Trên thế giới, khái niệm về chất lượng sản phẩm đã từ lâu luân gây ra những tranh cãi phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là các khái niệm về chất lượng nói chung và chất lượng sản phẩm nói riêng được nêu ra dưới các góc độ khác nhau của mỗi cách tiếp cận, mỗi cách nhìn nhận riêng biệt. Theo quan điểm triết học, chất lượng là tính xác định bản chất nào đó của sự vật, hiện tượng, tính chất mà nó khẳng định nó chính là cái đó chứ không phải là cái khác hoặc cũng nhờ nó mà nó tạo ra một sự khác biệt với một khách thể khác. Chất lượng của khách thể không quy về những tính chất riêng biệt của nó mà gắn chặt với khách thể như một khối thống nhất bao chùm toàn bộ khách thể. Theo quan điểm này thì chất lượng đã mang trong nó một ý nghĩa hết sức trừu tượng, nó không phù hợp với thực tế đang đòi hỏi Một khái niệm về chất lượng vừa mang tính đơn giản vừa dễ hiểu và có tính chất quảng bá rộng dãi đối với tất cả mọi người, đặc biêt là với người tiêu dùng, với các tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh và cung cấp dịch vụ cũng như với các phương pháp quản trị chất lượng trong các tổ chức các doanh nghiệp; Một quan điểm khác về chất lượng cũng mang một tính chất trừu tượng. Chất lượng theo quan điểm này được định nghĩanhư là một sự đạt một mức độ hoàn hảo mang tính chất tuyệt đối. Chất lượng là một cái gì đó mà làm cho mọi người mỗi khi nghe thấy đều nghĩ ngay một sự hoàn mỹ tốt nhất cao nhất. Như vậy theo nghĩa này thì chất lượng Vẫn chưa thoát khỏi sự trừu tượng của nó. Đây là một khái niệm còn mang nặng tính chất chủ quan, cục bộ và quan trọng hơn, khái niệm này về chất lượng vẫn chưa cho phép ta có thể định lượng được chất lượng. Vì vậy, nó chỉ mang một ý nghĩa nghiên cứu lý thuyết mà không có khả năng áp dụng trong kinh doanh. Một quan điểm thứ 3 về chất lượng theo định nghĩa của W. A. Shemart. Là một nhà quản lý người mỹ, là người khởi xướng và đạo diễn cho quan điểm này đối với vấn đề về chất lượng và quản lý chất lượng. Shemart cho rằng:”chất lượng sản phẩm trong sản xuất kinh doanh công nghiệp là một tập hợp những đặc tính của sản phẩm phản ánh giá trị sử dụng của nó “. So với những khái niệm trước đó về chất lượng thì ở khái niệm này. Shemart đã coi chất lượng như là một vấn đề cụ thể và có thể định lượng được. Theo quan điểm này thì chất lượng sản phẩm sẽ là một yếu tố nào đó tồn tại trông các đặc tính của sản phẩm và vì tồn tại trong các đặc tính của sản phẩm cho nên chất lượng sản phẩm cao cũng đồng nghĩa với việc phải xác lập cho các sản phẩm những đặc tính tốt hơn phản ánh một giá trị cao hơn cho sản phẩm và như vậy chi phí sản xuất sản phẩm cũng cao hơn làm cho giá bán của sản phẩm ở một chừng mực nào đó khó được người tiêu dùng và xã hội chấp nhận. Do vậy, quan điểm về chất lượng này Của Shewart ở một mặt nào đó có một ý nghĩa nhất định nhưng nhìn chung đây là một quan điểm đã tách dời chất lượng với người tiêu dùng và các nhu cầu của họ. Nó không thể thoả mãn được các điều kiện về kinh doanh và cạnh tranh trong bối cảnh hiện nay. Quan điểm thứ 4 về chất lượng xuất phát từ phía người sản xuất. Theo họ quan điểm này, chất lượng sản phẩm là sự đạt được và tuân thủ đúng những tiêu chuẩn, những yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật đã được đặt ra từ trước trong khâu thiết kế sản phẩm. Theo quan điểm này, chất lượng gắn liền với vấn đề công nghệ và đề cao vai trò của công nghệ trong việc tạo ra sản phẩm với chất lượng cao
38 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1116 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng về chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần I .
chất lượng sản phẩm và vai trò của chất lượng sản phẩm trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới .
1. Các khái niệm về chất lượng sản phẩm.
Trên thế giới, khái niệm về chất lượng sản phẩm đã từ lâu luân gây ra những tranh cãi phức tạp. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là các khái niệm về chất lượng nói chung và chất lượng sản phẩm nói riêng được nêu ra dưới các góc độ khác nhau của mỗi cách tiếp cận, mỗi cách nhìn nhận riêng biệt.
Theo quan điểm triết học, chất lượng là tính xác định bản chất nào đó của sự vật, hiện tượng, tính chất mà nó khẳng định nó chính là cái đó chứ không phải là cái khác hoặc cũng nhờ nó mà nó tạo ra một sự khác biệt với một khách thể khác. Chất lượng của khách thể không quy về những tính chất riêng biệt của nó mà gắn chặt với khách thể như một khối thống nhất bao chùm toàn bộ khách thể. Theo quan điểm này thì chất lượng đã mang trong nó một ý nghĩa hết sức trừu tượng, nó không phù hợp với thực tế đang đòi hỏi
Một khái niệm về chất lượng vừa mang tính đơn giản vừa dễ hiểu và có tính chất quảng bá rộng dãi đối với tất cả mọi người, đặc biêt là với người tiêu dùng, với các tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh và cung cấp dịch vụ cũng như với các phương pháp quản trị chất lượng trong các tổ chức các doanh nghiệp;
Một quan điểm khác về chất lượng cũng mang một tính chất trừu tượng. Chất lượng theo quan điểm này được định nghĩanhư là một sự đạt một mức độ hoàn hảo mang tính chất tuyệt đối. Chất lượng là một cái gì đó mà làm cho mọi người mỗi khi nghe thấy đều nghĩ ngay một sự hoàn mỹ tốt nhất cao nhất. Như vậy theo nghĩa này thì chất lượng Vẫn chưa thoát khỏi sự trừu tượng của nó. Đây là một khái niệm còn mang nặng tính chất chủ quan, cục bộ và quan trọng hơn, khái niệm này về chất lượng vẫn chưa cho phép ta có thể định lượng được chất lượng. Vì vậy, nó chỉ mang một ý nghĩa nghiên cứu lý thuyết mà không có khả năng áp dụng trong kinh doanh.
Một quan điểm thứ 3 về chất lượng theo định nghĩa của W. A. Shemart. Là một nhà quản lý người mỹ, là người khởi xướng và đạo diễn cho quan điểm này đối với vấn đề về chất lượng và quản lý chất lượng. Shemart cho rằng:”chất lượng sản phẩm trong sản xuất kinh doanh công nghiệp là một tập hợp những đặc tính của sản phẩm phản ánh giá trị sử dụng của nó “.
So với những khái niệm trước đó về chất lượng thì ở khái niệm này. Shemart đã coi chất lượng như là một vấn đề cụ thể và có thể định lượng được. Theo quan điểm này thì chất lượng sản phẩm sẽ là một yếu tố nào đó tồn tại trông các đặc tính của sản phẩm và vì tồn tại trong các đặc tính của sản phẩm cho nên chất lượng sản phẩm cao cũng đồng nghĩa với việc phải xác lập cho các sản phẩm những đặc tính tốt hơn phản ánh một giá trị cao hơn cho sản phẩm và như vậy chi phí sản xuất sản phẩm cũng cao hơn làm cho giá bán của sản phẩm ở một chừng mực nào đó khó được người tiêu dùng và xã hội chấp nhận. Do vậy, quan điểm về chất lượng này Của Shewart ở một mặt nào đó có một ý nghĩa nhất định nhưng nhìn chung đây là một quan điểm đã tách dời chất lượng với người tiêu dùng và các nhu cầu của họ. Nó không thể thoả mãn được các điều kiện về kinh doanh và cạnh tranh trong bối cảnh hiện nay.
Quan điểm thứ 4 về chất lượng xuất phát từ phía người sản xuất. Theo họ quan điểm này, chất lượng sản phẩm là sự đạt được và tuân thủ đúng những tiêu chuẩn, những yêu cầu về kinh tế và kỹ thuật đã được đặt ra từ trước trong khâu thiết kế sản phẩm. Theo quan điểm này, chất lượng gắn liền với vấn đề công nghệ và đề cao vai trò của công nghệ trong việc tạo ra sản phẩm với chất lượng cao
. Quan điểm này cho rằng “chất lượng là một trình độ cao nhất mà một sản phẩm có được khi sản xuất”.
Do xuất phát từ phía người sản xuất nên khái niệm về chất lượng theo quan điểm này còn có nhiều bất cập mang tính chất bản chất và khái niệm này luôn đặt ra cho các nhà sản xuất những câu hỏi không dễ gì giải đáp được. Thứ nhất, do đề cao yếu tố công nghệ trong vấn đề sản xuất mà quyên đi rằng vấn đề sản phẩm có đạt được chất lượng cao hay không chính là do người tiêu dùng nhận xét chứ không phải do các nhà sản xuất nhận xét dựa trên một số cơ sở không đầy đủ và thiếu tính thuyết phục, đó là công nghệ sản xuất của họ, Thư hai, câu hỏi đặt ra cho các nhà sản xuất là họ lấy gì để đảm bảo rằng quá trình sản xuất được thực hiện trên công nghệ của họ không gặp một chở ngại hay rắc rối nào trong xuốt quá trình sản xuất và một điều nữa, liệu công nghệ của họ có còn thích hợp với nhu cầu về các loại sản phẩm cả sản phẩm cùng loại và sản phẩm thay thế trên thị trường hay không.
Như vậy, theo khái niệm về chất lượng này các nhà sản xuất không tính đến những tác động luôn luôn thay đổi và thay đổi một cách liên tục của môi trường kinh doanh và hệ quả tất yếu của nó, trong khi họ đang say xưa với những sản phẩm chất lượng cao của họ thì cũng là lúc nhu cầu của người tiêu dùng đã chuyển sang một hướng khác, một cấp độ cao hơn.
Để khắc phục những hạn chế tồn tại và những khuyết tật trung khái niệm trên buộc các nhà quản lý, các tổ chức, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải đưa ra một khái niệm bao quát hơn, hoàn chỉnh hơn về chất lượng sản phẩm. khái niệm này một mặt phải đảm bảo được tính khách quan mặt khác phải phản ánh được vấn đề hiệu quả của sản xuất kinh doanh mà chất lượng của sản phẩm chất lượng cao sẽ mang lại cho doanh nghiệp, cho tổ chức. Cụ thể hơn, khái niệm về chất lượng sản phẩm này phải thực sự xuất phát từ hướng người tiêu dùng. Theo quan điểm nay thì:“ chất lượng là sự phù hợp một cách tốt nhất với các yêu cầu và mục đích của người tiêu dùng “, với khái niệm trên về chất lượng thì bước đầu tiên của quá trình sản xuất kinh doanh phải là việc nghiên cứu và tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng về các loại sản phẩm hàng hoá hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp định cung cấp trên thị trường. Các nhu cầu của thị trường và người tiêu dùng luôn luôn thay đổi đòi hỏi các tổ chức, các doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh phải liên tục đổi mới cải tiến chất lượng, đáp ứng kịp thời những thay đổi của nhu cầu cũng như của các hoàn cảnh các điều kiện sản xuất kinh doanh. Đây là những đòi hỏi rất cơ bản mang tính chất đặc trưng của nền kinh tế thị trường và nó đã trở thành nguyên tắc chủ yếu nhất trong sản xuất kinh doanh hiện đại ngày nay. Mặc dù vậy, quan điểm trên đây về chất lượng sản phẩm vẫn còn những nhược điểm của nó. Đó là sự thiếu chủ động trong các quyết định sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự phụ thuộc quá nhiều và phức tạp của doanh nghiệp vào khách hàng, người tiêu dùng có thể sẽ làm cho vấn đề quản lý trở nên phức tạp và khó khăn hơn. Tuy vậy, nó là một đòi hỏi tất yếu mang tính chất thời đại và lịch sử.
Ngoài các khái niệm đã nêu ở trên, còn một số khái niệm khác về chất lượng sản phẩm cũng được đưa ra nhằm bổ xung cho các khái niệm đã được nêu ra trước đó. Cụ thể theo các chuyên gia về chất lượng thì chất lượng là:
Sự phù họp các yêu cầu.
Chất lượng là sự phù hợp với công dụng.
Chất lượng là sự thích hợp khi sử dụng.
Chất lượng là sự phù hợp với mục đích.
Chất lượng là sự phù hợp các tiêu chuẩn(Bao gồm các tiêu chuẩn thiết kế và các tiêu chuẩn pháp định. )
Chất lượng là sự thoả mãn người tiêu dùng.
+ Theo tiêu chuẩn ISO – 8402 /1994. Chất lượng là tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn nhu cầu đã xác định hoặc cần đến.
+ Theo định nghĩa của ISO 9000/2000. Chất lượng là mức độ của một tập hợp các đặc tính vốn có đáp ứng được các yêu cầu.
+ Theo tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế. Chất lượng là tổng thể các chi tiêu, những đặc trưng sản phẩm thể hiện sự thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, phù hợp với công dụng mà người tiêu dùng mong muốn với chi phí thấp nhất và thời gian nhanh nhất.
Như vậy, chất lượng sản phẩm dù được hiểu theo nhiều cách khác nhau dựa trên những cách tiếp cận khác nhau đều có một điểm chung nhất. Đó là sự phù hợp với yêu cầu. Yêu cầu này bao gồm cả các yêu câu của khách hàng mong muốn thoả mãn những nhu cầu của mình và cả các yêu cầu mang tính kỹ thuật, kinh tế và các tính chất pháp lý khác. Với nhiều các khái niệm dựa trên các quan điểm khác nhau như trên, dovậy trong quá trình quản trị chất lượng cần phải xem chất lượng sản phẩm trong một thể thống nhất. Các khái niệm trên mặc dù có phần khác nhau nhưng không loại trừ mà bổ xung cho nhau. Cần phải hiểu khái niệm về chất lượng một cách có hệ thống mới đảm bảo hiểu được một cách đầy đủ nhất và hoàn thiện nhất về chất lượng. Có như vậy, việc tạo ra các quyết định trong quá trình quản lý nói chung và quá trình quản trị chất lượng noí riêng mới đảm bảo đạt được hiêụ quả cho cả quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hay tổ chức.
2. Mối quan hệ giữa Chất lượng sản phẩm với các yếu tố khác của sản xuất kinh doanh.
a. . Chất lượng sản phẩm với hiệu quả -sản xuất kinh doanh. - Năng xuất và chất lượng
Hiệu quả kinh doanh luôn luôn là vấn đề được các Doanh nghiệp quan tâm hàng đầu. để đạt được hiệu quả kinh doanh, các DN luôn dành mọi chỉ tiêu, mọi nguần lực vào một nỗ lực chung đem lại tính hiệu quả cao trong các hoạt động về quản lý hay các hoạt động về tác nghiệp có liên quan mật thiết đến các hoạt động sản xuất và kinh doanh, quá trình sản xuất các giá trị đặc biệt là giá trị gia tăng. Khi xem xét các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh, ngoài các chỉ tiêu thông thường như tỷ xuất lợi nhuận, trên vốn, lợi nhuận trước thuế lãi thuần v. . v. . Doanh nghiệp còn chú ý đến mặt hiện vật của vấn đề hiệu quả, đó chính là năng xuất lao động. Năng xuất lao động ở đây được gọi chung cho nhiều loại năng xuất khác nhau. Đó có thể là năng xuất lao động và hiệu quả lao động. Năng xuất lao động được tính theo công thức sau:
WLĐ = Q/L
Q: Sản lượng sản phẩm sản xuất
L: Số lao động
Hoặc cũng có thể tính năng xuất lao động dựa trên các yếu tố về nguồn lực khác. Đó có thể là năng xuất trên một đồng vốn:
WK = Q/K (K: tổng vốn)
Năng xuất trên vốn lưu động: W = Q/VLĐ
Năng xuất trên vốn cố định: W = Q/VCĐ
Trên đây là cách tính các chỉ tiêu năng xuất mang tính chất truyền thống. Ngày nay năng xuất, với vai trò là một yếu tố đầu tiên và cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định tới các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh. Việc tính toán và xem xét năng xuất dưới góc độ truyền thống tỏ ra không phù hợp nữa. Vấn đề năng xuất – Hiệu quả sản xuất kinh doanh, theo quan điểm của triết lý kinh doanh hiện đại luôn được gắn liền với khái niệm chất lượng sản phẩm . Chính vì vậy, thuật ngữ năng xuất -chất lượng ngày nay không còn là một khái niệm mới mẻ trong sản xuất kinh doanh cũng như trong nghiên cứu, lý luận về sản xuất kinh doanh hiện đại. Mối quan hệ giữa năng xuất và chất lượng được thể hiện thông qua công thức sau
Y = I . G + I (1-G) . R
Trong đó.
Y: Năng suất
I: Số lượng sản phẩm đầu vao theo kế hoạch
G: Tỷ lệ % các chi tiết đạt chất lượng
R: Tỷ lệ % số lượng sản phẩm làm lại
Như vậy mối quan hệ giữa năng suất và chất lượng là mối quan hệ chặt chẽ trong đó chất lượng là yếu tố quyết định tới năng xuất. Thực vậy, theo công thức trên, khi ta tăng chất lượng sản phẩm thì năng suất cũng tăng theo nhưng điều ngược lại thì chưa chắc đã đúng.
Ngoài ra khi xem xét vấn đề năng suất – chất lượng, người ta còn sử dụng tới tỷ số năng suất – chất lượng. Nó là một chỉ số bao gồm năng xuất và chỉ số chất lượng. Chỉ số chất lượng năng xuất tăng nếu chi phí qua công giảm hoặc chi phí làm lại giảm hoặc cả hai chi phí này cùng giảm. Chi phí này đánh giá sự gia tăng và cho biết sự phụ thuộc của năng xuất, chi phí và chất lượng qua đó cho thấy tầm quan trọng của chất lượng đối với sản xuất kinh doanh
Tỷ số chất lượng – năng xuất được tính bằng công thức sau:
Các chi tiết đạt chất lượng
PQR = * 100%
( SLĐầu vào* CP Chế tạo+SPSai sót * CPLàm lại )
ý nghĩa của tỷ số này chính là ở chỗ: khi năng xuất chất lượng tăng lên thì tỷ số này tăng lên và ngược lại. Đây chính là chỉ số cho phép các nhà quản lý, Đặc biệt là các nhà quản lý chất lượng có thể lượng hoá được những ảnh hưởng của năng xuất – chất lượng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh từ đó có những biện pháp phù hợp khắc phục những khuyết tật phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh có xuất xứ từ vấn đề chất lượng – năng suất tới hiệu quả chung của toàn bộ hoạt động.
b. . Chất lượng với vấn đề về vốn – công nghệ.
Năng xuất lao động (Bao gồm cả các yếu tố năng suất thành phần) luôn luôn bao hàm cả vấn đề chất lượng sản phẩm. điều này đã được nhìn nhận và chứng minh khi ta nhìn vào mối quan hệ giữa hai yếu tố đó. Mối quan hệ giưã năng xuất và chất lượng. Trong quản trị kinh doanh, để các quyết định, đặc biệt là các quyết định liên quan tới vấn đề chất lượng sản phẩm đạt được các mục tiêu đã đề ra. Chất lượng sản phẩm còn phải được xem xét trong mối quan hệ với các yếu tố khác. Các yếu tố này có thể là các yếu tố căn bản mang tính chất là các nguần lực đầu vào mà cũng có thể là các yếu tố phụ, mặc dù vậy nó vẫn có ảnh hưởng nhất định tới toàn bộ quá trình. Vấn đề về vốn và công nghệ với vai trò quyết định của mình không những có một ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ quá trình hoạt động sản suất kinh doanh mà nó còn có những tác động lớn tới vấn đề về chất lượng sản phẩm. Thực vậy theo quan điểm hướng vào khách hàng về vấn đề về chất lượng sản phẩm thì chất lượng chính là sự phù hợp với yêu cầu, các đòi hỏi cà cao hơn là các chu cầu của khách hàng. Trong khi đó, nhu cầu của khách hàng luôn luôn thay đổi buộc các nhà sản xuất phải phải hướng việc sản xuất của mình theo những thay đổi này. Nhu cầu của người tiêu dùng lại chịu ảnh hưởng không ít của sự phát triển khoa học kỹ thuật. Hơn nữa, công nghệ sản xuất chính là yếu tố trực tiếp nhất tạo ra sản phẩm và do đó cả chất lượng sản phẩm. Khả năng về vốn và công nghệ là một trong các yếu tố quyết định tới chất lượng sản phẩm. Bất kỳ một nỗ lực định hướng nào của các cấp quản trị hay của toàn bộ doanh nghiệp sẽ không thể thực hiện được nếu như khả năng về vốn, khả năng về công nghệ bị hạn chế. Người ta có thể hô hào cải tiến đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng đó sẽ vẫn chỉ là khẩu hiệu nếu như không chú ý tới việc tạo các nguần vốn cần thiết cho các hoạt động và vấn đề về công nghệ không được chú ý một cách đúng mức, nếu như không muốn nói là yếu tố quyết định hàng đầu.
c. . Chất lượng sản phẩm với vấn đề về nhân lực – lao động.
Là một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong các yếu tố đầu vào của sản xuất, yếu tố về lao động đã chứng tỏ vai trò quan trọng của mình đối với không chỉ hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp các tổ chức mà còn đối với từng lĩnh vực hoạt động từng khâu tác nghiệp trong suốt hệ thống các quá trính sản xuất kinh doanh, trong đó vấn đề chất lượng các sản phẩm loại hàng dịch vụ đầu ra.
Là một yếu tố trong các yếu tố đầu vào cơ bản nhất của sản xuất và cung ứng dịch vụ yếu tố lao động khác với các yếu tố đầu vào khác là bị hạn chế về số lượng và khả năng khai thác. yếu tố con người (mà biểu hiện cụ thể của nólà yếu tố lao động cả lao động tác nghiệp và các dạng lao động trong quản lý khác) là một sự vô tận mà việc khai thác hiệu quả các yếu tố này sẽ mang lại một lợi ích rất lớn. Chính vì những khả năng cũng như có lợi chứa đựng trong yếu tố con người –lao động đang là một hướng tập chung chú ý khai thác trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế hiện nay là một nền kinh tế trí thức, đó là một quan niệm hết sức đúng đắn trong bối cảnh hiện nay và vấn đề về trí thức lại không thể và không bao giờ tách ra khỏi yếu tố con người – yếu tố lao động.
Chất lượng sản phẩm là một đặc tính cố hữu của sản phẩm và không bao giờ tách rời với sản phẩm hay các đầu ra của hoạt động cung ứng dịch vụ. Là một đặc tính của sản, phẩm chất lượng cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp của các yếu tố lao động, bao gồm cả lao động quản lý và các lao động khác trong suốt quá trình sản xuất và bảo quản sản phẩm. Không thể hy vọng sản phẩm của doanh nghiệp sẽ đạt chất lượng cao nếu như đội ngũ lao động với trình độ không đảm bảo một mức độ theo yêu cầu. Ngược lại trình độ quản lý tốt với đội ngũ công nhân lành nghề kết hợp với một số yếu tố khác sẽ tạo ra một khả năng nâng cao chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp và tổ chức.
d. Chất lượng với các vấn đề khác.
Chất lượng sản phẩm không chỉ phụ thuộc vào vấn đề vốn, công nghệ
hay vấn đềlao động- quản lý. Khi xem xét chất lượng một cách tổng thể không thể không tính đến các ảnh hưởng của các vấn đề khác. Ngoài các yếu tố cơ bản (Vốn – công nghệ – lao động). Chất lượng sản phẩm còn bị ảnh hưởng – trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các yếu tố khác như trình độ quản lý, chất lượng các yếu tố đầu vào mà cụ thể là các loại nguyên liệu, nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất. Ngoài ra độ ổn định trong việc cung cấp các yếu tố trên cũng có một vai trò quan trọng quyết định tới chất lượng sản phẩm.
Sản phẩm mà cụ thể là các đặc tính về chất lượng sản phẩm chịu sự tác động và chi phối của nhiều những nhân tố chủ quan và khách quan. Việc đinh dạng và định lượng được các nhân tố ảnh hưởng này có một vai trò hết sức quan trọng trong các công tác quản lý đặc biệt là quản lý hướng vào việc nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành trong tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Đối với mỗi nhân tố vấn đề ở đây không phải là việc đơn giản xem xét các ảnh hưởng riêng rẽ của chúng mà cần phải xem xét, đo lường và đánh giá được tổng tác động trong một hệ thống nhất và các quyết định cần phải được xây dựng trên cơ sở những kết luận này.
2. Xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
2. 1 Xu hướng hợp tác kinh tế .
Trong một thời kỳ phát triển của nền kinh tế thế giới sau chiên tranh có một su hướng phát triển có thể dễ dàng nhận ra ngay đó là xu hướng hợp tác quốc tế đối với các nền kinh tế của các quốc gia trong khu vực hay trên phạm vi toàn thế giới. Biểu hiện rõ nét nhất của xu hướng này là sự hình thành và phát triển của những tổ chức thương mại, tổ chức kinh tế mang tính chất quốc tế. Ngoài ra các hiệp định song phương hay đa phương giữa các chính phủ các nước đóng vai trò quan trọng kịch thích và góp phần đẩy mạnh xu hướng hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế – nhân tố cơ bản của tiến trình toàn cầu hoá. Những ví dụ cơ bản nhất cho xu hướng này có thể thấy ngay ở các tổ chức, các hiệp hội kinh tế hay thương mại như uỷ ban Châu Âu EEC – tiền thân của EU, hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ASEAN với khu mậu dịch tự do AFTA. hiệp ước chung về thuế quan và thương mại GATT tiền thân của tổ chức thương mại thế giới WTO. Ngoài ra còn có một số các tổ chức và các diễn đàn hợp tác kinh tế khác như WP, IMF, OPEC, APEC, NAFTA…. Mặc dù các tổ chức hay các hiệp ước kinh tế này được lập ra với các mục đích có thể không hoàn toàn giống nhau nhưng chúng cùng có một điểm chung đó là dựa trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và mục đích chính là để thúc đẩy và phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân bằng cách triệt để khai thác các lợi thế so sánh và tranh thủ các nguần lực từ bên ngoài hay đẩy mạnh thu hút và khai thác các nguồn lực nội sinh.
Có thể nói nguyên nhân cơ bản của tiến trình toàn cầu hoá nói chung và xu hướng hội nhập hợp tác nói riêng đó là sự phát triển với trình độ ngày càng cao của phân công lao động xã hội. “ Là quá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ. Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu, là tiến trình lịch sử. Nó đang và sẽ cuốn hút hầu hết các nước trên thế giới vào guồng máy của nó “.
2. 2 Giới thiệu chung về AFTA
* Các nguyên tắc và đòi hỏi khi tham gia vào AFTA.
Trong bối cảnh đa dạng và phức tạp của thế giới sau chiến tranh đặc biệt la sau chiến tranh lạnh, xuất hiện nhiều những tổ chức hợp tác, liên minh và liên kết kinh tế khu vực và thế giới thu hút sự tham gia của nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ các nền kinh tế khác nhau, trong số những tổ chức, những liên minh về kinh tế được ra đời trong xu hướng chung của thời đại ấy phải kể đến Tổ chức thương mại thế giới WTO – ra đời trên cơ sở hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương APEC khu vực mậu dịch tự do bắc mỹ NAFTA tổ chức hợp tác A-ÂU ASEM Và hiệp ước các quốc gia Đông Nam A : AEAN với AFTA – khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á. Ngoài ra còn có các tổ chức kinh tế tài chính mang tính chất Quốc tế khác như:Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ngân hàng thế giới WB ….
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á là một dạng thức liên kết thương mại của ASEAN – Hiệp hội các Quốc Gia Đông Nam á, ý tưởng thanhf lập và thực hiện AFTA được Thái Lan đề xuất tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore tháng 1 năm 1992. Nhằm tiến tới thúc đẩy sự thực hiện AFTA tại hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) năm 1992. Các thành viên trong hiệp hội đã thống thất ký hiệp định thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT.
Đối với ASEAN, có thể nói , nhu cầu liên kết kinh tế thương mại đã được manh nha từ khá sớm. Năm 1977, một chương trình nhằm thúc đẩy mậu dịch gữa các thành viên đã được đưa vào thoả thuận với ưu đãi thương mạI, khác với TPA, quan hệ thương mại ASEAN theo CEPT được thực hiện trong môi trường mà các hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần được loại bỏ hoàn toàn. Việc thành lập AFTA và thực thi hiệp định CEPT đương nhiên cũng chịu một số ảnh hưởng do bối cảnh lịch sử tạo ra. Trước hết đó là do trên thế giới , xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu rộng tác động mạnh mẽ tới mọi quốc gia, mọi nền kinh tế, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là tới lĩnh vực thương mại – kinh tế, dịch vụ và đầu tư. Sự ra đời của nhiều tổ chức liên kết và liên minh kinh tế với những thoả thuận thương mại khu vực hay song phương như EU ở Tây Âu, NAFTA của khu vực Bắc Mỹ là một thách thức không nhỏ đối với tăng trưởng của ASEAN. Trong khu vực, xu thế hoà bình và hữu nghị đang là xu hướng chung cùng cới xu hướng chung của thời đại, đó là xu hướng hoà bình, đối thoại và hợp tác. Cùng với những nguyên nhân tồn tại đó là các đòi hỏi và các yêu cầu của các nền kinh tế trong khu vực, sự tác động mạnh của tình hình thế giới, sáng kiến thành lập AFTA có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng nó vừa là một giải pháp tình thế vừa là một bước đi chiến lược nhằm tạo ra một khối thống nhất về thương mại mạnh hơn rộng hơn trong môi trường thế giới mới.
Với việc thành lập AFTA, mục đích chính của các nước thành viên là nhằm thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, trao đổi buôn bán trong khu vực, tạo sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Từ đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá và bổ xung nguần lực giữa nền kinh tế của các nước thành viên, nâng cao khả năng thích ứng một cách chủ động với những thay đổi về điều kiện chung của tình hình thế giới nói chung và tình hình thương mại nói riêng, thúc đẩy sự phát triển của ASEAN và các nước thành viên. Để đạt được điều đó, các nước thành viên ASEAN cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề chủ yếu mang tính nguyên tắc và kỹ thuật. Đó là việc cắt giảm các loại thuế nhập khẩu, loại bỏ hàng rào phi thuế quan và hài hoà các thủ tục hải quan trong nội bộ khối.
Để xây dựng thành công AFTA cũng như thực thi hiệp định CEPT . Các thành viên tham gia AFTA phải thực hiện một số quy định mang tính chất nguyên tắc như sau:
Cam kết cắt giảm các loại thuế nhập khẩu cho hàng hoá nội bộ ASEAN đạt mức thuế xuất từ 0 à 5% sau 15nămTheo điều khoản trên của nguyên tắc khi tham gia AFTA , từ tháng 1-1993 đến tháng 2-2008. hiệp định CEPT được áp dụng cho tất cả các loại hàng hoá có xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước nhập khẩu và nước xuất khẩu có thuế xuất bằng hoặc dưới 20%.
Tháng 9 – 1995. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 5 đã quyết định đẩy nhanh tiến độ thực hiện và xây dựng AFTA, đạt thuế xuất xuống mức 0 à 5% sau 10 năm từ tháng 1-1993 đến tháng 1-2003 và quết tâm đưa thuế xuất dự kiến đến năm 2015 là 0%.
Trong quá trình thực hiện các nguyên tắc trên các chủng thuế của 6 nước thành viên của ASEAN đã được cắt giảm liên tục và đang hướng tới mức thuế xuất 0à5% vào năm 2002. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 đã quyết định rút ngắn 0thời hạn thực hiện CEPT đối với 6 nước là thành viên cũ của ASEAN xuống còn 9 năm. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, hội nghị cũng đi tới quyết định gia tăng thời hạn đối với các thành viên mới cụ thể là sau 10 năm kể từ khi gia nhập AFTA. Như vậy cho đến nay thời hạn để hình thành AFTA đối với các nước Singapore, Thai Lan, Philipine, Indonesia, Malaysia, và Brunei là vào năm 2002, của Việt Nam là 2006 của Lào và là 2008 Campuchia là 2010 khi đó thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN giảm còn khoảng 0à5%. Đồng thời các nước thành viên cũng thoả thuận và loại bỏ các hạn chế về định lượng, các hàng dào phi thuế quan vốn là nhân tố cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực và thế giới.
Như vậy với sự ra đời của AFTA. Các rào cản trở về thuế quan và phi thuế quan của các nước trong khu vực sẽ tiến tới hoàn toàn bị xoá bỏ tạo thuận lợi cho việc tự do buôn bán và thống nhất hàng hoá thị trường khu vực. Đây có thể nói là một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh
Trong nội bộ ASEAN. Trong một thị trường thống nhất ấy, cá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA3340.doc