Đề tài Thực trạng kiểm soát nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

Những thành tựu về kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là rất ấn tượng, GDP tăng ở mức cao qua nhiều năm liên tục, môi trường chính trị xã hội ổn định, tạo được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, để gia tốc phát triển kinh tế nhằm tránh nguy cơ tụt hậu đòi hỏi phải thu hút vốn đầu tư cho phát triển với quy mô và tốc độ nhanh hơn nữa.

Trong bức tranh tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây có đóng góp không nhỏ của khu vực đầu tư nước ngoài. Đối với một thị trường mới nổi như Việt Nam, khi mà dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) vẫn còn là những con số khiêm tốn thì sự đóng góp to lớn này được mang đến từ khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI.

Tuy nhiên, cùng với lợi ích to lớn mà các dòng vốn đem lại thì kèm theo đó là không ít các mặt trái đem lại ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đến nền kinh tế mà cả những vẫn đề xã hội. Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đang nỗ lực thu hút FDI nhưng mục tiêu vẫn phải đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững, thì vấn đề kiểm soát FDI lại càng trở nên cần thiết. Việc nhận định đúng bản chất của FDI cùng với sự cần thiết của việc hiểu biết về thực trạng kiểm soát FDI là lý do thực hiện đề tài nghiên cứu: “Thực trạng kiểm soát nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.”

Đề tài được bố cục theo 04 phần với nội dung cụ thể như sau :

Phần I : Lý luận chung về nguồn vốn FDI và kiểm soát FDI

Phần II : Thực trạng kiểm soát nguồn vốn FDI tại Việt Nam

Phần III : Đánh giá kinh tế Việt Nam với quá trình kiểm soát vốn FDI

Phần IV : Kết luận

 

doc32 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng kiểm soát nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Những thành tựu về kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua là rất ấn tượng, GDP tăng ở mức cao qua nhiều năm liên tục, môi trường chính trị xã hội ổn định, tạo được sự quan tâm chú ý của nhiều nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, để gia tốc phát triển kinh tế nhằm tránh nguy cơ tụt hậu đòi hỏi phải thu hút vốn đầu tư cho phát triển với quy mô và tốc độ nhanh hơn nữa. Trong bức tranh tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây có đóng góp không nhỏ của khu vực đầu tư nước ngoài. Đối với một thị trường mới nổi như Việt Nam, khi mà dòng vốn đầu tư gián tiếp (FPI) vẫn còn là những con số khiêm tốn thì sự đóng góp to lớn này được mang đến từ khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI. Tuy nhiên, cùng với lợi ích to lớn mà các dòng vốn đem lại thì kèm theo đó là không ít các mặt trái đem lại ảnh hưởng tiêu cực không chỉ đến nền kinh tế mà cả những vẫn đề xã hội. Trong quá trình hội nhập và phát triển kinh tế, Việt Nam cũng đang nỗ lực thu hút FDI nhưng mục tiêu vẫn phải đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững, thì vấn đề kiểm soát FDI lại càng trở nên cần thiết. Việc nhận định đúng bản chất của FDI cùng với sự cần thiết của việc hiểu biết về thực trạng kiểm soát FDI là lý do thực hiện đề tài nghiên cứu: “Thực trạng kiểm soát nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.” Đề tài được bố cục theo 04 phần với nội dung cụ thể như sau : Phần I : Lý luận chung về nguồn vốn FDI và kiểm soát FDI Phần II : Thực trạng kiểm soát nguồn vốn FDI tại Việt Nam Phần III : Đánh giá kinh tế Việt Nam với quá trình kiểm soát vốn FDI Phần IV : Kết luận Phần I : Lý luận chung về nguồn vốn FDI và kiểm soát FDI Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài – FDI Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong giới kinh tế học hiện nay, có rất nhiều khái niệm về FDI : Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa như sau về FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay đựoc gọi là "công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "công ty con" hay "chi nhánh công ty - Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI được định nghĩa là “một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác. Mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế khác đó. - Theo luật đầu tư Việt Nam năm 1987 đưa ra khái niệm: Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền nước ngoái hoặc bất kì tài sản nào được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật này” Từ những khái niệm trên có thể hiểu một cách khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau : (FDI = Foreign Direct Investment) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cá nhân hay công ty nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này. Đặc điểm của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - Tỷ lệ vốn của các nhà đầu tư nước ngoài trong vốn pháp định cuả dự án đạt mức tối thiểu tùy theo luật đầu tư của từng nước quy định. - Các nhà đầu tư nước ngoài trực tiếp quản lý dự án mà họ bỏ vốn đầu tư. Quyền quản lý doanh nghiệp phụ thuộc vào tỉ lệ góp vốn của chủ đầu tư trong vốn pháp định của dự án. - Kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh của dự án được phân chia cho các bên theo tỉ lệ góp vốn và vồn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần nếu có. - FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiếp với nhau. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài Hợp đồng hợp tác kinh doanh Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hay nhiều bên (gọi là hợp danh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả cho mỗi bên để tiến hành đầu tư vào Việt Nam mà không thành lập một pháp nhân. Doanh nghiệp liên doanh Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên nước ngoài hợp tác với nước nước chủ nhà, cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước nhận đầu tư. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc cá nhân người nước ngoài) do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam. Tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo hình thức của công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân Các hình thức khác Bên cạnh các hình thức đầu tư chủ yếu trên thì FDI còn được đầu tư thông qua các hình thức khác như đầu tư theo hợp đồng BOT, Đầu tư thông qua mô hình công ty mẹ và Công ty con (Holding company), hình thức công ty cổ phần, hình thức chi nhánh công ty nước ngoài, hình thức công ty hợp danh, hình thức đầu tư mua lại và sáp nhập (M&A) Tác động của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Đối với nước nhập khẩu vốn Tác động tích cực FDI là nguồn hỗ trợ cho phát triển, giải quyết tạm thời tình trạng thiếu vốn FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển. FDI khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh hoạt hơn. FDI là cầu nối cho quá trình chuyển giao công nghệ từ nước xuất khẩu vốn đến nước nhập khẩu Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ sảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu tư không chỉ vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy móc thiết bị, nhuyên vật liệu....(hay còn gọi là cộng cứng) trí thức khoa hoạch bí quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.) Do vậy đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có thể thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, dịch chuyển cơ cấu kinh tế, ta nhanh của các nước nhận đầu tư. FDI đem lại kinh nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác trong nước nhận đầu tư, thông qua những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI còn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước nhận đầu tư. FDI còn thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà quản lý có trình độ chuyên môn để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài. Đẩy nhanh tiến trình hội nhập vốn của nước tiếp nhận vốn với nền kinh tế thế giới và FDI là nhân tố tác động mạnh đến quá trình hoàn thiện thể chế, chính sách và môi trường đầu tư. Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế của các đơn vị đầu tư và tiền thu tư việc cho thuê đất .... FDI đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho nước tiếp nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước ngoài và việc phá triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát triển. Về mặt xã hội, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, thu hút một khối lượng đáng kể người lao động ở nước nhận đầu tư vào làm việc tại các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được. Thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề trên đây. Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong nước nhận đầu tư thụ thuộc rất nhiều vào chính sách và khả năng kỹ thuật của nước đó. Tác động tiêu cực: Tạo ra 1 cơ cấu kinh tế bất hợp lý Do đầu tư chỉ với mục đích tìm kiếm lợi nhuận nên nhà đầu tư chỉ bỏ vốn vào những ngành có tỷ suất sinh lời cao, dẫn đến hiện tượng FDI không được phân bổ đều, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của toàn xã hội. Chuyển giao công nghệ lạc hậu: Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài ở phần trên,chúng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu tư sẽ nhận nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây thiệt hại cho các nước nhận đầu tư như là: Khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do đó nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các doanh nghiệp liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận. Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng chế phải bảo vệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước công nghiệp phát triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn xuất khẩu môi trường sang các nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo vệ môi trường không hữu hiệu. Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất cao và do đó sản phẩm của các nước nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới. Chi phí tiếp nhận vốn đầu tư trở nên rất đắt đỏ do để thu hút vốn các nước nhận đầu tư đó phải áp dụng nhiều chính sách ưu đãi như miễn thuế, giảm thuế… Xét về khía cạnh cạnh tranh: các doanh nghiệp trong nước thường có tính cạnh tranh kém hơn so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm và trình độ quản lý. Do vậy trong cuộc chiến giành thị phần các doanh nghiệp trong nước thường là người thua cuộc dẫn đến hoạt động kém hiệu quả hoặc phá sản làm cho lao động thất nghiệp gia tăng. Về mặt xã hội : Khu vực có được FDI phần lớn là các khu công nghiệp đòi hỏi diện tích rộng lớn dẫn đến một thành phần dân cư đó mất đất (dùng để xây dựng khu công nghiệp…). Ngoài ra đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm tăng tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự di dân ồ ạt từ nông thôn ra thành thị gây ra sự xáo trộn xã hội pha trộn về văn hóa… Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của nó mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng vào FDI và cần phải có những chính sách, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của FDI gây ra cho nước chủ nhà nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư. Đối với nước xuất khẩu vốn Tác động tích cực Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư do tận dụng được các nguồn lực sản xuất, khai thác được các ưu thế về điều kiện tự nhiên, nhân công của nước nhận đầu tư làm giảm chi phí kinh doanh, tăng lợi nhuận. Đầu tư nước ngoài giúp cho các doanh nghiệp hưởng ưu đãi từ nước nhận đầu tư nên tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch, đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, do đó có khả năng bành trướng sức mạnh về kinh tế, nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Thông qua việc chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư mà những nước đi đầu tư có thể chuyển giao được các công nghệ đã lỗi thời với nước họ, vừa tạo đầu ra cho công nghệ lại vừa thu được lợi nhuận. Kích cầu cho nước xuất khẩu vốn: từ việc tạo được đầu ra cho công nghê, các nước này sẽ tiếp tục nghiên cứu tìm ra các công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều sản phẩm mới Tác động tiêu cực Chủ đầu tư có thể gặp rủi ro cao nếu không tìm hiểu kĩ về môi trường đầu tư của nước sở tại. Có thể xảy ra chảy máu chất xám nếu trong quá trình chuyển giao chủ đầu tư để mất bản quyền sở hữu công nghệ và bí quyết sản xuất. Mất việc làm cho lao động ở nước nhà. . Kiểm soát vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Khái niệm kiểm soát nguồn vốn FDI Kiểm soát vốn là thực hiện các biện pháp can thiệp của chính phủ dưới nhiều hình thức khác nhau để tác động (hạn chế) lên dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào trong nước để nhằm đạt “mục tiêu nhất định” của Chính phủ. Vai trò của việc kiểm soát FDI Kiểm soát FDI cho phép tiếp cận nguồn FDI trong phạm vi có thể kiểm soát được, giúp chính phủ hoàn thành chính sách kinh tế vĩ mô và tăng kinh nghiệm quản lý. Kiểm soát dòng FDI là biện pháp hữu hiệu, vừa cho phép dòng FDI vào tạo cơ hội hoàn thiện thị trường trong nước, vừa ngăn ngừa các tác động tiêu cực của nó. Kiểm soát FDI tạo ra được một cơ chế bảo hiểm ngoại hối ngầm để bảo vệ sự ổn định tài chính – tiền tệ của một quốc gia trong bối cảnh kinh tế biến động đầy phức tạp và rủi ro. Đối với nền kinh tế của các nước đang phát triển, khi mà chưa có nhiều kinh nghiệm đối với nguồn vốn nước ngoài thì việc thả lỏng nguồn vốn sẽ mang lại những hậu quả khôn lường. Đối với Việt Nam, ngay từ ban đầu khi thực hiện các chính sách thu hút FDI thì đi kèm theo đó cũng chính là các biện pháp kiểm soát để tránh được các tác động xấu mà FDI mang lại. Nội dung vấn đề kiểm soát, thành tựu đạt được hay những hạn chế còn tồn tại, tất cả được thể hiện trong bức tranh thực trạng kiểm soát FDI tại Việt Nam. PHẦN II : THỰC TRẠNG VIỆC KIỂM SOÁT NGUỒN VỐN FDI TẠI VIỆT NAM Quan điểm về kiểm soát FDI của Việt Nam Kiểm soát vốn đầu tư đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi. Một số quan điểm cho rằng kiểm soát vốn là đi ngược với tiến trình việc tự do hóa tài chính, một số lại ủng hộ quan điểm cho rằng nên thực hiện kiểm soát vốn để hạn chế những tổn thất cho nền kinh tế. Tuy nhiên, trước diễn biến kinh tế ngày càng phức tạp, các dòng vốn có xu hướng ồ ạt chảy vào các thị trường mới nổi, và mong muốn theo đuổi chính sách kinh tế độc lập của chính phủ đã đề ra yêu cầu phải kiểm soát nguồn vốn trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo vệ nền kinh tế của một quốc gia.Trong dòng chảy của vốn nước ngoài vào Việt Nam hiện nay, thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI mang một tỷ trọng rất lớn, cùng với tỷ trọng lớn đó là vai trò có tính quyết định tới sự phát triển kinh tế. Vì vậy, các biện pháp thực hiện kiểm soát vốn FDI đóng vai trò hết sức quan trọng. Chính sách kiểm soát FDI được thể hiện rõ nét thông qua Nghị định 160/2006/NĐ-CP ngày 28/12/2006 (Nghị định về quản lý ngoại hối). Để thực hiện đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải mở một tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ tại một tổ chức tín dụng được phép, đồng thời phải đóng tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ đã mở ở tổ chức tín dụng trước đó và chuyển toàn bộ số dư trên tài khoản này sang tài khoản mới. Doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được chuyển ra nước ngoài vốn điều lệ, vốn đầu tư trực tiếp, vốn vay, lãi và chi phí vay nước ngoài các nguồn thu hợp pháp có liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ, được sử dụng nguồn thu từ hoạt động đầu tư trực tiếp bằng đồng Việt Nam mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được phép để chuyển ra nước ngoài trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày mua được ngoại tệ thông qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ. Quá trình kiểm soát FDI tại Việt Nam Thu hút FDI của Việt Nam đứng thứ 6 trên thế giới; riêng ở châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Trung Quốc, Ấn Độ. Dòng chảy của nguồn vốn này vào Việt Nam không ổn định, năm nhiều năm ít, lúc trồi lúc sụt do nhiều yếu tố, trong đó lệ thuộc vào sự quyết tâm đổi mới và hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam là quyết định. Suốt thời gian dài từ đó đến nay đã có khoảng 11.000 dự án được cấp giấy phép, tổng mức vốn đăng ký trên 163 tỷ USD nhưng tổng vốn thực hiện đạt chỉ khoảng 35%, chưa kể số dự án bị rút giấy phép hoặc đề nghị rút giấy phép. Quá trình kiểm soát FDI những năm gần đây có thể thông qua các giai đoạn chính sau: Giai đoạn 2000 – 2002 Trước tình hình FDI vào Việt Nam liên tục suy giảm (49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á) , nhà nước tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và triển khai FDI. Chính phủ đã ban hành một loạt các văn bản để thu hút đầu tư như: Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 quy định chi tiết thi hành luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996; Nghị định 10/CP/1998 ngày 23/11/1998 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động FDI tại Việt Nam kèm theo danh mục các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư; Nghị định 62/1998/NĐ-CP ngày 15/8/1998 về đầu tư theo hợp đồng BOT –BTO –BT áp dụng đới với hoạt động FDI… Kết quả là giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức 25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996. Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỷ đô-la Mỹ, đạt khoảng 54,5% của mức năm 2001. Có nhiều nguyên nhân làm FDI giảm xuống. Trong đó chủ yếu là do sự xuống dốc của nền kinh tế toàn cầu theo sau sự tan vỡ của bong bóng công nghệ cao tại Mỹ cùng với khủng hoảng kéo dài tại Nhật bản đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các nước châu Á. Giai đoạn 2003 – 2007 Sau khi ký hiệp định thương mại Việt Mỹ BTA cuối năm 2001 và gia nhập AFTA năm 2003, nguồn vốn FDI vào Việt Nam phục hồi và tăng trở lại, dù chậm nhưng đều; vốn thực hiện cũng được tăng theo. Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký kết Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt - Nhật. Các hiệp định này là những cam kết theo đúng thông lệ quốc tế trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Mỗi hiệp định đề cao đến một khía cạnh. Chẳng hạn, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt - Nhật chú ý nhiều đến việc bảo hộ tài sản của các nhà đầu tư Nhật Bản tại Việt Nam. Ngay trong khái niệm về đầu tư của Hiệp định, yếu tố bảo hộ tài sản cho nhà đầu tư Nhật Bản được thể hiện rất rõ. Đây là một hiệp định có lợi rất nhiều cho các nhà đầu tư Nhật Bản khi các nhà đầu tư Nhật Bản đầu tư ngày càng lớn lượng tài sản vào Việt Nam. Ngày 12/12/2005 Chính phủ ban hành đồng thời Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp. Hai luật này ra đời đã tạo ra nhiều cơ chế thoáng hơn cho nhà đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư Việt Nam đã khẳng định Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền của nhà đầu tư nước ngoài và có cơ chế khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vốn, tài sản và các khoản thu nhập hợp pháp khác vào Việt Nam cơ sở tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật, bình đẳng và đôi bên cùng có lợi. Nhà đầu tư có quyền lựa chọn lớn về hình thức, địa bàn lĩnh vực quy mô và thời hạn đầu tư (có thể lên tới 70 năm). Theo Luật Đầu tư năm 2005, hình thức đầu tư được trên mở rộng thêm và đa dạng hơn, một trong những hình thức đó là hình thức sáp nhập và mua lại (M&A). Ngòai ra, vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ cho nhà đầu tư nước ngoài đã được đưa vào Luật Đầu tư năm 2005; đó là yếu tố tăng cường an ninh trên lĩnh vực sở hữu trí tuệ. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợí ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư được thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng (Điều 6 Luật Đầu tư 2005)... Kết quả là năm 2006 nguồn vốn FDI tăng lên rất cao. Và đặc biệt, sau một loạt sự kiện: Cuối năm 2006, Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC 14; Mỹ trao PNTR; và ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Từ đó, các nhà đầu tư nước ngoài đã hướng đến Việt Nam nhiều hơn, thể hiện cụ thể qua con số FDI tăng đột biến năm 2007 là 20,3 tỳ USD.. Giai đoạn 2008 – nay Đến năm 2008, tổng vốn FDI vào Việt Nam đã đạt 64 tỷ USD, vượt xa con số 20,3 tỉ USD của cả năm 2007. Nguồn vốn FDI năm nay còn có sự chuyển biến tích cực về chất. Cụ thể, quy mô vốn đầu tư trung bình cho một dự án đã tăng mạnh và đạt mức cao nhất từ trước tới nay với khoảng 68 triệu USD/dự án. Đặc biệt, dòng vốn này đã chảy vào những lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như công nghiệp lọc dầu, luyện kim, bất động sản, cảng biển, khu công nghệ cao... Nếu như năm 2008 qua đi với nhiều dấu mốc ấn tượng, thì đến 2009 là sự giảm của FDI, tổng số vốn FDI của Việt Nam năm 2009 là 21,48 tỷ USD vốn đăng ký – giảm 1/3 so với năm 2008, sự giảm sút này là do ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ, song bên cạnh đó, nguyên nhân lớn khác, là do chính sách kiểm soát nguồn vốn FDI đã hướng được cho con tàu FDI đi đúng hướng, các quan điểm của chính phủ đã kiên quyết hơn trong việc lựa chọn dự án,sàng lọc dự án để có thể thu được nguồn FDI “sạch”. Việc thu hút đầu tư cũng đã bắt đầu coi trọng quy hoạch phát triển ngành, vùng kinh tế theo nguyên tắc thị trường. Đặc biệt là có thái độ kiên quyết không cấp phép hoặc thu hồi giấy phép những dự án không có khả năng thực hiện, gây tác động xấu đến môi trường, kinh tế - xã hội…Chính phủ cũng đã thể hiện rất rõ quan điểm mình. Chẳng hạn như vừa mới đây, Bộ trưởng Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã ký Thông báo số 129 thông báo ý kiến của Thủ tướng về một số tình hình đầu tư của nước ngoài tại Việt Nam. Theo đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung rà soát, điều chỉnh các quy định hiện hành về đầu tư nước ngoài để tránh việc cấp phép thực hiện các dự án đầu tư sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu, có tác động xấu đến môi trường. Điều đó cho thấy một cách nhìn mới đối với FDI – một cách nhìn toàn diện, biện chứng hơn, một bước tiến bộ trong vấn đề kiểm soát FDI. Năm 2010, là năm FDI được dự báo với nhiều động thái mới , với sự  cải thiện khá rõ về quy mô vốn đăng ký/dự án, cơ cấu vốn đăng ký và mức giải ngân thực tế... Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, giải ngân vốn FDI  đạt khoảng 900 triệu USD trong tháng 4, nâng tổng số vốn FDI giải ngân trong 4 tháng đầu năm 2010 lên 3,4 tỷ USD, tăng tới 36% so với cùng kỳ năm 2009. Trung bình, giải ngân vốn FDI đạt khoảng 850 triệu USD/tháng. Đây là mức khá cao và tương đương giải ngân vốn FDI giai đoạn trước  suy thoái kinh tế. Về triển vọng, có nhiều cơ sở thực tế thế giới và trong nước để tin rằng thu hút FDI năm 2010 sẽ cao hơn mức tăng 10% so với năm 2009 mà Bộ Kế hoạch và Đầu Tư đặt ra. Các biện pháp kiểm soát FDI của Việt Nam thực hiện bao gồm trong đó là các kinh nghiệm được tích lũy qua từng năm. Nhờ đó mà FDI đi vào Việt Nam được kiểm soát, quản lý và mang lại lợi ích kinh tế, đóng góp cho sư tăng trưởng và phát triển xã hội. Tuy nhiên, do kinh nghiệm còn chưa nhiều, vẫn có những hạn chế từ những biện pháp kiểm soát. Thành tựu và hạn chế đạt được từ việc kiểm soát FDI cũng như khả năng hấp thụ của nền kinh tế được phản ánh qua sự đánh giá kinh tế Việt Nam với quá trình kiểm soát vốn FDI PHẦN III: Đánh giá kinh tế Việt Nam với quá trình kiểm soát nguồn vốn FDI những năm gần đây Khả năng hấp thụ FDI của nền kinh tế Thực tế cho thấy vốn FDI tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất, kinh doanh bất động sản và các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, du lịch … đây là những ngành yêu cầu cao về trình độ, trong khi đó nguồn cung lao động có thể đáp ứng được còn rất hạn chế. Thực trạng này khiến nhiều dự án qui mô lớn bị chậm tiến độ thực hiện. Vì vậy, nếu không có chính sách kinh tế hợp lý trong việc khuyến khích dịch chuyển lao động có tay nghề thì vị thế của Việt Nam dưới con mắt nhà đầu tư nước ngoài rất dễ bị ảnh hưởng. Bên cạnh đó khối doanh nghiệp FDI cũng chính là khối có kim ngạch nhập khẩu rất lớn và là một trong những nhóm doanh nghiệp đóng góp “tích cực” vào con số nhập siêu tăng rất cao trong năm nay. Giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI năm 2008 đạt 24,465 tỷ USD, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, nhưng khối doanh nghiệp này cũng nhập khẩu tới 28,458 tỷ USD. Tổng nhập siêu xấp xỉ 4 tỷ USD của khối này đã chiếm gần 1/4 thâm hụt thương mại của Việt Nam năm 2008. Về vấn đề chuyển giao công nghệ, trong 20 năm thu hút đầu tư nước ngoài, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số hợp đồng chuyển giao công nghệ nước ngoài tại Việt Nam chỉ mới được ký kết khoảng 10 hợp đồng trong số khoảng 9.000 dự án đầu tư vào Việt Nam. Nhiều bí quyết công nghệ bên Việt Nam vẫn chưa làm chủ được. Điều này có nghĩa là Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, năng lực nội sinh của công nghệ chưa được kiến tạo và phát huy.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112307.doc
Tài liệu liên quan