Đề tài Thực trạng và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước

Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá, để tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì điều kiện không thể thiếu là phải có tiền.

Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tiền này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị (tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật); mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động trong chu kỳ sản xuất kinh doanh dịch vụ đầu tiên (tạo vốn lưu động gắn liền với sự hoạt động của các TSCĐ vừa tạo ra).

Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang hoạt động, tiền này dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng, tăng vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các TSCĐ mới thay thế các TSCĐ đã bị hư hỏng, hao mòn hữu hình (là các hao mòn do quá trình sử dụng và do tác động của khí hậu, thời tiết) và vô hình (khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng làm cho nhiều TSCĐ trở nên lạc hậu không còn thích hợp với điều kiện mới, nếu tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả).

Vì số tiền cần thiết cho hoạt động đầu tư là rất lớn nên không phải cơ sở sản xuất kinh doanh nào cũng có đủ tiền để tiến hành hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, họ có thể huy động từ nhiều nguồn khác như: vay ngân hàng; vay bạn bè, người thân; mời cơ sở khác hợp tác đầu tư, vay từ bạn hàng

 

doc53 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MụC LụC CHƯƠNG 1: MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về ĐầU TƯ Và KHUYếN KHíCH ĐầU TƯ TRONG NƯớC. 1.1 Những khái niệm cơ bản về đầu tư: 1.2 Vai trò của đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư trong nước: 1.3 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về khuyến khích đầu tư trong nước: 1.3.1 Các biện pháp và chính sách huy động vốn đầu tư trong nước của một số nước trên thế giới. 1.3.2 Kinh nghiệm quốc tế về KKĐTTN: CHƯƠNG 2: THựC TRạNG KHUYếN KHíCH ĐầU TƯ TRONG NƯớC 2.1 Thời kỳ 1995 đến 1999: 2.1.1 Nội dung chính của Luật và các văn bản dưới luật về KKĐTTN trong thời kỳ này: 2.1.2 Đánh giá chung về thực trạng khuyến khích đầu tư trong nước thời kỳ này: 2.1.2.1 Thời kỳ thực hiện Luật KKĐTTN và Nghị định 29/CP (từ 1-1-1995 đến 30-1-1998): 2.1.2.2 Thời kỳ thực hiện Nghị định 07/CP (từ 30-01-1998 đến 31-12-1998): 2.2. Thời kỳ 1999 đến nay: 2.2.1 Những thay đổi của Luật KKĐTTN (sửa đổi) số 03/1998/QH10 so với Luật KKĐTTN cũ: 2.2.2 Những kết quả đạt được từ khi có Luật KKĐTTN (sửa đổi): 2.2.3 Đánh giá về các biện pháp hỗ trợ đầu tư: 2.2.4 Những vướng mắc cần tháo gỡ trong quá trình thực hiện Luật KKĐTTN (sửa đổi): Chương 3: một số khuyến nghị về giải pháp khuyến khích đầu tư trong nước. 3.1. Định hướng quan điểm KKĐTTN: 3.2. Sửa đổi và hoàn thiện khung pháp lý về KKĐTTN: 3.3. Đẩy mạnh việc phổ biến, tuyên truyền Luật và phối hợp thực hiện: 3.4. Khuyến khích mạnh đầu tư của khu vực kinh tế dân doanh: 3.4.1 Nâng cao nhận thức và quan điểm đối xử với kinh tế dân doanh: 3.4.2 Tạo một môi trường bình đẳng giữa khu vực quốc doanh và khu vực dân doanh: 3.4.3 Nâng cao trình độ cho các chủ doanh nghiệp dân doanh: 3.5. Xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài: 3.6. Nâng cao hiệu quả của các biện pháp hỗ trợ đầu tư: 3.4.1 Công khai quy hoạch sử dụng đất và đơn giản hơn nữa thủ tục đất đai: 3.4.2 Cải tổ quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia: 3.4.3 Các biện pháp hỗ trợ đầu tư khác: CHƯƠNG 1: MộT Số VấN Đề Lý LUậN Về ĐầU TƯ Và KHUYếN KHíCH ĐầU TƯ TRONG NƯớC. 1.1. Những khái niệm cơ bản về đầu tư: Trong điều kiện của nền sản xuất hàng hoá, để tiến hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thì điều kiện không thể thiếu là phải có tiền. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tiền này được dùng để xây dựng nhà xưởng, mua sắm trang thiết bị… (tạo ra các cơ sở vật chất kỹ thuật); mua sắm nguyên vật liệu, trả lương cho người lao động trong chu kỳ sản xuất kinh doanh dịch vụ đầu tiên (tạo vốn lưu động gắn liền với sự hoạt động của các TSCĐ vừa tạo ra). Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang hoạt động, tiền này dùng để mua sắm thêm các máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng, tăng vốn lưu động nhằm mở rộng quy mô hoạt động hiện có, sửa chữa hoặc mua sắm các TSCĐ mới thay thế các TSCĐ đã bị hư hỏng, hao mòn hữu hình (là các hao mòn do quá trình sử dụng và do tác động của khí hậu, thời tiết) và vô hình (khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng làm cho nhiều TSCĐ trở nên lạc hậu không còn thích hợp với điều kiện mới, nếu tiếp tục sử dụng sẽ không có hiệu quả). Vì số tiền cần thiết cho hoạt động đầu tư là rất lớn nên không phải cơ sở sản xuất kinh doanh nào cũng có đủ tiền để tiến hành hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, họ có thể huy động từ nhiều nguồn khác như: vay ngân hàng; vay bạn bè, người thân; mời cơ sở khác hợp tác đầu tư, vay từ bạn hàng… Từ đây, ta có thể rút ra định nghĩa về vốn đầu tư và nguồn gốc của vốn đầu tư như sau: Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho nền sản xuất xã hội. Quá trình sử dụng vốn đầu tư xét về mặt bản chất chính là quá trình thực hiện sự chuyển hoá vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt. Quá trình này được gọi là hoạt động đầu tư hay đầu tư vốn. Do đó, ta có khái niệm đầu tư như sau: Đầu tư được hiểu là sự hi sinh hay chi dùng các nguồn lực (về tài chính, lao động, vật chất, tài nguyên thiên nhiên…) trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai. Tuy nhiên, xét trên giác độ nền kinh tế quốc dân thì không phải toàn bộ các hoạt động đầu tư đều mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Ví dụ như hoạt động gửi tiền tiết kiệm, mua cổ phần, mua hàng tích trữ vào dịp Tết ... Các hoạt động này thực chất chỉ là sự chuyển giao quyền sử dụng tiền (gửi tiết kiệm), quyền sở hữu cổ phần (mua cổ phần) và hàng hoá (mua hàng tích trữ) từ người này sang người khác và do đó chỉ làm cho số tiền thu về của nhà đầu tư lớn hơn số tiền mà họ bỏ ra. Giá trị tăng thêm này lại chính là mất đi của các chủ thể khác (quỹ tiết kiệm, của cổ đông đã bán đi cổ phần, của người mua hàng với giá cao). Tài sản của nền kinh tế trong trường hợp này không có sự thay đổi một cách trực tiếp. Do đó, để thuận tiện cho việc nghiên cứu tiềm lực và sự phát triển của một nền kinh tế cũng như một doanh nghiệp, người ta đưa ra một khái niệm quan trọng nữa là đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là một bộ phận cơ bản của đầu tư, là quá trình chuyển hoá vốn bằng tiền thành vốn hiện vật; là quá trình chi dùng vốn nhằm tạo ra những yếu tố cơ bản của sản xuất, kinh doanh dịch vụ, đời sống, tạo ra những tài sản mới, năng lực sản xuất mới và duy trì tiềm lực sẵn có của nền kinh tế hay là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tạo ra các tài sản mới trong tương lai. Ta thấy rằng: không có một cơ sở sản xuất kinh doanh nào có thể tồn tại và phát triển nếu không có hoạt động đầu tư. Còn đối với toàn bộ nền kinh tế thì hoạt động đầu tư cũng đóng một vai trò quan trọng. Vì hoạt động đầu tư tác động đến cả tổng cung tổng cầu; đến tốc độ tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tao điều kiện tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước… Có thể nói, đầu tư là động lực cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp cũng như mỗi quốc gia. Để tiện cho việc theo dõi, quản lý, nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư, người ta thường phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu chí như: - Theo tính chất của các đối tượng đầu tư hoạt động đầu tư gồm : đầu tư cho đối tượng vật chất, tài chính, đối tượng phi vật chất. - Theo cơ cấu tái sản xuất hoạt động đầu tư gồm: đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu. - Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể chia thành: đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp. - Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội, hoạt động đầu tư có thể chia thành: đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. - Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư, hoạt động đầu tư được phân chia thành: đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các TSCĐ, đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động. Nhưng nếu xét trên bình diện quốc gia người ta thường phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Đầu tư trong nước, theo Điều 2 – Luật KKĐTTN, là việc bỏ vốn vào sản xuất, kinh doanh tại Việt nam của các tổ chức, công dân Việt nam , người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài cư trú lâu dài ở Việt nam. Còn đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành hoạt động đầu tư. Đầu tư nước ngoài thường được chia thành đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Cũng theo Luật KKĐTTN, khuyến khích đầu tư trong nước được hiểu là việc sử dụng các cơ chế, chính sách, biện pháp nhằm kích thích quá trình bỏ vốn vào các ngành, lĩnh vực, địa bàn trên cơ sở chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từng thời kỳ của đất nước. Các nguồn lực cho hoạt động đầu tư bao gồm: nguồn lực về tài chính (vốn), nguồn lực về con người (nhân lực), nguồn lực về máy móc thiết bị (vật lực), nguồn tài nguyên thiên nhiên … Các nguồn lực này có mối quan hệ chặt chẽ và trong một điều kiện nhất định có thể chuyển hoá, thay thế lẫn nhau. Trong đó thì nguồn vốn tiền tệ là quan trọng nhất, vì nó có thể dùng để lượng hoá cho các nguồn lực còn lại. Như vậy, có sự khác biệt nhất định giữa khái niệm đầu tư và các nguồn lực cho hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, nếu không có các nguồn lực thì hoạt động đầu tư không thể diễn ra được. Do đó, trong phạm vi khoá luận của mình, khái niệm khuyến khích đầu tư trong nước có thể được hiểu với khái niệm huy động nguồn lực trong nước. Cũng như hoạt động đầu tư, người ta thường phân chia nguồn vốn cho đầu tư thành 2 nguồn chính là: + Nguồn vốn trong nước,được huy động từ các nguồn: - Tiết kiệm của chính phủ (tạo vốn qua Ngân sách): đây là nguồn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tư trong nước. Nguồn này chủ yếu được tập trung cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, đầu tư phát triển một số công trình công nghiệp then chốt, các công trình công cộng hay các công trình liên quan đến an ninh quốc gia… - Tiết kiệm của doanh nghiệp và tổ chức: nguồn này được lấy chủ yếu từ quỹ khấu hao của các doanh nghiệp. Nó thường được đầu tư vào những lĩnh vực mang lại lợi nhuận cao, thâm nhập thị trường quốc tế hay nâng cao khả năng cạnh tranh của cơ sở… - Tiết kiệm của khu vực dân doanh: đây là nguồn vốn khá lớn có khả năng đáp ứng nhu cầu về vốn cho đầu tư trong tương lai nhưng chưa được huy động hiệu quả. ở nước ta, nguồn vốn của khu vực này mới chỉ chú trọng vào thu hút tiền gửi tiết kiệm mà chưa chú trọng vào khuyến khích người dân bỏ tiền ra đầu tư. + Nguồn vốn nước ngoài: - Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài: là nguồn vốn của chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức và cá nhân nước ngoài … được thực hiện dưới các hình thức khác nhau như: viện trợ hoàn lại, viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi, mua cổ phiếu, trái phiếu của các công ty của Việt nam. Một hình thức phổ biến của đầu tư gián tiếp là viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển – ODA. Vốn đầu tư gián tiếp thường lớn, cho nên có tác dụng mạnh và nhanh đối với việc giải quyết dứt điểm các nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, tiếp nhận vốn đầu tư gián tiếp thường gắn với những điều kiện về chính trị do đó dễ bị lệ thuộc vào nước ngoài. - Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): là nguồn vốn do các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức của nước ngoài đầu tư vào Việt nam. Vốn này thường không đủ lớn để giải quyết dứt điểm từng vấn đề kinh tế – xã hội của nước chủ nhà. Tuy nhiên, nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình chuyển giao công nghệ, giải quyết công ăn việc làm, thâm nhập thị trường quốc tế, học hỏi kinh nghiệm quản lý… của nước chủ nhà. Việt nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, còn thiếu thốn về mọi mặt, từ vốn tiền tệ, máy móc thiết bị .. đến đội ngũ nhân lực có trình độ cao. Tuy nhiên, dân tộc ta là một dân tộc hiếu học, có tinh thần yêu nước mạnh mẽ, không chịu khuất phục trước bất kỳ khó khăn nào. Nhận thức được vị thế yếu kém cũng như những khó khăn của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách và biện pháp cụ thể để huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước, để đến năm 2020, cơ bản trở thành một nước công nghiệp hoá - theo văn kiện Đại hội Đảng IX. Muốn đạt được điều đó, cũng theo văn kiện Đại hội Đảng IX, thì chúng ta phải cần khoảng 830 - 850 tỷ đồng (tương đương 59-61 tỷ USD) trong thời gian 5 năm tới, trong đó nguồn vốn trong nước chiếm 2/3. Do đó, vai trò của đầu tư trong nước và chính sách KKĐTTN càng có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn này. 1.2. Vai trò của đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư trong nước: Như đã trình bày ở phần trên, hoạt động đầu tư có một vai trò hết sức quan trọng. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển đối với từng cơ sở sản xuất kinh doanh cũng như đối với toàn bộ nền kinh tế. Trên bình diện quốc gia, hoạt động đầu tư có thể chia thành 2 hoạt động chính là: đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Là một nước đang phát triển, có nhu cầu đầu tư rất lớn, Nhà Nước ta đã có chủ trương tận dụng tối đa nguồn vốn đầu tư nước ngoài đồng thời tăng cường phát huy nội lực, dựa vào nguồn vốn đầu tư trong nước là chính. Bởi vì, đầu tư trong nước đóng vai trò quyết định cho công cuộc phát triển đất nước. Điều này đã được cả lý luận và thực tế chứng minh. Thứ nhất, xét về mối quan hệ biện chứng giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Kinh nghiệm trong nước và quốc tế đã chỉ ra rằng: vốn đầu tư nước ngoài có vai trò rất quan trọng nhất là trong giai đoạn đầu của quá trình tăng trưởng, đặc biệt là đối với các nước chậm phát triển, với các nguồn vốn tích luỹ trong nước còn thấp, bắt buộc phải tranh thủ nguồn vốn bên ngoài. Nó được ví như “cú hích” đội phá vào cái vòng luẩn quẩn của nghèo đói, tạo điều kiện cho nền kinh tế cất cánh. Mặc dù nguồn vốn nước ngoài là rất quan trọng song nguồn vốn đầu tư trong nước vẫn đóng vai trò quyết định. Bởi lẽ, nguồn vốn đầu tư nước ngoài dù có lớn đến đâu nữa nếu không có các nguồn vốn đầu tư do sự tích luỹ từ nội tại nền kinh tế thì nguồn vốn từ nước ngoài cũng không thể sử dụng có hiệu quả. Mặt khác, đầu tư trong nước vừa đảm bảo tăng trưởng ổn định, lại vừa tránh được sự phụ thuộc vào nước ngoài. Tuy đầu tư nước ngoài là vô cùng quan trọng, nhưng không thể thực hiện tốt mục tiêu CNH, HĐH đất nước nếu chỉ trông chờ vào đầu tư nước ngoài. Vì họ chỉ đầu tư vào các ngành, khu vực có nhiều thuận lợi để khai thác các lợi thế của Việt nam. Khi không còn kiếm được lợi nhuận họ sẽ ngay lập tức rút khỏi nước ta. Đầu tư trong nước có một tiềm năng to lớn và ít biến động hơn dưới ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài, cần và có thể đóng vai trò chủ đạo, nhất là trong điều kiện đầu tư nước ngoài đang giảm sút nghiêm trọng như hiện nay. Còn nếu xét trên tầm vi mô, cùng với vốn bên ngoài, nhất thiết phải có vốn “đối ứng” bên trong mới có thể triển khai công trình thuận lợi. Thêm vào đó, cần có cả vốn cho các công trình “ngoài hàng rào” như đầu tư vào cơ sở hạ tầng: điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc và hạ tầng xã hội khác. Theo như kinh nghiệm các nước, nếu vốn đầu tư cho nhà máy là 1 thì vốn đầu tư ngoài hàng rào cho các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội cũng phải nhiều hơn, có khi 2 –3 lần. Do đó, dù là công trình vay vốn nước ngoài thì vốn trong nước cũng rất quan trọng. Thứ hai, trong lịch sử phát triển các nước và trên phương diện lý luận chung, bất cứ nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi viện, bổ sung từ nước ngoài, dù là viện trợ, cho vay hay đầu tư của nước ngoài cũng chỉ là tạm thời. Nếu bản thân nền kinh tế không có tiết kiệm nội bộ, thì đó là nền kinh tế “tiêu hao”, ăn dần mòn vào của cải, kết cục sẽ đi vào con đường bế tắc cho sự phát triển. Vốn ODA là vốn vay thì cuối cùng cũng phải dùng vốn trong nước để thanh toán nợ gốc và trả lãi. Việc dùng vốn FDI cũng chỉ là phần bổ sung, không thể thay thế cho đầu tư và sản xuất trong nước. Hơn nữa, trong thời kỳ dài hạn, nguồn của cải làm ra phải dành một phần cho chuyển lãi và vốn gốc ra nước ngoài, nên việc thiếu vốn vẫn căng thẳng. ở Việt nam những năm (1966-1990), khi tích luỹ nội bộ nền kinh tế là con số âm thì cũng đồng thời là thời kỳ phát triển kinh tế bấp bênh, mất cân đối nghiêm trọng. Khi nền kinh tế có mức tích luỹ nội bộ ngày càng cao (từ 1991 đến nay) thì đồng thời nhịp độ tăng trưởng kinh tế cũng tăng lên và tạo điều kiện cho phát triển dài hạn. Thứ ba, nếu xét về mặt lợi ích dân tộc, nếu không có vốn trong nước đủ mức, xét về lâu dài khối lượng của cải làm ra (thông qua chỉ tiêu GDP) có thể lớn, nhưng của cải thực sự mà nhân dân ta được hưởng thụ lại rất ít. Thành ra, nền kinh tế có vẻ phồn vinh , sản phẩm có vẻ dồi dào, nhưng là phồn vinh giả do của cải không vào tay nhân dân trong nước. Hiện nay, tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam vào các liên doanh chỉ giậm chân ở mức 30% như hiện nay cũng do tình trạng thiếu vốn đối ứng trong nước. Không ít xí nghiệp phải dùng quỹ đất đưa vào góp vốn, phần thiếu lại đi vay nợ nước ngoài để đóng góp vốn cho các liên doanh. Tuy nhiên, để đầu tư trong nước thể hiện được vai trò của mình, thì điều kiện không thể thiếu được là phải có một cơ chế, chính sách phù hợp tạo động lực khuyến khích đầu tư trong nước. Cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư này cũng có vai trò không kém phần quan trọng. Thứ nhất, nó tạo điều kiện huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn, tài nguyên, lao động và các tiềm năng khác của đất nước nhằm góp phần phát triển kinh tế – xã hội. Thứ hai, nó góp phần phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các vùng, địa phương trong cả nước. Thứ ba, nó thể hiện vai trò quản lý Nhà Nước về kinh tế đối với hoạt động đầu tư. Bằng các qui định về luật pháp, các đòn bẩy kinh tế, Nhà Nước quản lý các hoạt động đầu tư trong nước theo hướng có lợi nhất cho sự phát triển kinh tế, đảm bảo công bằng xã hội. Từ những lý do trên, rõ ràng là đầu tư trong nước và khuyến khích đầu tư trong nước có một ý nghĩa quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. 1.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về khuyến khích đầu tư trong nước: Kinh nghiệm thành công của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng không một nước nào có thể phát triển kinh tế thành công nếu chỉ dựa vào vốn nước ngoài. Nếu như trong giai đoạn đầu, khi đất nước còn nghèo và chưa phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài có thể cao, song toàn bộ quá trình CNH – HĐH, cùng với quá trình phát triển, tỷ lệ vốn nước ngoài thường thấp hơn so với vốn trong nước. Nhưng việc đánh giá đúng vai trò và mối quan hệ giữa chiến lược thu hút vốn trong nước và vốn nước ngoài trong từng thời kỳ nhất định không phải là công việc đơn giản. Xuất phát từ luận điểm trên, tôi xin trình bày một số biện pháp khuyến khích đầu tư được coi là thành công của các nước Châu á, từ đó rút ra những kinh nghiệm cho việc KKĐTTN ở nước ta. 1.3.1 Các biện pháp và chính sách huy động vốn đầu tư trong nước của một số nước trên thế giới: Một trong những biện pháp huy động vốn đầu tư mà hầu hết các nước trên thế giới đều áp dụng và ban hành và thực thi Luật thúc đẩy (hay khuyến khích đầu tư). Nhìn chung, các đạo Luật này đều nhằm mục đích thúc đẩy hoạt động đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế, đồng thời nó cũng hướng đầu tư vào một số lĩnh vực ưu tiên phát triển của đất nước. 1.3.1.1 Malaysia: ở Malaysia, các biện pháp ưu đãi và khuyến khích đầu tư được quy định chủ yếu trong Luật khuyến khích đầu tư ban hành năm 1986 và Luật Thuế thu nhập công ty năm 1967. Malaysia quy định chế độ khuyến khích và ưu đãi đầu tư cho từng lĩnh vực: công nghiệp, nông nghiệp và du lịch. Trong ưu đãi từng ngành, có biện pháp ưu đãi, khuyến khích đầu tư chung và ưu đãi đầu tư theo mục tiêu. A> Đối với ngành công nghiệp: Các biện pháp ưu đãi chung bao gồm: Miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các dự án thuộc loại ưu tiên; được hưởng chế độ trợ cấp đến 100% số vốn đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu, kể từ khi thông qua dự án, trợ cấp cho tái đầu tư với mức tối đa là 40% số vốn tái đầu tư. Ngoài ra, Malaysia còn có các biện pháp khuyến khích đầu tư cho xuất khẩu (như cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, khấu trừ ra khỏi lợi tức chịu thuế một khoảng bằng 5% giá trị nguyên liệu trong nước được sử dụng để sản xuất hàng xuất khẩu, tính gấp đôi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, trợ cấp xuất khẩu, tính gấp đôi phí khuyến mại, quảng cáo, nghiên cứu và tìm kiếm thị trường ở nước ngoài…); các biện pháp khuyến khích đầu tư nghiên cứu và phát triển (khấu trừ mọi chi phí nghiên cứu khoa học do công ty thực hiện hoặc được thực hiện nhân danh công ty, nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động kinh doanh của công ty, ra khỏi lợi tức chịu thuế, trợ cấp vốn cho việc mua máy móc, thiết bị phục vụ cho nghiên cứu khoa học, khấu trừ ra khỏi lợi tức chịu thuế các khoản đóng góp cho các viện nghiên cứu được Nhà Nước thừa nhận); các biện pháp khuyến khích cho đào tạo (trợ cấp xây dựng nhà xưởng cho công tác đào tạo, tính gấp đôi chi phí đào tạo công nhân ở các viện đào tạo được Nhà Nước công nhận). B> Đối với ngành nông nghiệp: Các biện pháp ưu đãi chung bao gồm: miễn thuế lợi tức tối đa 10 năm cho các công ty chế biến sản phẩm nông nghiệp hoặc có đủ điều kiện do Bộ Thương mại và Công nghiệp quy định; được trợ cấp đến 100% chi tiêu đầu tư thực hiện trong 5 năm đầu. Ngoài ra, lĩnh vực này cũng có các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, khuyến khích nghiên cứu và phát triển và khuyến khích đào tạo như đối với công nghiệp. Như vậy, đối với 2 lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế (công nghiệp và nông nghiệp), ngoài các biện pháp ưu đãi chung, Malaysia còn tập trung khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xuất khẩu, nghiên cứu và phát triển, đào tạo. Điều này thể hiện quan điểm dựa vào nội lực để phát triển khoa học – kỹ thuật và đội ngũ công nhân kỹ thuật cao của Malaysia. C> Đối với ngành du lịch: Các biện pháp ưu đãi chung giống với đối với ngành công nghiệp, đồng thời những người thực hiện du lịch lữ hành hàng năm đưa vào Malaysia ít nhất 500 khách du lịch thì được miễn thuế thu nhập đối với phần thu nhập đực từ kinh doanh du lịch theo hình thức này. Ngoài chế độ ưu đãi riêng cho từng ngành như trên , đạo Luật này còn quy định một số biện pháp khuyến khích đầu tư chung cho tất cả các ngành như miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị nhập khẩu phục vụ cho các dự án đầu tư, các nguyên liệu, vật liệu để sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu; hoàn thuế doanh thu đối với nguyên liệu, vật tư sản xuất trong nước được sử dụng sản xuất hàng xuất khẩu hoặc đóng gói hàng xuất khẩu. 1.3.1.2. Inđônêxia: Còn ở Inđônêxia, các biện pháp ưu đãi chủ yếu quy định trong Luật về đầu tư trong nước (ban hành 1968) bao gồm: - Vốn đầu tư được thực hiện trong 5 năm đầu kể từ khi Luật này có hiệu lực, không bị điều tra về nguồn gốc, không phải là đối tượng đánh thuế. - Miễn thuế tài sản đối với vốn đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên. - Thời hạn miễn thuế lợi tức tối đa cho một dự án là 6 năm và tối thiểu là 2 năm. - Miễn thuế thu nhập đối với lợi tức cổ phần trong thời hạn tương ứng. - Hoàn thuế lợi tức đối với lợi nhuận tái đầu tư. - Miễn, giảm thuế nhập khẩu đối với tư liệu nhập khẩu. - Các chế độ giảm thuế lợi tức khác. 1.3.1.3. Thái Lan: ở Thái Lan, Luật thúc đẩy đầu tư được ban hành năm 1977 và được sửa đổi lại vào năm 1992. Luật này có điểm khác biệt so với luật của các nước khác là nó áp dụng cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Luật này quy định các tiêu chuẩn chủ yếu để được cấp ưu đãi đầu tư (như số vốn và nguồn vốn đầu tư; loại sản phẩm, dịch vụ; mức độ sử dụng nguyên liệu trong nước; mức độ sử dụng công nhân và chuyên gia trong nước; bảo vệ môi trường; ưu đãi đặc biệt cho sản xuất hàng xuất khẩu…); các biện pháp ưu đãi chủ yếu (miễn thuế lợi tức từ 3 đến 8 năm, miễn giảm thuế nhập khẩu, miễn thuế thu nhập cổ phần …). Ngoài ra còn có các ưu đãi riêng cho các dự án đầu tư vào các vùng ưu tiên đầu tư (giảm 50 % thuế lợi tức trong 5 năm tiếp theo kể từ khi hết hạn miễn thuế, khấu trừ thuế…) và các dự án sản xuất hàng xuất khẩu( miễn thuế, khấu trừ thuế...). 1.3.1.4. Đài Loan: ở nước này, biện pháp khuyến khích chủ yếu là khuyến khích về thuế (khấu hao nhanh để đổi mới thiết bị, cho nợ thuế để đầu tư, miễn thuế lợi tức, áp dụng mức thuế tối đa … cho từng loại doanh nghiệp khác nhau). Ngoài ra, ở nước Đài Loan người ta còn sử dụng một số biện pháp khác như: cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi; cho vay đầu tư với lãi suất ưu đãi từ Quỹ đầu tư; Ưu đãi đầu tư nghiên cứu và phát triển; đào tạo nghề miễn phí cho thanh niên… 1.3.1.5. Hàn Quốc: Đối với Hàn Quốc, điểm đáng chú ý là có 3 giai đoạn phát triển với những ưu tiên phát triển khác nhau. A> Giai đoạn thứ nhất: kéo dài đến đầu thập kỷ 70 mà trọng tâm ưu tiên phát triển là khuyến khích và thúc đẩy tăng kim ngạch xuất khẩu. ở giai đoạn này, Chính phủ Hàn Quốc áp dụng các biện pháp như: cấp tín dụng xuất khẩu với lãi suất ưu đãi, trợ cấp trực tiếp; giảm cước phí vận chuyển, miễn giảm thuế nhập khẩu, hoàn thuế gián thu… B> Giai đoạn thứ hai: kéo dài trong suốt thập kỷ 70 cho đến những năm đầu thập kỷ 80, trong đó ưu tiên phát triển được dành cho công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Trong giai đoạn này, mức độ và ưu tiên cho xuất khẩu giảm xuống, thay vào đó là các biện pháp nhằm khuyến khích phát triển ngành công nghiệp nặng và công nghiệp hoá chất. Đó là các biện pháp: Miễn giảm thuế lợi tức (được qui định cụ thể cho từng ngành công nghiệp); cấp tín dụng ưu đãi từ Quỹ đầu tư quốc gia; Bảo lãnh các khoản vay thương mại; miễn thuế nhập khẩu đối với tư liệu sản xuất, thiết bị nhập khẩu … C> Giai đoạn thứ ba: bắt đầu từ thập kỷ 80 mà trọng tâm của nó đã chuyển sang khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chính phủ Hàn Quốc tập trung vào 5 nhóm biện pháp chính là: hỗ trợ người bắt đầu bước vào kinh doanh; hỗ trợ cơ cấu lại doanh nghiệp vừa và nhỏ; hỗ trợ cung cấp mặt bằng kinh doanh; hỗ trợ đầu tư vào TSCĐ. Nhìn chung, các biện pháp hỗ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc62048.doc
Tài liệu liên quan