VoIP – Voice over IP là một công nghệ mới của dịch vụ thoại, nằm ngay trong mạng Internet và sử dụng giao thức IP để giao tiếp với thiết bị đầu cuối thoại. Công nghệ này là hình thức mới của dịch vụ truyền thông thoại, về kỹ thuật chúng ta có thể nói chuyện với nhau không chỉ bằng dịch vụ thoại công cộng (PSTN) mà còn qua cả mạng máy tính với tốc độ truyền dữ liệu cao; Về mặt ứng dụng, khi ở xa hay ở gần không chỉ chúng ta nghe giọng nói mà còn có cả hình ảnh của nhau nếu muốn. Hiện nay dịch vụ này đang là sự quan tâm rất lớn của các nhà khai thác dịch vụ Internet bởi chi phí nhỏ, giá cước rẻ. Tuy nhiên VoIP không thể tránh khỏi những khó khăn về chất lượng dịch vụ do bản chất IP là rộng khắp. Chính vì thế bản Đồ án Tốt Nghiệp của em đã tìm hiểu về công nghệ thoại Internet này và nghiên cứu chất lượng dịch vụ thoại như sau:
Phần một: Mạng Internet và Công nghệ IP: phần này em tìm hiểu khái quát mạng Internet, các dịch vụ và giao thức IP – cấu trúc, hoạt động và công nghệ IP mới. Ngoài ra còn giới thiệu về mạng điện thoại công cộng trên mạng Viễn Thông Việt Nam.
Phần hai: Công nghệ Voice over IP: mô hình, các giao thức liên quan, hoạt động của mạng
Phần ba: Chất lượng dịch vụ và phươnămg pháp đánh giá chất lượng dịch vụ VoIP: đó là các phương pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý mạng và dịch vụ VoIP tại Việt Nam.
72 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu về công nghệ thoại internet và nghiên cứu chất lượng dịch vụ thoại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
Mạng Internet và công nghệ IP Lịch sử của mạng Internet bắt đầu từ mạng máy tính vào những năm 1960. Một cơ quan của Bộ Quốc Phòng Mỹ, cơ quan quản lý dự án nghiên cứu phát triển (ARPA- Advanced Research Projects Agency) đã đề nghị liên kết bốn điểm đầu tiên vào tháng 7 năm 1968. Bốn địa điểm đầu tiên đó là viện nghiên cứu Stamform, trường đại học tổng hợp California ở Log Angeles, UCSanta Barbara và Trờng Đại Học Tổng Hợp Utah.
Trong thuật ngữ ngày nay, chúng ta có thể gọi mạng mà ngời ta đã xây dựng như trên là mạng Liên Khu Vực (Wide Area Network) hay WAN (mặc dù nó nhỏ hơn rất nhiều). Bốn địa điểm trên được nối thành mạng vào năm 1969 đã đánh dấu sự ra đời của Internet ngày nay: Mạng được biết đến dưới cái tên ARPANNET đã hình thành. Giao thức cơ sở có liên lạc trên Internet là TCP/IP.
Buổi đầu, máy tính và đường liên lạc có khâu xử lý rất chậm, với đường dây dài thì khâu chuyển tín hiệu nhanh nhất là 50kbit/giây. Số lượng máy tính nối vào mạng rất ít (chỉ 200 máy chủ vào năm 1981).
ARPANET càng phát triển khi càng có nhiều máy nối vào - rất nhiều trong số này là từ các cơ quan của Bộ Quốc Phòng hoặc những trường Đại Học nghiên cứu với các đầu nối vào Bộ Quốc Phòng. Đây là những giao điểm trên mạng. Trong khi ARPANET đang cố gắng chiếm lĩnh mạng quốc gia thì một nghiên cứu tại trung tâm nghiên cứu Xeroc Corporation’s Palo Alto đã phát triển một kỹ thuật được sử dụng trong mạng cục bộ là Ethernet.
Theo thời gian, Ethernet trở nên là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để cung cấp một mạng cục bộ. Trong thời gian này, DARPA(đặt lại tên từ ARPA) chuyển sang hợp nhất TCP/IP vào version hệ điều hành UNIX của Trờng Đại học California ở Berkeley. Với sự hợp nhất như vậy tạo nên một thế hệ mạnh trên thị trường, những trạm làm việc độc lập sử dụng UNIX, TCP/IP cũng có thể dễ dàng xây dựng vào phần mềm hệ điều hành, và những nhà cung cấp máy tính như SUN cũng chế tạo một cửa cho Ethernet. TCP/IP trên Ethernet đã trở thành một cách thức thông dụng để trạm làm việc nối đến trạm khác.
Trong thập kỷ 1980, máy tính cá nhân được sử dụng rộng rãi trong các Công ty và Trường Đại học trên thế giới. Mạng Ethernet kết nối với các PC trở thành phổ biến. Các sản phẩm phần mềm thương mại cũng đã ra những chương trình cho phép máy PC và máy UNIX giao tiếp cùng một ngôn ngữ trên mạng.
Vào thập kỷ 1980, giao thức TCP/IP được dùng trong một số kết nối khu vực-khu vực (liên khu vực) và cũng được sử dụng cho các mạng cục bộ và mạng liên khu vực (Campus wide). Giai đoạn này tạo nên sự bùng nổ phát triển.
Thuật ngữ “Internet” xuất hiện lần đầu vào khoảng năm 1974 trong khi mạng vẫn được gọi là ARPANET cho đến năm 1980, khi Bộ quốc phòng Mỹ quyết định tách riêng phần mạng về quân sự thành “MILNET”. Cái tên ARPANET vẫn đợc sử dụng cho phần mạng (phi quân sự) còn lại dành cho các trường đại học và cơ quan nghiên cứu. Vào thời điểm này, ARPANET (hay Inetrnet) còn ở quy mô rất nhỏ.
Mốc lịch sử quan trọng của Inetrnet được chọn vào giữa thập kỷ 1980, khi tổ chức khoa học quốc gia Mỹ NSF thành lập mạng kiên kết các trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET. Nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang NSFNET và do đó sau gần 20 năm hoạt động ARPANET không còn hiệu quả nữa và đã ngừng hoạt động vào khoảng năm 1990.
Sự hình thành mạng backbone của NSFNET và những mạng vùng khác đã tạo một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của Internet. Tới năm 1995, NSFNET thu lại thành một mạng nghiên cứu. Internet thì tiếp tục phát triển không ngừng.
2. Khái quát về mạng Internet.
Internet có thể hình dung là một thành phố bao gồm các quận, huyện, phường, xã... có phong cảnh, có kiến trúc chặt chẽ, có văn hoá, tin tức, ca nhạc, điện ảnh, giải trí, thể thao, thời tiết... các lĩnh vực khoa học, xã hội thương mại kỹ thuật, giáo dục, y học... Nhưng Inetrnet không phải là một chương trình (program), phần cứng (hardware), phần mềm (software), nó bao gồm tất cả các chương trình mà ở đó các chương trình khác nhau phục vụ cho vấn đề khác nhau.
Xét ở một khía cạnh khác, Ineternet có thể được coi là một trong các mạng định hướng gói (packet oriented). Không chỉ mạng Ethernet mà các mạng công cộng như X.25 cũng có thể nằm trong Internet. Để thông tin liên lạc trong mạng với nhau cho dù là đơn giản nhất cũng đều phải tuân theo những quy tắc nhất định và người ta gọi đó là giao thức. Có ba loại giao thức liên quan đến Internet:
IP: Giao thức Internet (Protocol Internet), tương ứng với lớp thứ 3 của OSI. Giao thức này đóng gói dữ liệu và định tuyến trên Internet.
TCP: Giao thức điều khiển truyền dẫn, tương ứng với lớp thứ 4 của OSI.
Hai giao thức trên cấu thành tập hợp giao thức điều khiển truyền dẫn và giao thức Internet (TCP/IP protocol suice).
Các giao thức ứng dụng: tương ứng với các lớp thứ 5ữ7 của OSI như giao thức UDP (giao thức dùng gói dữ liệu).
Truy nhập vào Internet có thể qua mạng khác nhau hoặc qua đường truy nhập cố định. Những người muốn đa thông tin trên Internet (thí dụ qua WWW) có thể kết nối đường cố định.
Nhóm đặc trách kỹ thuật Internet (Internet Engineering Task Force) ở Mỹ chịu trách nhiệm về giao thức Internet. Trách nhiệm về phát triển WWW lại thuộc về một cơ quan của Mỹ, gọi là W3C.
IP: Một trong những nhiệm vụ chủ yếu của IP là gán địa chỉ. Các thành phần của Internet gồm các máy tính trong đó có máy chủ (host) kết nối thường xuyên, có các giao thức ứng dụng (thí dụ cho các WWW) và các máy tính truyền thông (tức là các bộ định tuyến - router). Mỗi thành phần này có ít nhất một địa chỉ. Trong Internet tên máy chủ là “chìa khoá” dùng để xác định tên của các máy tính mà bạn muốn tìm.
Ví dụ : Gopher.msu.edu : là tên của máy chủ có Gopherserver chính ở Đại học Michigan (Mỹ).
Mỗi máy tính đều được gán địa chỉ IP- một địa chỉ bằng số có vai trò tương tự như số điện thoại.
Ví dụ: Máy tính có tên gopher.msu.edu đợc gán địa chỉ IP là 35.8.2.61.
Tại sao một máy tính cần hai tên? Bởi vì địa chỉ IP bằng số, chúng được hiểu và thao tác dễ dàng bởi phần cứng và phần mềm lo việc chuyển tin trên Internet. Nhưng các địa chỉ số không thích hợp cho việc sử dụng của con người-gopher.msu.edu dễ nhớ hơn nhiều so với địa chỉ IP bằng số. Như thế địa chỉ IP thích hợp với mày tính hơn, và tên máy theo tên vùng/miền - tên miền (Domainame, cũng đợc gọi là tên vùng) thích hợp với con ngời. Do cả hai kiểu tên đợc sử dụng, phải có cơ chế dịch từ tên miền sang tên địa chỉ IP.
Dưới đây là một ví dụ về những tên miền tương ứng với địa chỉ IP như thế nào:
Tên máy chủ
Địa chỉ IP
gopher.msu.edu
35.8.2.61
msu.edu
35.8.2.2
Home.vnn.net
203.162.0.12
Địa chỉ IP bao giờ cũng gồm 4 nhóm, các con số này đợc biểu diễn như đã trình bày: 4 phần giá trị thập phân được phân cách bởi các dấu chấm. Mỗi phần của địa chỉ IP là một giá trị trong khoảng 0ữ255, và nó được biểu diễn bằng 1byte trên bộ nhớ máy tính. Như thế địa chỉ IP về mặt lý thuyết có thể chạy từ 0.0.0.0 đến 255.255.255.255.
Trái lại, tên miền không nhất thiết 4 phần. Chúng có thể chỉ có 2 phần:
+Một vùng mức “đỉnh” chẳng hạn như “edu” hay “com” (thờng dành để chỉ thể loại của tổ chức có máy chủ).
Ví dụ : “edu” (education): Dành cho tổ chức giáo dục
+Tên miền con (“msu” trong ví dụ: “msu.edu”) : Cả tên không quá 255 ký tự, và mỗi phần tên không quá 63 ký tự.
Công việc của dịch vụ tên miền(Domain Name Servece) là chuyển tên thành địa chỉ IP. Khi bạn yêu cầu một gopher client để tiếp xúc với msu.edu, dịch vụ tên miền sẽ chuyển tên chủ đó thành địa chỉ IP tương ứng.
Cách ấn định chỉ IP: Địa chỉ IP bao gồm 4 cụm số tương ứng độc nhất với một máy tính trên Internet. Địa chỉ IP được gán theo một sơ đồ có chủ định cho phép các mạng lớn quản lý số lớn địa chỉ và các mạng nhỏ quản lý những phần nhỏ địa chỉ IP còn trống. Tương tự hãy hình dung rằng một công ty điện thoại cho phép những tổ chức lớn gán những số liệu điện thoại trong phạm vi “code” một vùng và cho phép những tổ chức nhỏ gán những số trong phạm vi một tổng đài điện thoại. Các dịch vụ đăng ký quốc tế NIC cho phép kiểm tra chắc chắn các địa chỉ IP của các tổ chức lớn như các mạng vùng.
Địa chỉ IP được chia thành nhiều loại. Cụm số bên trái của địa chỉ IP xác định lớp.
Mạng lớp A gồm những số từ 0ữ127. Về mặt lý thuyết lớp A có thể có 16.777.216 máy chủ.
Mạng lớp B gồm những số từ 128ữ191. Về mặt lý thuyết lớp B có thể có 65.536 máy chủ.
Mạng lớp C gồm những số từ 192ữ223 và mỗi mạng có thể có 256 máy chủ.
Internet là mạng của các loại mạng. Mỗi bộ phận của mạng có một quản trị viên mạng. Gán địa chỉ IP là một trong những công việc của quản trị viên. Trong thực tế, cơ chế gán địa chỉ IP quan trọng đối với quản trị viên và ít quan trọng đối với người dùng. Quản trị viên còn phải chọn (hay duyệt) tên miền cho các máy tính. Quản trị viên ghi nhận cả địa chỉ IP lẫn tên miền của các máy (cùng những thông tin thích đáng khác) trong server tên cục bộ.
Các chức năng chủ yếu của IP là:
+ Định tuyến nối một máy tính truy cập với một máy tính ứng dụng theo số IP đã đăng ký.
+ Kiểm soát lỗi.
TCP có những nhiệm vụ chính như sau.
+ Sắp xếp lại các gói nhận được như thứ tự ban đầu.
+ Kiểm soát lỗi và sửa lỗi.
+ Kiểm soát luồng tin giữa các host.
Internet nối và chục ngàn mạng chuyển mạch gói trên toàn thế giới, tất cả các mạng này đều sử dụng giao thức Internet (IP). Internet được phát triển rộng rãi không có một kế hoạch chung, không có một thực thể nào có thể kiểm soát hoặc ra lệch cho toàn hệ thống.
3. Công nghệ IP.
3.1. Tổng quan.
Việc thực hiện truyền đa tin tức trên mạng Internet dựa trên giao thức TCP/IP có nghĩa là các máy tính kết nối đến mạng cần phải có một số hiệu để nhận dạng, số hiệu này được gọi là địa chỉ IP của máy tính đó. Tin tức truyền đa trên mạng được thể hiện dưới dạng các gói tin, mỗi gói tin đều được gán các địa chỉ IP của máy tính cần nhận thông tin đó. Trong công nghệ IP một vấn đề đáng quan tâm nữa là các bộ định tuyến, để các gói tin đến đích một cách chính xác cần phải thực hiện việc định tuyến (router). Do các máy tính trong mạng đều có một địa chỉ IP duy nhất nên các bộ router sẽ tính toán và tìm ra hướng truyền phù hợp.
3.2. Công nghệ IP version 6 (IP phiên bản 6).
IP version 6 (IPv.6) là phiên bản mới của giao thức Internet vốn đã trở nên hết sức phổ biến với chúng ta ngày nay, là giao thức Internet Protocol (IP hay TCP/IP). Sự ra đời của IPv.6 bắt nguồn từ chỗ người ta phát hiện ra những vấn đề nảy sinh trong mạng IP khi mà Internet đã phát triển vượt bậc. Bởi vậy IPv.6 được đưa ra như một giải pháp cho những vấn đề trên cũng như để tạo ra giao thức ưu việt hơn giao thức TCP/IP.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng bằng cách sử dụng giao thức IP phiên bản 4 hiện nay rõ ràng không đạt hiệu quả cao. Bởi vì tại thời điểm đưa ra giao thức IP, những nhà thiết kế và quy hoạch mạng đã cho rằng con số 4 tỷ nút mạng (các địa chỉ IP của máy tính) có thể cùng trao đổi thông tin với nhau là quá đủ cho mạng truyền thông cho dù có phân các nút mạng trên thành các lớp A, B, C đi chăng nữa. Tuy nhiên gần 75% trong số địa chỉ này đã bị chiếm giữ bởi những người khổng lồ trong viễn thông như MIT hay AT&T. Các công ty này đều có ở vị trí A trong các phân lớp IP, mỗi hãng hiện nay đang điều khiển khoảng hơn 16 triệu địa chỉ. Bởi vậy các công ty khác ngày nay chỉ có thể chia sẻ với nhau những địa chỉ thuộc lớp C mà thôi .
Ngược lại với IPv.4 (chỉ sử dụng 32 bít dể đánh địa chỉ), IPv.6 sử dụng đến 128 bít do đó có thể đa số địa chỉ IP lên tới 340 tỷ tỷ tỷ tỷ địa chỉ. Nói các khác nếu mỗi người trên hành tinh chúng ta đều sở hữu một mạng IPv.6 với 18 tỷ nút thì IPv.6 vẫn thừa khả năng để đánh địa chỉ cho tất cả các nút đó.
Vấn đề thứ hai xảy ra đối với giao thức IPv.4 là khó khăn của việc chọn đường trong một hệ thống mạng luôn thay đổi như Internet. Vấn đề này càng trở nên rõ ràng khi chúng ta xét đến các chức năng của internet tại những mức ứng dụng cao nhất. Hiện tại, người ta sử dụng hai giải pháp sau để giải quyết vấn đề trên:
Sử dụng những kỹ thuật để chuyển đổi địa chỉ (Network Address Translation) để cải thiện khả năng đánh địa chỉ.
Sử dụng cơ chế chọn đường liên mạng kiểu không phân lớp (Classles Interdomain Routing) để giải quyết vấn đề chọn đường.
Tuy nhiên, cả hai giải pháp trên mới chỉ là tạm thời. Bởi vậy người ta đã đưa ra IPv.6 để giải quyết triệt để các vấn đề trên.
Khả năng đánh giá địa chỉ cũng như chọn đường chỉ là hai trong số rất nhiều tính năng của IPv.6. Những khả năng này phát triển dựa trên những nhu cầu của các doanh nghiệp cho môt cấu trúc mạng có khả năng chuyển đổi cao, tăng cường bảo mật và toàn vẹn dữ liệu, tích hợp với các tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ có khả năng tự động cấu hình mạng, tích hợp với công nghệ di động, truyền thông dữ liệu...
Tại hội nghị thường niên của SIGCOMM năm 1999, bà Sandy Fraser - giám đốc kỹ thuật của AT&T đã bày tỏ mối quan tâm của mình tới cấu trúc mạng Internet hiện nay. Liêu có đủ khả năng để đáp ứng tốc độ phát triển của Viễn thông và Công nghệ truyền thông như hiện nay hay không? Tại sao chúng ta chưa chuyển đổi từ IPv.4 sang IPv.6 ? Phải chăng tổ chức chịu trách nhiệm nghiên cứu và phát triển Internet IETF đang tỏ ra cứng nhắc trong hoạt động của mình?
Một trong những vấn đề xung quanh việc phỏ cập IPv.6 là chúng ta không thể xác định được khi nào chúng ta mới có thể đặt dấu chấm hết cho các địa chỉ kiểu IPv.4. Những người lạc quan cho rằng IPv.4 sẽ chỉ còn tồn tại trong vài thập kỷ nữa mà thôi. Bởi vì có một thức tế là những quốc gia chỉ được phân phối địa chỉ IPv.4 như: Trung Quốc, Nhật Bản.... lại đang là những nước có nhu cầu về địa chỉ IP tăng mạnh trong thời gian tới. Những nhà cung cấp dịch vụ IP thế hệ mới như: Công nghệ điện thoại số di động và những nhà cung cấp thiết bị mạng cũng nói rằng hộ cần tới hàng triệu địa chỉ IP cho hàng triệu thiết bị tới của họ. Chúng ta cũng cần ghi nhận những động thái tích cực từ phía IETF, nhóm nghiên cứu về giao thức IP thế hệ mới của tổ chức này đang cố gắng đưa ra những đặc tả về IPv.6 cũng như thiết lập ra một diễn đàn mới nhằm mục đích phát triển giao thức này.
3.3. Chuyển đổi từ IPv.4 sang IPv.6.
Một yêu cầu tối cần thiết với IPv.6 là trước khi có thể chuyển đổi hoàn toàn mạng Internet sang sử dụng IPv.6, thì giao thức này phải “chung sống hoà bình” với IPv.4. Thực tế thì IPv.6 hoàn toàn có thể hỗ trợ khả năng này, chúng ta có thể nâng cấp cấu trúc mạng theo kiểu nâng cấp từng nút mạng rồi mới nâng cấp router, hay ngược lại nâng cấp router lên IPv.6 rồi mới nâng cấp nút mạng. Thậm chí chúng ta có thể chỉ nâng cấp một số nút mạng và router, số còn lại giữ nguyên.
Cho đến khi nhà cung cấp dịch vụ có thể xây dựng được Backbone IPv.6 riêng và bắt đầu cung cấp các dịch vụ IPv.6, các nút mạng đầu cuối vẫn trao đổi thông tin qua mạng IPv.4 điều này có thể được thực hiện dễ dàng bởi các gói tin IPv.6 được đóng gói trong phần dữ liệu của IPv.4. Tại một điểm dừng, gói tin IPv.4 sẽ được phân tích để lấy lại gói tin IPv.6 rồi tiếp tục được gửi cho tới điểm đích.
3.4. Những thuận lợi của mạng IP thế hệ mới sử dụng IPv.6.
Với việc đáp ứng được các nhu cầu doanh nghiệp về khả năng tương tác dữ liệu đa phương tiện cũng như hỗ trợ cho các ứng dụng truyền thông chất lượng cao, IPv.6 đang là giải pháp đầy triển vọng cho các liên mạng của các doanh nghiệp nói riêng cũng như toàn Internet nói chung.
Tính tin cậy và khả chuyển:
Môt trong những khác biệt quan trọng giữa mạng Internet ngày nay và mạng Internet trong tương lai sẽ là độ tin cậy của nó Internet sẽ trỡ nên luôn sẵn sàng khi chung ta muốn sử dụng nó. Người dùng sẽ dễ dàng kết nối vào mạng mà không cần thực hiện một loạt các thủ tục quay số đăng nhập phức tạp như ngày nay nữa và họ có thể truy nhập vào bất cứ side nào hay môt ứng dụng nào trên mạng mà không phải quan tâm đến những vấn đề như biến đổi thông lượng mạng dẫn đến mất kết nối.
Tính an toàn và bảo mật:
Người dùng trong mạng IP thế hệ mới có thể hoàn toàn tin cậy vào những dữ liệu trên mạng giống như những dữ liệu mà họ lưu trữ trong tủ hồ sơ của mình với sự trợ giúp của thông tin số lúc đó đã trở nên phổ biến, các dữ liệu của người dùng sẽ được bảo mật và lưu trữ hết sức an toàn. Đặc biệt, chúng ta sẽ có được những phương pháp đảm bảo an toàn để:
Bảo đảm tính bí mật của dữ liệu được gửi đi trên mạng Internet.
Bảo đảm rằng những thông điệp được gửi đi và nhận về hoàn toàn chính xác.
Lưu trữ và bảo đảm an toàn cho các thông tin cá nhân trên mạng.
Cung cấp chữ ký điện tử cho các văn bản lưu hành trên mạng.
Bảo đảm rằng các giao dịch sẽ được thực hiện đúng với thời gian quy định.
Chất lượng dịch vụ:
Cả IPv.4 và IPv.6 đều hỗ trợ những trường trong phần header để đảm bảo cung cấp các dịch vụ khác biệt đơn giản. Cả IPv.4 và IPv.6 đều có thẻ hỗ trợ giao thức lưu trữ tài nguyên cho những dịch vụ tương đối phức tạp hơn. Khuôn dạng gói tin trong IPv.6 bao gồm một trường 24 bít để xác định trafficflow cho phép các nhà cung cấp có thể thực hiện những tiêu chuẩn chất lượng dịch vụ của mình. Mặc dù những dịch vụ này đang còn ở giai đoạn thử nghiệm những IPv.6 đã đợc đặt nền móng cho phép triển khai những ứng dụng đảm bảo chất lượng dịch vụ cho phép phương thức mới có tính khả thi. Một điểm lợi khác của IPv.6 là cung cấp trường flow label cũng có thể được dùng để xác định giải thông ngay cả khi phần dữ liệu gói tin đã bị mã hoá. Nhờ thông tin trong trường flow label, chúng ta có thể xác định được những gói tin nào cần phải được thao tác một cách đặc biệt. Ví dụ như: dữ liệu hình ảnh, âm thanh có thể gắn với một nhãn flow label cũng có thể được sử dụng để gắn cho một luồng dữ liêụ những mức ưu tiên về đảm bảo an toàn về độ trễ hay về chi phí truyền thông.
Hỗ trợ các ứng dụng di động:
Vì nhiều lý do, hiện nay IPv.4 tỏ ra rất khó khăn trong việc quản lý nút mạng di động.
Mỗi nút mạng di động cần sử dụng một địa chỉ chuyển tiếp tại mỗi thời điểm mà nó kết nối với Internet. IPv.4 thực hiẹn việc này một cách khó khăn.
IPv.4 không hỗ trợ những cơ chế đã đăng ký và quản lý thuê bao tốt mà những cơ chế này lại rất cần thiết trong mạng di động để các agent có thể được thông tin về vị trí mới của các nút di động.
Các nút mạng di động thường gặp nhiều khó khăn để xác định xem chúng có cùng thuộc một mạng IPv.4 hay không.
Trong IPv.4 các nút mạng di động thường không thể thông báo cho đối tác truyền thông của nó sự thay đổi vị trí.
Cấu trúc IPv.6 cho phép hỗ trợ tối đa cho việc thiết lập và quản lý các nút mạng di động. Việc tăng cường khả năng xử lý về lựa chọn địa chỉ đích tự động cấu hình, routing header, đóng gói gói tin, đảm bảo an toàn và có thể truyền thông anycast đáp ứng được yêu cầu của mạng di động.
4. Các dịch vụ của Internet
4.1. Thư điện tử (E-mail).
Là dịch vị cơ bản, được sử dụng nhiều nhất và có hiệu quả nhất. Người gửi nạp thông tin cần soạn thảo trên máy tính, khi khai báo địa chỉ máy tính của người nhận trong Internet, rồi thực hiện một số thao tác đơn giản theo mẫu hướng dẫn. Bức thư điện tử được tự động chuyển đến và lưu trữ trong hộp thư của ngời nhận. Khi bật máy tính của mình, cũng thực hiện một số thao tác hướng dẫn đơn giản, người nhận sẽ thấy trên màn hình xuất hiện các thư điện tử mới được chuyển đến. Cách gửi thư điện tử thuận tiện hơn nhiều so với gửi thư qua hệ thống bưu điện trước đây hoặc qua FAX, lại rẻ hơn và nhanh hơn nhiều lần. Dịch vụ thư điện tử là một phương thức đáng tin cậy để gửi và nhận các thông điệp này tới đúng địa chỉ và còn nguyên vẹn.
4.2. Dịch vụ trao đổi các tệp dữ liệu cũng được thực hiện tương tự đối với thư điện tử. Dịch vụ trao đổi tệp FPT (File Transfer Protocol: Giao thức chuyển tệp) cho phép chuyển tệp từ một máy tính này tới một máy tính khác. Phần nhiều người ta dùng dịch vụ FTP chép tệp trên một máy chủ từ xa vào máy tính của mình. Việc xử lý này gọi là tải xuống (Downloading) và ngược lại gọi là đa lên mạng (uploading).
4.3. Thông tin dưới dạng tiếng nói và hình ảnh được truyền đi thông qua dịch vụ siêu văn bản (Hypertext) như MO-SAIC và WWW (World Wide Web).
4.4. Dịch vụ Telnet: Cho phép thiết lập một phiên làm việc dạng trạm đầu cuối (terminal session) với một máy tính từ xa. Ví dụ, chúng ta có thể sử dụng Telnet để kết nối với một máy chủ ở một miền khác của thế giới. Chỉ khi nối kết được thiết lập, chúng ta mới có thể thâm nhập vào (log in) máy tính đó theo như lệ thường (tất nhiên chúng ta phải có tài khoản người dùng (User Account) hợp lệ và mật khẩu (Password). Telnet còn cho phép hai chương trình phối hợp làm việc bằng cách trao đổi dữ liệu trên Internet.
4.5. Usenet: Là loại dịch vụ trong đó các loại thông tin mà chỉ có thể trao đổi trong một nhóm người theo kiểu hội thảo chuyên đề, thông qua dịch vụ gọi là nhóm tin tức (New Groups). Internet có hơn 1000 nhóm khác nhau với phạm vi và chủ đề rất rộng, như các sở thích công việc, sở thích và cách sống...
4.6. Truy nhập thông tin từ xa (Remote Login): Xâm nhập vào một máy tính bất kỳ trên mạng để tìm kiếm các thông tin cần biết và được phép. Hiện nay trong Internet có rất nhiều kho dữ liệu đồ sộ luôn luôn mở cửa phục vụ miễn phí cho mọi ngời.
5.Các ứng dụng công nghệ IP tại Việt Nam.
ở Việt Nam, công nghệ IP đã được ứng dụng phục vụ công tác hoạt động giảng dạy và nghiên cứu từ khá sớm chủ yếu dưới dạng các mạng cục bộ LAN tại các công sở, trường học, viện nghiên cứu... Cho đến cuối năm 1997, công nghệ IP cho mạng WAN bắt đầu được phát triển rộng rãi với sự ra đời và phát triển của Internet tại Việt Nam. Đến nay hệ thông mạng IP đã trở nên phổ biến trên toàn quốc tuy nhiên khả năng đáp ứng về chất lượng cũng như dải thông vẫn còn hạn chế (Hầu hết là 10Mbps cho mạng LAN và 2Mbps cho mạng WAN back bone).
Hiện nay, mạng truy nhập VNN đã có mặt tại 61 tỉnh thành phố, được chia làm 3 vùng tương thích với mạng PSTN đang tồn tại. Ba vùng này được kết nối bằng backbone 2MBps, tại Hà Nội có các cổng kết nối ra Internet quốc tế. Mỗi vùng có một Inter Domain Router HN- gateway cisco 7531.
Nhìn sơ đồ hình 1.1 chúng ta có thể nhận thấy rằng mạng này được cấu tạo nên từ 5 phân lớp chính, phân lớp trên cùng chính là mạng Internet quốc tế. Các nhà cung cấp dịch vụ Internet trong nước sẽ truy nhập tới mạng Internet quốc tế bằng những cổng riêng sử dụng đường truyền tốc độ cao. Tại mỗi cổng truy nhập Internet quốc tế các nhà cung cấp dịch vụ có thể đặt một Domain router làm nhiệm vụ định tuyến cho toàn bộ thuê bao trong nước muốn truy nhập Internet quốc tế qua cổng trên. Vì một Router tại một cổng truy nhập quốc tế có thể là không đủ cho nhu cầu thuê bao cả nước, các nhà cung cấp dịch vụ có thể sử dụng nhiều Domain router, nếu một trong các router này bị quá tải, công việc của nó có thể sẽ được chia sẻ trong một router khác còn rỗi. Domain router có thể được kết nối với các router phân cấp, các router có nhiệm vụ chuyển đổi giao diện mạng WAN - LAN. Mỗi router này được kết nối một Access server tại điểm truy nhập của các mạng PSTN Bưu điện tỉnh. Từ đây các kết nối Inernet giữa các thuê bao và nhà cung cấp dịch vụ sẽ được thiết lập.
Điểm truy nhập phía thuê bao
Access Server
PSTN nội tỉnh
PSTN nội tỉnh
PSTN nội tỉnh
PC
PC
Điểm truy nhập dịch vụ
Đường kết nối internet quốc tế
Backbone
Internet domain router
Mạng Internet quốc tế
Internet quốc tế
WAN
LAN
PSTN
user
Web Server Mail Server
Hình 1.1: Cấu trúc mạng Internet tại Việt Nam.
6. Mạng điện thoại công cộng trên mạng Viễn thông Việt Nam
Dịch vụ thoại là một trong những dịch vụ cơ bản của Viễn thông, do đó về cấu trúc thì mạng điện thoại công cộng nằm trong cấu trúc mạng Viễn thông bao gồm mạng nội hạt, mạng liên tỉnh, mạng quốc tế và kết hợp thành ba miền trung tâm: Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh.
Mạng viễn thông là tổ hợp các nút mạng được nối với nhau bằng các đường truyền dẫn. Nút mạng được phân thành nhiều thứ cấp và từ đó kết hợp với các đường truyền tạo thành các cấp mạng khác nhau. Nút mạng thường là các tổng đài, đường truyền là các tuyến truyền dẫn.
ở mạng lưới, các thuê bao được đấu nối vào các tổng đài nội hạt hoặc các tổng đài nhánh.Thông qua mạng lưới, các thuê bao được đấu nối với nhau dể thực hiện các dịch vụ thông tin như điện thoại, truyền số liệu, Fax và các dịch vụ khác.
Để tạo kết nối giữa các thuê bao với nhau, các nút mạng phải trao đổi thông tin trên cơ sở thông tin yêu cầu dịch vụ và địa chỉ mạng lưới (danh bạ) của các thuê bao, mạng lưới trao đổi thông tin địa chỉ và dịch vụ gọi là mạng báo hiệu.
Nút mạng cấp 1: bao gồm các nút mạng quốc tế (Gateway QT) các nút mạng này làm nhiệm vụ giao tiếp và kết nối mạng quốc gia với mạng quốc tế. Chúng bao gồm thiết bị chuyển mạch và thiết bị truyền dẫn để tạo tuyến kết nối cho thiết bị chuyển mạch về các nút mạng quốc gia và đi quốc tế. Thiết bị thuyền dẫn thường là cáp quang và vệ tinh.
Nút mạng cấp 2: là nút mạng chuyển tiếp quốc gia. Nó bao gồm các tổng đài đường dài và hệ thống truyền dẫn đường trục. Các tổng đài làm nhiệm vụ chuyển mạch để kết hợp với các hệ thống truyền dẫn tạo ra tuyến nối đường dài cho các thuê bao qua mạng cấp 4 và cấp