Đề tài Thực trạng phát triển du lịch và triển vọng của sự kết hợp phát triển nông nghiệp – nông thôn ở Khánh Hòa

Quan điểm phát triển ngành nông nghiệp: Tập trung chuyển dịch cơ cấu

nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm ngành

chăn nuôi và chuyển dịch cơ cấu ngànhtrồng trọt theo hướng giảm cây lương

thực, tăng cây công nghiệp và cây ăn quả. Phát triển nông nghiệp theo hướng

52

sản xuất hàng hóa, phục vụ du lịch, triển khai ứng dụng các thành tựu khoa

học, công nghệ vào sản xuất. Phát triển một nền nông nghiệp sinh thái bền

vững, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, nguồn nước, bảo vệ môi

trường tự nhiên trong sạch. Giữ gìn diện tích rừng hiện có và phát triển công

tác trồng rừng.

Mục tiêu đặt ra cho ngành là: 1) Về mặt xã hội, phấn đấu đến năm 2010

giảm tỷ lệ nghèo đóiở nông thôn vùng núi xuống còn 10-15%, có 95% dân số

nông thôn được sử dụng nước sạch. 2) Về mặt môitrường, hạn chế tới mức thấp

nhất việc sử dụng phân chuồng chưa qua xử lý, các loại thuốc hóa học trong

phòng trừ dịch bệnh. Khuyến khích sử dụng các loại phân có nguồn gốc hữu cơ,

phân chuồng, áp dụng rộng rãi các biện pháp phòng trừ dịch bệnh tổng hợp.

Riêng đối với ngành thủy sản, để thực hiện quanđiểm phát triển của

ngành đó là kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế biển với bảo vệ tài nguyên và

môi trường sinh thái trong toàn bộ và trong từng công việc, bảo đảm sự phát

triển bền vững của biển, ven biển và các đảo, một số nhiệm vụ cần phải thực

hiện trong thời gian tới là: có những biện pháp phát triển nuôi trồng thủy sản ở

mặt nước lớn; phát triển đốitượng nuôi đặc biệt các hải đặc sản và những đối

tượng giúp ngư dân xóanghèo và bảo vệ môi trường;tiếp tục triển khai các dự

án trong lĩnh vực hợptác quốc tế như khu bảo tồnbiển Hòn Mun, khu bảo tồn

biển Rạn Trào, triển khai cácdự án liên kết về nuôi trồng thủy sản với các tổ

chức quốc tế; tăng cường bảo vệ đa dạng sinh học như rừng ngập mặn, rạn san

hô, các vùng bãi đẻ, bãi giống của cá, tôm hùm, nghêu, sò ;nghiên cứu các

giải pháp để bảo vệ các nguồn lợi vùng ven biển, tổ chức du lịch sinh thái,

chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp.

pdf89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1153 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng phát triển du lịch và triển vọng của sự kết hợp phát triển nông nghiệp – nông thôn ở Khánh Hòa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốt và phát triển hoạt động du lịch bền vững tại làng. Các làng du lịch cũng có thể là “các trạm xanh” ( )1 phục vụ du lịch, đón tiếp các du khách trên tuyến tham quan các khu bảo tồn thiên nhiên, các vùng sản xuất đặc sản nông nghiệp, các di tích lịch sử văn hóa nằm tại không gian nông thôn hay để phục vụ du khách đến tham gia các lễ hội diễn ra tại không gian của khu vực nông, tại các vùng sinh sống của dân tộc ít người bản địa. Các trạm xanh này có các thiết bị vui chơi giải trí tối thiểu. Tác dụng chính của việc hình thành các làng du lịch này là: 1) Việc phát triển các làng du lịch thay cho việc phát triển các dự án đầu tư từ bên ngoài, mà chúng thường đi kèm với việc làm biến đổi nguyên trạng của khu vực, sẽ giúp giữ được vẽ nguyên sơ của những vùng được du khách chọn làm nơi chiêm ngưỡng, thưởng thức. Đây là yếu tố ngày càng thu hút được nhiều du khách ( )2 ; 2) Hạn chế được tiêu cực mà các chuyên gia trong nước lẫn nước ngoài nhìn nhận là một thực tế rõ ràng đó là “các nhà đầu tư đã tự bộc lộ rõ là họ quan tâm đến du lịch với tư cách một dịch vụ, một hoạt động kinh tế phù hợp với nhu cầu của mọi tầng lớp xã hội ít hơn là lo việc đầu cơ cơ đất đai”( )3 ; 3) Góp phần vào việc hạn chế làn sóng chạy khỏi nông thôn của người dân thông qua việc giúp họ trực tiếp kiếm được thêm thu nhập; 4) Làng, cụm du lịch sẽ là hình thức giúp phát huy được giá trị của du lịch văn hóa, các cộng đồng dân cư nông thôn là nơi mà các truyền thống và phong tục được lưu giữ nhiều nhất. Điều 1 G. Cazes, R. Lanquar, Y. Raynouard (2000), Quy hoạch du lịch, Hà Nội, trang 129. 2 G. Cazes, R. Lanquar, Y. Raynouard (2000), trang 46. 3 G. Cazes, R. Lanquar, Y. Raynouard (2000), trang 69. 58 quan trọng là cần phải có các hình thức khơi dậy phong trào gìn giữ và phát triển vốn văn hóa truyền thống phong phú đó ở nông thôn, và phát triển làng du lịch để phục vụ các hoạt động du lịch văn hóa, giao lưu văn hóa là hình thức nên lựa chọn; 5) Bảo vệ được khu vực cư trú truyền thống của người dân; 6) Trong các làng du lịch, người dân được tham gia vào các hoạt động chung, là những người chịu các tác động trực tiếp của hoạt động du lịch, và do đó sẽ là những người buộc phải tích cực tham gia các hoạt động chung và các quyết sách chung của làng. Họ sẽ là những người chủ động tham gia phòng ngừa các hậu quả tiêu cực mà du lịch có thể gây ra, thông qua việc tuân thủ các quy chế chung của làng để bảo vệ lợi ích của chính mình và cũng là của cả làng. 7) Các làng hoạt động có tổ chức sẽ là nơi bảo lãnh vay có uy tín, vì phải là những người tuân thủ được các qui chế của làng được bà con thấu hiểu, khắc phục tình trạng thiếu thông tin hay thông tin không hoàn hảo trong hoạt động tín dụng. Do vậy, người dân sẽ có điều kiện tiếp cận các dịch vụ tín dụng. 8) Các làng, cụm du lịch có tổ chức chính là hình thức cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch của địa phương; 9) Các khu vực đẹp của thiên nhiên thường là các khu vực nhạy cảm, phát triển làng du lịch với sự tôn trọng cách tương tác truyền thống giữa dân cư bản địa và môi trường là một giải pháp có ưu thế và có khả năng trong việc cải thiện tình hình môi trường. Sự thành công của các làng du lịch ở Malaysia, các khu du lịch nông sản ở Thái Lan hay ngay tại Việt Nam là làng du lịch ở thôn Dõi, huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế là minh chứng cho tính chất tốt đẹp của mô hình. Các việc chủ yếu cần làm để có thể phát triển các làng du lịch nằm trong giải pháp sau b) Các giải pháp xúc tiến hỗ trợ cho quá trình phát triển làng du lịch • Bổ sung các yếu tố cần thiết mà các du khách cảm thấy cần thiết và không thể thiếu trong cuộc hành trình của họ như nước sạch, điện, đường điện thoại để kết nối internet, truyền hình vệ tinh DTH,… Các yếu tố này nên có tại các trung tâm đón khách của mỗi làng. Điều này cần sự nổ lực của không chỉ của hai ngành mà còn của nhiều ngành. Các làng du lịch phải chú ý tới các biện pháp tập trung sự chú ý của du khách vào vấn đề giữ vệ sinh môi trường trước khi bước vào khu vực của làng. 59 • Đối với các làng nghề, sau khi có sự quy hoạch phát triển, cần phải hình thành các khu để ký gởi hàng hóa cả tại nội khu của làng nghề và cả tại các trung tâm du lịch lớn trong tỉnh. Chúng cũng đồng thời là nơi để du khách có thể tham quan bên cạnh việc tìm mua quà lưu niệm. Các khu này phải là nơi được miễn thuế cho các sản phẩm từ các làng nghề được ký gởi. • Bên cạnh đó, các làng du lịch và cả các khu du lịch khác phải nên tăng việc sử dụng các sản phẩm đặc sắc của các làng nghề thủ công để làm vật trang trí và sinh hoạt. • Các khu vực trung tâm du lịch cần phải có các địa điểm sản xuất mẫu để thu hút khách du lịch tham quan và phải có sự giới thiệu về các làng du lịch và cách thức sinh hoạt trong đời sống cũng như các giá trị văn hóa của các làng một cách có hiểu biết và bài bản. • Địa phương cần phải có biện pháp hỗ trợ về mặt kỹ thuật, đào tạo và dụng cụ để có thể làm cho các mặt hàng của nông nghiệp – nông thôn trở nên tinh xảo, phải giúp người dân trong việc phát triển mẫu mã mới nhằm đáp ứng yêu cầu cao của ngành du lịch. • Phải phát triển các sản phẩm ăn uống đặc sắc, mang phong cách riêng của địa phương và liên tục tổ chức các chương trình ẩm thực mang đậm phong cách của địa phương với những cách chế biến đặc biệt trong dân gian. • Xây dựng các làng du lịch, làng nghề cũng phải đi kèm với việc tiến hành bảo hộ các giá trị của riêng các làng đó, ví dụ như bảo vệ mẫu mã các kiểu trang phục truyền thống, các mẫu vải, các công thức ăn uống,… để giảm tình trạng sử dụng các vốn tài sản truyền thống và các giá trị sáng tạo của người dân các vùng này vào mục đích kinh tế theo một cái cách không trả phí cho họ (đây là vấn đề khó khăn). • Các điều kiện tiếp theo đó là từng bước nâng cấp cơ sở đường xá liên các vùng trong nông thôn, phối hợp với ngành giáo dục nâng cao sự hiểu biết của người dân về các kiến thức phục vụ du lịch. Công việc cũng cố và hoàn thiện các công trình thủy lợi phải liên tục được thực hiện tốt. Phải có bãi rác tập trung đạt tiêu chuẩn và phương tiện thu gom rác thích hợp. Công tác phân loại rác ngay từ đầu cũng cần phải được đầu tư, làm sao cho người dân ở 60 những nơi này có thể biết được loại rác nào gây nguy hại cho môi trường nhiều nhất và có hành động phân tách, tập trung từng loại rác khác nhau tại những thùng rác khác nhau. • Đối với các làng ngư dân trên các đảo, nơi rất có tiềm năng du lịch, đang có nguy cơ ô nhiễm rác thải thì việc phối hợp tuyên truyền xây dựng làng chài xanh, sạch đẹp phải được đặc biệt chú ý và việc thu phí từ các tour (các tàu, thuyền) phục vụ cho việc giữ gìn và làm sạch môi trường cần phải được xem xét bên cạnh việc phát triển các trạm nghỉ ngơi do cộng đồng quản lý. • Việc cuối cùng cần phải quan tâm là tạo nhãn mác cho các làng, khu du lịch này. Chính quyền địa phương sau khi quy hoạch các vùng này cần phải hình thành các tiêu chuẩn để người dân trong vùng nổ lực thực hiện đồng thời xác định nhãn cho nó thể hiện nét riêng của nơi mà du khách sẽ đặt chân đến. Chính điều này sẽ góp phần làm tăng tinh thần tự hào và sự tích cực tham gia hưởng ứng của người dân trong các làng. Việc hỗ trợ vốn ban đầu cho sự phát triển của các làng du lịch là vấn đề mà các tổ chức của địa phương cần quan tâm nhiều, việc phát động và thể hiện mục tiêu trở thành một thành phố du lịch cũng nên thường xuyên thực hiện. c) Quy hoạch và phát triển các làng nghề truyền thống có khả năng tiếp đón du khách. Việc quy hoạch cần phải căn cứ vào hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường của ngành nghề nông thôn trên địa bàn, phải căn cứ vào sức hấp dẫn và tính độc đáo của ngành nghề nông thôn để có thể tạo ra hiệu quả kinh tế tốt cho việc hình thành các làng nghề du lịch, phải căn cứ vào khả năng xây dựng vùng nguyên liệu và khả năng tạo việc làm cho người dân trong khu vực. Quá trình quy hoạch phải được đi kèm với các hoạt động đầu tư cho việc bảo tồn các nét riêng, độc đáo của mỗi làng nghề và đẩy mạnh tính sáng tạo trong sản phẩm của các làng nghề được lựa chọn thông qua các lớp đào tạo được sự hỗ trợ của địa phương, thu hút sự tham gia của các nghệ nhân có tay nghề cao tham gia dạy nghề cho người dân trong làng. Các nghề như mây, tre, lá đan truyền thống, nghề dệt thổ cẩm rất cần được quan tâm để tạo sự đa dạng cho sản phẩm nhằm phục vụ yêu cầu thẩm mỹ của du khách và phục vụ tốt hơn cho tiêu dùng tại các khu du lịch trong tỉnh. Bên cạnh đó, các hoạt động quảng 61 bá, tiếp thị cho các sản phẩm thủ công này và các hoạt động xây dựng tour đến các điểm làng nghề cần phải được thực hiện một cách chuyên nghiệp và có hệ thống hơn. d) Quy hoạch và xây dựng các quy chế hình thành các khu du lịch do cộng đồng quản lý. Thực tế khảo sát cho thấy một hiện trạng phát triển mô hình liên kết một cách nhỏ lẻ và hoàn toàn tự phát. Điều này có thể nói là hoàn toàn không giúp đạt được lợi ích tổng thể mà mô hình sẽ đạt được vì các lý do sau: • Không đủ điều kiện để quản lý môi trường và tài nguyên phục vụ mô hình một cách tốt nhất, đó là chưa nói đến việc chủ thể của các hoạt động theo mô hình này chỉ quan tâm tới lợi ích gắn liền với các hoạt động kinh doanh của họ mà chưa nghĩ nhiều đến việc bảo vệ môi trường ở những nơi cách xa nơi hoạt động của họ nhưng vẫn nằm trong sự ảnh hưởng chung về môi trường trong vùng. • Việc phát triển tự phát này sẽ tạo ra nguy cơ cho sự chuyển dịch nguồn lợi sang các nhà đầu tư tư nhân có nhiều tiềm năng tài chính, đi ngược với sự mong đợi của chúng ta. • Sự phát triển tự phát và mang tính cá nhân như vậy không tạo được lý do cho các hoạt động hỗ trợ phát triển từ các nguồn phát triển cộng đồng, các chương trình vì mục tiêu phát triển đời sống của người dân nông thôn, và các hoạt động hỗ trợ cũng trở nên khó khăn hơn so với một sự phát triển có tổ chức và có hệ thống. Hoạt động phát triển các tổ chức, các quỹ tín dụng tới những vùng này cũng khó được giải quyết tốt. • Sự tham gia của cộng đồng trong hoàn cảnh như vậy cũng có thể nói là không tồn tại. Các điểm tour du lịch tại những vùng này cũng không tạo ra được sự khác biệt gì lớn so với các loại hình du lịch khác và du khách cũng không có điều kiện để tìm hiểu tốt phong tục, tập quán của người bản địa. Thực tế khảo sát chỉ ra rằng, các hoạt động du lịch kết hợp với nông nghiệp chủ yếu là tham quan, nghỉ mát tại vườn và tổ chức nhà hàng nhỏ và vừa, còn các hoạt động khác thì hầu như không tồn tại. 62 Như vậy, việc quy hoạch và hình thành các quy chế cho sự phát triển của mô hình này là một việc làm rất cần thiết để mô hình có thể phát huy tối đa tác dụng tích cực của nó. e) Xây dựng quy chế phối hợp phát triển giữa tư nhân từ nơi khác với người dân bản địa, bởi vì sự phối hợp này sẽ làm cho khả năng phát triển trở nên mạnh hơn nhờ vốn và kinh nghiệm tổ chức hoạt động. Họ có thể tham gia bằng cách hỗ trợ đầu tư và cùng hưởng lợi. Xây dựng các quy chế này nhằm giúp người dân nơi có tiềm năng phát triển mô hình có được sự chủ động và quyền làm chủ, đồng thời có thể tiếp nhận được tiềm lực của các nhà đầu tư tư nhân từ những nơi khác và đảm bảo cho sự phát triển hài hòa, bền vững giữa nông nghiệp và du lịch. f) Xây dựng cơ chế hỗ trợ cho sự phát triển của mô hình một các rõ ràng, dựa trên quan điểm là sự phát triển của cộng đồng nông thôn là mục tiêu cuối cùng cần phải đạt được. Sự hỗ trợ bao gồm các khía cạnh vốn, đất đai (giấy tờ, quỹ đất) và kinh nghiệm cùng với phương pháp quản lý, kỹ năng bảo vệ môi trường, kỹ năng canh tác, trồng trọt tiến bộ, thân thiện với môi trường, kỹ năng bảo tồn các vốn văn hóa của dân tộc, kỹ năng tiếp xúc du khách và tiếp thị sản phẩm du lịch của khu vực. Đối với vấn đề tài chính, địa phương cần phải tạo nguồn vốn tín dụng ưu đãi (có thể tài trợ 50% chi phí lãi suất tín dụng) và có thể miễn thuế cho các hoạt động trong các khu vực phát triển mô hình này. Tận dụng các nguồn vốn tài trợ phát triển nông thôn và các nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo để thực thi mô hình mang tính cộng đồng này. g) Đầu tư cho các chương trình khuyến nông, khuyến ngư trong công tác phát triển và chuyển giao các phương pháp canh tác mới, và phát triển các sản phẩm sạch, các sản phẩm đặc sản của địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách. Có thể nói sản phẩm phục vụ cho du khách là những sản phẩm đòi hỏi phải có chất lượng tốt và an toàn cho sức khỏe, nên việc đẩy mạnh sự phát triển các vùng rau, quả sạch là một giải pháp để giải quyết vấn đề, nhưng đòi hỏi sự phối hợp giữa hai ngành nông nghiệp và du lịch phải đi vào thực tiễn thông qua việc phối hợp tiêu thụ sản phẩm sản xuất ra tại các khu du lịch, các khách sạn… thì giải pháp này mới đạt được hiệu quả. Quá trình khảo sát cũng 63 cho thấy một đòi hỏi phải có sự vào cuộc mạnh mẽ của công tác khuyến nông vì lý do là các hộ thực hiện mô hình vẫn không muốn và không giảm được lượng hóa chất trong trồng trọt, sản lượng thu hoạch vẫn là điều mà họ rất quan tâm. Thực tế là các hộ có khả năng tài chính tốt lại có khối lượng thuốc bảo vệ được sử dụng nhiều hơn. Do đó, đẩy mạnh đầu tư cho công tác khuyến nông phục vụ cho sự phát triển mô hình là cần thiết để đạt được điều tích cực mong đợi từ mô hình. h) Đầu tư cho giáo dục và nâng cao sức khỏe của cộng đồng dân cư nông thôn, tại những khu vực được xác định sẽ phát triển mô hình thì việc nâng cao nhận thức của người dân về vệ sinh thực phẩm, về môi trường và cách thức bảo vệ môi trường, và về lối sống văn minh, tích cực, … cùng với việc truyền đạt ngay từ đầu cho họ cách thức tiếp cận với du khách, các kỹ năng tiếp đón du khách, cách thức tiếp thị sản phẩm du lịch của khu vực, là những yêu cầu tối thiểu để các chương trình phát triển mô hình này đạt hiệu quả kinh tế và xã hội cao. Để làm được điều này đòi hỏi phải có nhiều nổ lực từ các ngành du lịch, giáo dục, nông nghiệp, và cần cả sự hỗ trợ của các tổ chức xã hội ở địa phương. i) Phát triển các tour nhằm mục đích phục vụ cho việc xây dựng mô hình. Các tour du lịch sẽ là cầu nối và là cách thức tiếp thị tốt cho các khu vực phát triển mô hình. Thực hiện điều này đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia tour phải sự liên kết hoàn chỉnh với các khu vực, các làng du lịch, tránh tình trạng thách giá (và kết quả là không bán được sản phẩm) và tránh tình trạng không hiểu được quy trình bảo vệ môi trường và tài nguyên du lịch được đặt ra tại các điểm du lịch được tổ chức theo mô hình này. j) Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng dẫn đến các khu vực này và tại nơi diễn ra mô hình về đường xá, điện và hệ thống thông tin. Cần phải phát triển năng lực cung cấp nước sạch cho các vùng này và có hệ thống trạm y tế với phương tiện đầy đủ. Đảm bảo khả năng thu dọn rác thải và đáp ứng hệ thống vệ sinh đạt chuẩn cho người dân trong vùng. 64 k) Thành lập ban chỉ đạo xây dựng mô hình và phối hợp với các tổ chức xã hội về nghề nghiệp, về xóa đói, giảm nghèo … để thực hiện mô hình này một cách có thực tế. l) Liên kết và học hỏi kinh nghiệm của nước ngoài trong việc xây dựng mô hình phát triển du lịch tại các vùng nông thôn. m) Hình thành các dự án phát triển thí điểm để đánh giá và rút kinh nghiệm trong công tác tổ chức phát triển Tuy việc hình thành và phát triển các làng du lịch được xem là cần thiết tại các vùng có khả năng liên kết phát triển du lịch-nông nghiệp, nhưng sự quan tâm về vấn đề giải quyết đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp bằng các phương pháp trước đây vẫn phải luôn có sự tích cực hơn. Bởi vì, theo như khảo sát thì việc tiêu thụ được xoài đối với các hộ được khảo sát vẫn là điều họ rất quan tâm, thu nhập từ thu hoạch xoài là nguồn chính trong thu nhập của các vườn xoài chuyên này trong năm. Hơn nữa, người trồng xoài không phải ai cũng có điều kiện vật chất và điều kiện tự nhiên để hình thành hoạt động du lịch. Mặc dù 100% số hộ có hoạt động du lịch đều cho rằng hoạt động mà họ đang làm giúp họ thấy thoải mái hơn trong chi tiêu và họ thấy thích thú với nó, nhưng số hộ có hoạt động này trong tổng số tại ba khu vực được khảo sát là tương đối ít và các hộ này đều nằm gần khu vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp, gần khu du lịch và gần như là gần đường giao thông thuận tiện (các hộ tại xã Cam Hải Tây hầu như nằm gần đường nhựa). Các hộ được khảo sát đều mong muốn được nhiều sự quan tâm của địa phương về giải quyết đầu ra cho cây xoài như: giá bán xoài, sớm có nhà máy ép xoài, … Nói chung, các hoạt động du lịch cho dù có phát triển đến đâu đi nữa thì cũng không thể nào tác động được trực tiếp tới tất cả các người dân làm vườn nói riêng và người dân làm nông nghiệp nói chung, nên giải pháp cho tổng thể ngành nông nghiệp trong mối liên kết với ngành du lịch là phải từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm (rau, quả, hoa sạch…), nâng cao tính đặc sắc và phát huy các đặc sản của các sản phẩm nông nghiệp để cung cấp cho các nhu cầu của tầng lớp du khách nói riêng và của người dân nói chung. Giữa hai ngành phải có sự phối hợp, ký kết trong việc xúc tiến giải pháp đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp, phải có sự nghiên cứu 65 trong việc phát triển sản phẩm, tìm và hình thành các sản phẩm riêng của vùng, từ đó có biện pháp phát triển việc làm và tăng thu nhập cho nông dân, ngư dân. Hoạt động trồng san hô của ngư dân hay hoạt động trồng rong sụn, vẹm xanh diễn ra gần đây thể hiện một phương hướng tốt trong phát triển liên kết giữa hai ngành (chỉ là tự phát của người dân). Kết luận và kiến nghị Phát triển nông nghiệp – nông thôn và nâng cao đời sống vật chất của người dân sinh sống ở khu vực nông thôn là một đòi hỏi bức bách trong giai đoạn hiện nay, và ai cũng có thể nhận thấy điều này. Song song với vấn đề này là nguy cơ phân cách trong nền kinh tế giữa khu vực thành thị với khu vực nông thôn. Khu vực thành thị đã và đang là nơi hưởng lợi nhiều từ quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, và để tụt hậu sau nó là khu vực nông thôn, một khu vực sẽ còn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. Đời sống của người dân nông thôn đang còn rất bấp bênh, việc làm theo đúng bản chất của nó và việc làm phi nông nghiệp còn rất thiếu. Người nghèo ở nông thôn còn rất nhiều và chiếm hơn 90% tổng số người nghèo. Trong khi đó, các làn sóng phát triển đang mạnh lên trong nhiều ngành hiện đại và diễn ra tích cực ở thành thị. Vậy thì giải pháp nào để người dân nông thôn có thể chủ động hưởng các lợi ích này? Có nhiều giải pháp và ở đây xin đề xuất giải pháp phối hợp phát triển giữa ngành nông nghiệp và ngành du lịch, mà cụ thể là mô hình phát triển nông nghiệp gắn với các hoạt động phục vụ du lịch. Khánh Hòa được lựa chọn làm nơi phân tích mô hình này. Hiệu quả kinh tế của mô hình là rõ ràng qua phân tích ở tỉnh Khánh Hòa, nhưng thực trạng phát triển mô hình ở đây còn nằm ở trạng thái rất tự phát và manh mún, làm cho các tính chất tích cực của nó chưa được phát huy hết tác dụng, đôi khi tạo ra nguy cơ 66 xấu (làng hải sản lồng tại thành phố Nha Trang là một ví dụ). Việc cần làm là phải: Hình thành một chiến lược phát triển mô hình với quy hoạch dài hạn và hình thành các tổ chức cộng đồng phát triển nhằm đưa mô hình vào sự phát triển một cách có tổ chức, có hệ thống, với quy chế rõ ràng. Một số mô hình thành công ở nước ngoài như Thái Lan, Malaysia, hay ngay tại Việt Nam là ở Huế (thôn Dõi, huyện Nam Đông), ở Lâm Đồng, cần phải được xem xét để học tập. Địa phương cần phải nhìn nhận rằng mình đang rất tập trung phát triển du lịch tại các điểm ven biển và lại rất lãng quên các vùng nằm sâu trong nội địa, và tư nhân, những người đến từ nơi khác được lợi rất nhiều từ việc phát triển du lịch tại những nơi có cảnh đẹp trong tình trạng người dân đã sống lâu năm tại đó lại chẳng được hưởng lợi bao nhiêu (thác Yang Bay), các công trình đường xá được xem là phục vụ cho phát triển du lịch tại những nơi này cũng không tạo thêm nhiều cơ hội phát triển việc làm và đời sống cho người dân bản địa, nhất là người dân tộc ít người. Đây là điều mà địa phương cần phải nhìn nhận và có kế hoạch hành động rõ ràng vì mục tiêu chống lãng phí tiềm năng và tăng hiệu quả khai thác các lợi thế, các nguồn tài nguyên du lịch, và thúc đẩy sự đi lên của đời sống người dân bản địa. 67 PHỤ LỤC Phụ lục 1: Tầm quan trọng của ngành công nghiệp chế biến nông sản Theo World Bank, trong nhóm 17 nước có thu nhập (GNP<390 USD/ người) tỷ lệ đóng góp của nông sản về mặt giá trị trong tổng giá trị sản phẩm của ngành công nghiệp là 46% về trung bình và cao nhất là 92%. Các nước có thu nhập trung bình (390 USD<GNP<3.500 USD) tỷ lệ này là 41% - 91% và 14% - 31% đối với các nước có thu nhập cao (Ghatak và Ingersent, 1984). Nguồn: TS. Đinh Phi Hổ (2003), Kinh tế Nông nghiệp – Lý thuyết và thực tiễn, trang 9 Phụ lục 2: Nông nghiệp phát triển đóng góp cho quá trình giảm nghèo tại các nước đang phát triển. Do nghèo khó là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn và do có nhiều người nghèo phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào thu nhập từ nông nghiệp, nên việc tăng năng suất lao động nông nghiệp và tăng thu nhập cho lao động nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình giảm nghèo. Thực tế tại nhiều nước đã minh chứng cho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43448[1].pdf
Tài liệu liên quan