản về sản phẩm An Sinh Giáo Dục I. Quá trình hình thành và phát triển của sản phẩm An Sinh Giáo Dục: Theo quyết định số 296/TC/TCNH ngày 20/03/1996 của Bộ tài chính, khi bước đầu triển khai loại hình BHNT, Bảo Việt đã tiến hành triển khai hai loại hình bảo hiểm đó là: Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm, 10 năm (BVNA1, BVNA2/1996). Bảo hiểm trẻ em: chương trình bảo đảm cho trẻ em đến tuổi trưởng thành (BVNA3/1996) (tên ban đầu của sản phẩm An Sinh Giáo Dục). Về bản chất sản phẩm An Sinh Giáo Dục thuộc nhóm bảo hiểm hỗn hợp, nghĩa là loại hình bảo hiểm cả trong trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống, yếu tố tiết kiệm và rủi ro đan xen lẫn nhau. Đối với sản phẩm này đối tượng được bảo hiểm ở đây là trẻ em cho nên tính tiết kiệm được đề cao hơn tính rủi ro vì khi mua bảo hiểm này các bậc phụ huynh hoàn toàn không mong muốn rủi ro xảy ra đối với con em mình mà chỉ mong muốn đó là một khoản tiết kiệm dành cho con cái sau này. Trong sản phẩm bảo hiểm này có một số đặc tính sau: - Khi trẻ em được bảo hiểm đến tuổi trưởng thành (năm 18 tuổi) Bảo Việt sẽ trả số tiền đã cam kết trong hợp đồng. - Nếu trẻ em không may bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, Bảo Việt ngừng thu phí và trả trợ cấp mỗi năm bằng 1/4 số tiền bảo hiểm cho đến năm trẻ em tròn 18 tuổi. - Nếu trẻ em không may bị chết, Bảo Việt Nhân Thọ sẽ hoàn trả 80 % số phí đã nộp. - Nếu người chủ hợp đồng bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn, công ty sẽ ngừng thu phí bảo hiểm và hợp đồng vẫn tiếp tục có hiệu lực. - Ngoài số tiền bảo hiểm, tuỳ thuộc vào kết quả đầu tư công ty bảo hiểm sẽ trả cho người được bảo hiểm một khoản lãi trích từ kết quả kinh doanh tại nghiệp vụ này vào ngày kết thúc hợp đồng được gọi là bảo tức. -Trong thời hạn bảo hiểm khi hợp đồng có hiệu lực từ 2 năm trở lên, người tham gia bảo hiểm có thể huỷ bỏ hợp đồng và nhận được một số tiền gọi là giá trị giải ước. Kể từ ngày 15/5/1998, công ty Bảo Việt nhân thọ dừng bán sản phẩm (BVNA3/1996).Thế vào đó công ty triển khai sản phẩm mới Bảo hiểm An Sinh Giáo Dục (BVNA6/1998). Thực chất đây là một bước cải tiến hoàn thiện hơn các điều khoản của sản phẩm BVNA3/1996, sản phẩm bảo hiểm mới về cơ bản không khác sản phẩm BVNA3/1996 là mấy. Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa 2 sản phẩm này đó là quy định về người tham gia bảo hiểm : Sản phẩm BVNA3/1996 là: Công dân Việt Nam tuổi từ 18-60, là bố, mẹ, ông, bà hay người đỡ đầu của người được bảo hiểm , đồng thời là người ký hợp đồng và nộp phí bảo hiểm. Sản phẩm BVNA6/1998 là: Là công dân Việt Nam trong độ tuổi từ 18-60, là người kê khai giấy yêu cầu bảo hiểm, đồng thời là người ký hợp đồng và nộp phí bảo hiểm. Sang năm 2001, dựa trên cơ sở sản phẩm bảo hiểm cũ (BVNA6/1998) công ty đã cho ra đời sản phẩm mới bảo hiểm An Sinh Giáo Dục (BVNA9/2001) thay thế cho cho sản phẩm (BVNA6/1998). Sản phẩm BVNA9/2001 về cơ bản dựa trên cơ sở sản phẩm BVNA6/1998, nhưng có sự khác nhau đáng kể: Về người được bảo hiểm: Sản phẩm BVNA6/1998: người được bảo hiểm là trẻ em Việt Nam trong độ tuổi từ 1 đến 13 tuổi. Sản phẩm BVNA9/2001: người được bảo hiểm là trẻ em từ 1 đến 13 tuổi. Về tuổi người được bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm: Sản phẩm BVNA6/1998: tuổi người được bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm vào ngày sinh nhật ngay sau ngày hợp đồng phát sinh hiệu lực. Sản phẩm BVNA9/2001: tuổi người được bảo hiềm và người tham gia bảo hiểm vào ngày sinh nhật gần nhất với ngày hợp đồng phát sinh hiệu lực. Thời gian chờ đối với hậu quả do tai nạn: Sản phẩm BVNA6/1998: 1 ngày. Sản phẩm BVNA9/2001: không có. Hoàn phí trong trường hợp người tham gia bảo hiểm chết trong thời gian chờ: Sản phẩm BVNA6/1998: hoàn lại 80% số phí đã nộp Sản phẩm BVNA9/2001: hoàn lại 100% số phí đã nộp Sử dụng lãi chia: Sản phẩm BVNA6/1998: một phương thức đó là nhận số tiền bảo hiểm Sản phẩm BVNA9/2001: có thể chọn một trong ba phương thức tích luỹ lãi chia, sử dụng lãi chia để nộp phí bảo hiểm, nhận lãi chia. Thời gian gia hạn nộp phí: Sản phẩm BVNA6/1998: 30 ngày không tính lãi, 40 ngày sau có tính lãi. Sản phẩm BVNA9/2001: 60 ngày (không tính lãi cho phí nợ). Ngoài ra, đối với sản phẩm BVNA9/2001, công ty còn bổ sung một số quy định về: Thời hạn hạn bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm Về nộp phí trước Vay phí tự động Vay theo hợp đồng Khôi phục hiệu lực hợp đồng. Giảm số tiền bảo hiểm Khôi phục hiệu lực hợp đồng Đến đầu năm 2007 công ty ngừng triển khai sản phẩm (BVNA9/2001) và cho ra đời sản phẩm An Sinh Giáo Dục (BVNA23P/2007) thay thế cho sản phẩm cũ. Đây là sản phẩm bảo hiểm An Sinh Giáo Dục mới nhất đang được công ty triển khai hiện nay và có nhiều điểm khác biệt so với các sản phẩm BVNA9/2001. Cụ thể như sau: Về người được bảo hiểm: Sản phẩm BVNA9/2001: Là trẻ em từ 1-13 tuổi vào thời điểm phát sinh hiệu lực hợp đồng. Sản phẩm BVNA23P/2007: Là trẻ em không quá 15 tuổi vào thời điểm phát sinh hiệu lực hợp đồng. Bên mua bảo hiểm: Sản phẩm BVNA23P/2007: (gọi là bên mua bảo hiểm) là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, từ đủ 18 đến 60 tuổi vào thời điểm phát sinh hiệu lực hợp đồng và không quá 70 tuổi khi đáo hạn hợp đồng, có yêu cầu và đóng phí bảo hiểm. Sản phẩm BVNA9/2001: (gọi là người tham gia bảo hiểm) là người từ 18 đến 60 tuổi vào thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng, có yêu cầu và nộp phí bảo hiểm. Thời hạn bảo hiểm: Sản phầm BVNA23P/2007: từ 8-23 năm, có thể đáo hạn khi người được bảo hiểm đạt độ tuổi 18-23 năm. Sản phẩm BVNA9/2001: từ 5-17 năm, có thể đáo hạn khi người được bảo hiểm đạt 18 tuổi. Quyền lợi gia tăng số tiền bảo hiểm: Sản phẩm BVNA23P/2007: Gia tăng thêm 5% trên số tiền bảo hiểm gốc kể từ ngày kỷ niệm hợp đồng thứ hai đến ngày kỷ niệm hợp đồng trước ngày đáo hạn Sản phẩm BVNA9/2001: Không gia tăng Quyền lợi bảo hiểm đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc111230.doc
Tài liệu liên quan