Đề tài Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Hạ Long

Việt Nam hiện nay đang thực hiện công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước đã đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986). Trong công cuộc đổi mới này, Việt Nam chuyển từ một nền kinh tế bao cấp sang xây dựng phát triển một nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội c hủ nghĩa trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, từ năm 1990 trở đi một loạt các thành phần kinh tế khác xuất hiện, thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế cá thể, thành phần kinh tế tư bản tư nhân xuất hiện đồng thời với sự ra đời các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, và mới đây là công ty cổ phần. Nhà nước không còn bao tiêu sản phẩm và cung cấp đầu vào đầu ra mà chỉ còn giữ vai trò quản lý vĩ mô của thị trường (điều tiết, xác định giá sàn giá trần, đánh thuế) đã tạo ra một môi trường cạnh tranh thực sự mà ở đó buộc các doanh nghiệp đã không còn thụ động như trước mà phải năng động tự tìm kiếm thị trường cho mình nếu muốn tiếp tục duy trì và phát triển. Tầm quan trọng của thị trường cho mỗi doanh nghiệp đã nhanh chóng được thừa nhận, các doanh nghiệp đã dần dần từng bước làm quen với những khái niệm của thị trường như giá, quy luật cung cầu. Tiêu thụ sản phẩm cho ai, lúc nào và ở đâu đã trở thành câu hỏi đặt ra đối với mọi nhà quản trị doanh nghiệp, sự cạnh tranh đã được coi là tất yếu đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng được sự coi trọng đặc biệt, các học thuết, các khái niệm về thị trường của các nước tư bản cũng được du nhập, và được các doanh nghiệp sử dụng như những công cụ, quan trọng.

Đối với công ty ứng dụng công nghệ và kỹ thuật Hạ Long – một doanh nghiệp vừa và nhỏ, được thành lập sau thời kỳ đổi mới, thị trường luôn được coi là yếu tố mang tính chất sống còn đựac biệt trong giai đoạn hiện nay vơí những điều kiện thuận lợi như: nền kinh tế phát triển, thị trường công nghệ thông tin được nhà nước đặc biệt quan tâm cũng như sự gia tăng của nền kinh tế điện tử thế giới, chủ trương của công ty hiện nay là mở rộng quy mô vì vậy có thể nói việc nghiên cứu thị trường là hết sức cần thiết.

 

doc31 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1050 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Hạ Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời giới thiệu Việt Nam hiện nay đang thực hiện công cuộc đổi mới mà Đảng và Nhà nước đã đề ra từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986). Trong công cuộc đổi mới này, Việt Nam chuyển từ một nền kinh tế bao cấp sang xây dựng phát triển một nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội c hủ nghĩa trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, từ năm 1990 trở đi một loạt các thành phần kinh tế khác xuất hiện, thành phần kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế cá thể, thành phần kinh tế tư bản tư nhân xuất hiện đồng thời với sự ra đời các loại hình doanh nghiệp: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, và mới đây là công ty cổ phần. Nhà nước không còn bao tiêu sản phẩm và cung cấp đầu vào đầu ra mà chỉ còn giữ vai trò quản lý vĩ mô của thị trường (điều tiết, xác định giá sàn giá trần, đánh thuế) đã tạo ra một môi trường cạnh tranh thực sự mà ở đó buộc các doanh nghiệp đã không còn thụ động như trước mà phải năng động tự tìm kiếm thị trường cho mình nếu muốn tiếp tục duy trì và phát triển. Tầm quan trọng của thị trường cho mỗi doanh nghiệp đã nhanh chóng được thừa nhận, các doanh nghiệp đã dần dần từng bước làm quen với những khái niệm của thị trường như giá, quy luật cung cầu... Tiêu thụ sản phẩm cho ai, lúc nào và ở đâu đã trở thành câu hỏi đặt ra đối với mọi nhà quản trị doanh nghiệp, sự cạnh tranh đã được coi là tất yếu đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khách hàng được sự coi trọng đặc biệt, các học thuết, các khái niệm về thị trường của các nước tư bản cũng được du nhập, và được các doanh nghiệp sử dụng như những công cụ, quan trọng. Đối với công ty ứng dụng công nghệ và kỹ thuật Hạ Long – một doanh nghiệp vừa và nhỏ, được thành lập sau thời kỳ đổi mới, thị trường luôn được coi là yếu tố mang tính chất sống còn đựac biệt trong giai đoạn hiện nay vơí những điều kiện thuận lợi như: nền kinh tế phát triển, thị trường công nghệ thông tin được nhà nước đặc biệt quan tâm cũng như sự gia tăng của nền kinh tế điện tử thế giới, chủ trương của công ty hiện nay là mở rộng quy mô vì vậy có thể nói việc nghiên cứu thị trường là hết sức cần thiết. Chương I Khái quát quá trình hình thành và phát triển của công ty Hạ long Giới thiệu công ty và lịch sử hình thành công ty Công ty TNHH ứng dụng công nghệ và kỹ thuật Hạ Long thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, được thành lập theo Quyết định số 390CP/TLDN ngày 10-6-1997 của Sở Kế hoạch đầu tư Hà Nội. Công ty có trụ sở chính tại P7N1 tổ 11 Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội. Giám đốc : Bùi Hữu Cư Với số vốn điều lệ ban đầu là: 450.000.000 VNĐ hoàn toàn là vốn lưu động không bao gồm tài sản cố định. Tài khoản ngân hàng số 4311010127 NN&PTNT Quá trình phát triển và kết quả sản xuất kinh doanh. Từ những năm 1990-1991, công ty ứng dụng công nghệ kỹ thuật Hạ Long là một bộ phận cửa hàng điện tử nhỏ có sự liên quan rất nhiều đến Tổng Công ty Hạ Long trực thuộc Bộ Quốc phòng. Tổng Công ty Hạ Long lúc bấy giờ hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực như: May mặc Vật liệu xây dựng Khai thác than Khách sạn Vận tải Lắp đặt điện... Điện tử, viễn thông cũng là một trong những mặt hàng mà Tổng công ty có tham gia, công ty ứng dụng công nghệ kỹ thuật Hạ Long về hiện tại là một công ty riêng biệt, nhưng về nòng cốt thực chất có thể nói xuất thân từ Tổng công ty Hạ Long. Lúc mới thành lập, cửa hàng điện tử Hạ Long tuy không do sự đầu tư về vốn của Tổng công ty Hạ Long nhưng nhân lực lại từ hầu hết Tổng công ty này, sau do nhiều mục đích khác nhau đã thành lập nên công ty TNHH ứng dụng công nghệ kỹ thuật Hạ Long theo quyết định như trên. Như đã biết, ban đầu số vốn của công ty chỉ có 450.000.000VNĐ đồng hoàn toàn là vốn lưu động chưa bao gồm tài sản cố định, lúc này sản phẩm, mặt hàng kinh doanh của công ty đã loại bỏ các mặt hàng điện tử, như tivi, casette... mà tập trung chủ yếu vào lĩnh vực tin học dưới hình thức nhập linh kiện lắp ráp và bán lẻ máy tính. Cùng với thời gian công ty ngày càng mở rộng ra trong các lĩnh vực về máy văn phòng (máy in, máy fax, máy photocopy...). Cũng trong năm 1997 do đặc điểm kinh doanh công ty mở văn phòng giao dịch và mua bán sản phẩm tại 57c Giảng Võ - Đống Đa - Hà Nội. Đây là địa chỉ văn phòng giao dịch chính thức được đăng ký với cơ quan chủ quản chi cục thuế quận Thanh Xuân. Qua gần 5 năm hoạt động, công ty ứng dụng công nghệ kỹ thuật Hạ Long từ chỗ chỉ có bán lẻ và chỉ có những hợp đồng gia công tới nay công ty Hạ Long đã tăng cường mở rộng ký kết được những hợp đồng lớn với các cơ quan nhà nước, mở rộng được nhiều mặt hàng kinh doanh, liên kết và nhập các linh kiện tới máy tính nguyên chiếc mang nhãn hiệu lớn nhắm tới thị trường bán sỉ, liên công ty trong ngành. Số vốn của công ty cũng tăng lên con số 1 tỷ VNĐ, chưa bao gồm tài sản cố định và mở thêm Tài khoản đồng Việt Nam số: 0011000303785 - NH Ngoại Thương Việt Nam. Tài khoản ngoại tệ số: 0011370303785 – NH Ngoại thương VN Và đặc biệt là trong năm vừa qua đưa thêm chính thức vào danh mục kinh doanh một loại sản phẩm mới mang tính chất cao cấp đó là cửa tự động (Autodoor) mang nhãn hiệu DORTEX Cơ cấu vốn của công ty: Tài sản cố định thuộc công ty bao gồm phần chính: cửa hàng (Showroom), văn phòng giao dịch, kho chứa hàng tại Kim Giang, máy móc phục vụ cho việc sản xuất, bảo hành, bảo trì sản phẩm, thiết bị văn phòng sử dụng trong công ty ước lượng khoảng 1 tỷ VNĐ. Tài sản lưu động chủ yếu dưới hai dạng hàng tồn kho và tiền gửi ngân hàng khoảng 1 tỷ VNĐ. Huy động vốn với hai hình thức: vốn của công ty và vốn vay ngân hàng theo tỷ lệ 80% và 20%. Doanh thu của công ty trong năm ngoái là 8 tỷ: Chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty Hạ Long Chức năng và nhiệm vụ. Kể từ khi ra đời công ty Hạ Long luôn coi mình là một công ty mang tính chất thương mại là chủ yếu, không mang tính chất sản xuất. Đây cũng chính là mô hình của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt Nam nói chung. Hầu hết mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty đều là nhập hàng từ các công ty trong nước và các công ty nước ngoài dưới hình thức trực tiếp hay gián tiếp, bằng lợi thế của mình và các cách thức kinh doanh của mình làm sản phẩm bán ra trên thị trường. Hầu hết các sản phẩm nhập về của công ty Hạ Long đều là thành phẩm (Đây chính là một lợi thế cũng như khó khăn của công ty). Bên cạnh đó Công ty Hạ Long cũng nhập 1 số sản phẩm dưới dạng linh kiện, sau đó lắp ráp hình thành lên thành phẩm bán ra trên thị trường (mang tính chất sản xuất) hay trực tiếp bán linh kiện nhập nước ngoài trên thị trường. Kinh doanh của Công ty Hạ Long chủ yếu là làm thương mại và dịch vụ, trên cơ sở các sản phẩm là thành phẩm công ty chỉ làm nhiệm vụ chính là phân phối hàng hoá tới các bạn hàng và tới tận tay người tiêu dùng. Điều này có thể khái quát theo sơ đồ sau: thành phẩm Công ty linh kiện Xuất Thành phẩm linh kiện + thành phẩm Các C.ty TM khác Người tiêu dùng Trên cơ sở phân phối hàng hoá như vậy, kết hợp với việc làm các hình thức dịch vụ đi kèm mà Hạ Long thu được lợi nhuận. Cơ cấu, chủng loại mặt hàng kinh doanh hiện tại. Công ty UDCNKT Hạ Long kể từ khi ra đời tập trung chủ yếu vào các mặt hàng thiết bị văn phòng trong đó chủ yếu là máy vi tính và gần đây đã bắt đầu phát triển sang lĩnh vực khác là cửa tự động (Autodoor), ta có thể phân loại lĩnh vực kinh doanh theo bảng sau: Bảng phân loại mặt hàng kinh doanh Thiết bị văn phòng (loại 1) Cửa tự động (loại 2) Máy tính và phụ kiện (a) Máy văn phòng (b) Máy nguyên chiếc + COMPAQ, MITAC + IBM +ARES + HP Máy lắp ráp + Từ các loại linh kiện máy tính Các thiết bị đi kèm: + máy in: HP, CANON +UPS: ARES, SUNTAC + Thiết bị Multimedia (phòng láp): Teacherwin Các linh kiện lẻ: + Monitor: Proview + HDD: Segate Máy fax: + PANASONIC + TOSHIBA Máy photocopy + TOSHIBA + RICOHL Điều hoà nhiệt bộ + NATIONAL + LG Cửa ra vào mắt cảm ứng, hàng ngoại (nguyên bộ) + Automaticdoor vbelt + Automaticdoor tbelt + Automaticdoor vbelt, tbelt with Multifution. Các bộ phận lẻ (linh kiện) + Day Coroa + Motor + day + Mắt thần (Sensor) + Micro computer điều khiển + Cổng tự động. + Cửa, cổng Gora... Sơ đồ do phân bố hoạt động và doanh thu theo biểu đồ sau: 80% Loại 1a - Loại 1b - Loại 2 3. Tổ chức bộ máy quản lý của công ty Công ty TNHH ứng dụng kỹ thuật và công nghệ Hạ Long là một công ty thuộc mô hình vừa và nhỏ, do vậy nó được tổ chức bộ máy quản trị tương đối gọn nhẹ. Trên thực tế, Hạ Long được tổ chức theo hình thức kết hợp giữa quản trị theo nhóm và theo phòng ban, bộ máy quản trị của công ty được chia ra các phòng ban chức năng như Kế toán, Kinh doanh, Vật tư, Tài chính. Trong đó công ty cũng được chia ra làm hai nhóm: nhóm thứ nhất chuyên về lĩnh vực thiết bị văn phòng, nhóm còn lại thực hiện dự án về cửa tự động. Các phòng ban như giám đốc, tài chính, kế toán, vật tư được thực hiện các công việc về chuyên môn còn các phòng kinh doanh thực hiện công việc theo nhóm. 3.1. Sơ đồ bộ máy quản trị Các phòng ban được bố trí như sơ đồ sau: giám đốc Kế toán Tài chính Kinh doanh vật tư kỹ thuật bộ phận bán TBVP AUTODOOR Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận Giám đốc: chịu trách nhiệm chung về mọi hoạt động kinh doanh của công ty. Kế toán: Tập hợp số liệu doanh thu, công nợ, xuất nhập hàng hoá hàng ngày. Tài chính: Cân đối vốn, tổng hợp số liệu hàng tháng. Kinh doanh: Mua bán hàng hoá, tìm kiếm, nghiên cứu và mở rộng thị trường. Vật tư (bao gồm cả kho): Kiểm soát sự xuất nhập hàng hoá nội bộ bên trong và bên ngoài công ty và số lượng, mẫu mã, chủng loại. Kỹ thuật : Chịu trách nhiệm về kỹ thuật, chất lượng của hàng hoá khi xuất nhập, cũng như bảo hành, bảo trì sản phẩm, hỗ trợ các dịch vụ sau bán hàng. 3.2. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản trị Phòng kế toán, phòng vật tư, tài chính tương đối đơn giản bao gồm trưởng phòng (phòng kế toán là kế toán trưởng). Phòng giám đốc bao gồm có giám đốc, phó giám đốc, thư ký. Phòng kinh doanh có theo sơ đồ ở trang sau, có thể nhạn thấy đây là một điểm đặc trưng ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trưởng phòng ngoài việc phụ trách các nhóm đồng thời cũng phụ trách một nhóm. trưởng phòng phó phòng Nhân viên bộ phận TBVP Nhân viên bộ phận Autodoor Với phương pháp bố trí như vậy có thể thấy rằng, bộ máy của công ty về quản trị đã kết hợp được nhiều ưu điểm của các phương pháp: Quản trị theo nhóm giúp có công ty đơn giản hoá được tổ chức, đồng thời với các phòng ban hiện tại công ty vẫn có một hệ thống các phòng chuyên môn hoá cao đảm bảo năng suất và hiệu quả. VD: Phòng ban Kế toán được chuyên môn hoá tạo một thế mạnh trong công ty trong hệ thống kế toàn tài chính. Sự kết hợp đồng thời với sự phối hợp giữa các phòng ban tạo nên một cơ cấu quản trị linh hoạt, hiệu quả. 3.3. Nguồn nhân lực của công ty Tỷ lệ nhân viên nữ trên tổng số là: 21% Tỷ lệ nhân viên được đào tạo đúng chuyên ngành là: 80% Tỷ lệ nhân viên đã tốt nhiệp đại học là : 80% Tỷ lệ những nhân viên hoạt động mùa vụ theo hợp đồng là 20% so với số nhân viên chính thức Tổng số nhân viên 25 người (kể cả giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng). Phân bố nguồn nhân lực của công ty trong ba lĩnh vực chính: hoạt động trong lĩnh vực thu hút tiền vốn marketting và trong hai bộ phận kinh doanh. Thu nhập của nhân viên công ty theo hai phương thức lương: nhân viên thuộc văn phòng (thư ký, kế toán, phòng tài chính) trả lương theo thời gian còn lại các phòng khác được trả lương theo doanh thu (điều này gắn doanh thu với người lao động dính liền giữa kết quả và thu nhập). 3.4. Sơ đồ bộ máy sản xuất kinh doanh của công ty: Sơ đồ 1. Cơ cấu bộ máy kinh doanh bộ phận sản xuất bộ phận nhập hàng bộ phận vật tư phòng kinh doanh bộ phận bán sỉ bộ phận bán lẻ Sơ đồ 2. Cơ cấu bộ máy sản xuất của công ty (bộ phận sản xuất) bộ phận sản xuất bộ phận nhập hàng Tổ trưởng Nhân viên Nhân viên Nhânviên Qua sơ đồ ta có thể thấy phương thức hoạt động của công ty đó: Phòng kinh doanh lập kế hoạch phương án sản xuất, kinh doanh đưa xuống các phòng ban hỗ trợ như bộ phận sản xuất, bộ phận nhập hàng của công ty từ đó hai bộ phận này cung ứng hàng cho bộ phận vật tư và từ bộ phận vật tư được chuyển vào bộ phận trực tiếp tiêu thụ. Trong đó bộ phận sản xuất được tổ chức theo nhóm. Từng nhóm có tổ trưởng và tổ trưởng chịu trách nhiệm toàn bộ một nhóm. Chương II Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty hạ long Đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Hạ Long Công ty Hạ Long là một doanh nghiệp tư nhân mang tính chất thương mại theo mô hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên nó mang đầy đủ tính chất của loại hình doanh nghiệp này. + Cơ cấu vốnnhỏ, hiện tại số vốn lưu động theo đăng ký với cơ quan nhà nước mới lên đến con số 1 tỷ VNĐ. + Nhân lực không nhiều: với con số là 25 người, kể cả ban lãnh đạo của công ty, nó bầy tỏ đầy đủ cái quy mô hoạt động của một công ty theo mô hình vừa và nhỏ. + Sự điều hành mọi hoạt động của công ty cũng như việc ra các quyết định đều xuất phát từ giám đốc và không phải thông qua một hệ thống văn bản dài dòng mất thời gian. Nói chung Giám đốc toàn quyền quyết định. + Hoạt động sản xuất kinh doanh, hay doanh thu, sự phát triển của công ty phụ thuộc rất nhiều vào phòng kinh doanh, có thể nói đây là phòng quan trọng, cũng là phòng chịu áp lực nhiều nhất từ phía công ty cũng như phía khách hàng, đây chính là đặc điểm chính của hầu hết các công ty vừa và nhỏ nói chung. + Do mô hình hoạt động nhỏ tạo nên một mối liên hệ dễ dàng giữa các thành viên trong công ty, điều này tạo ra sự đoàn kết đồng nhất, sự hỗ trự tốt giữa các phòng ban trong việc giải quyết các vần đề hoạt động kinh doanh, cũng như việc thực hiện các chiến lược, chính sách do phòng kinh doanh vạch ra. + Vẫn có sự phân tích rõ ràng, chức năng, nhiệm vụ của từng phòng ban nhằm nâng cao trách nhiệm cũng như việc sử dụng đúng mục đích và hiêụ quả của mỗi thành viên. + Luôn coi vấn đề hậu mãi, các dịch vụ sau bán hàng là quan trọng bởi đó chính là niềm tin của khách hàng, đó chính là mục đích chính của Hạ Long cũng như công ty thương mại. + Có các biện pháp hỗ trợ Marketing đều đặn (quảng cáo) gửi thư, báo giá... để mở rộng thị trường, luôn tìm tòi các sản phẩm mới để mở rộng lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh. + Có các chế độ kích thích nâng cao trình độ của nhân viên (cả 2 lĩnh vực kỹ thuật và kinh doanh) nhằm nâng cao hiệu quả trong công việc. + Hoạt động sản xuất kinh doanh theo con đường chính thống và chắc chắn, mức liên tế không cao nhưng độ rủi ro không nhiều. Nói một cách chính xác hơn là Hạ Long ít mạo hiểm trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên Hạ Long lại có một mối quan hệ mật thiết với một số ngành (giáo dục) tạo nên một lượng khách hàng truyền thống và rất nhiều tiềm năng cho mình. + Trong quản lý luôn kích thích óc sáng tạo và sự làm việc tự chủ và chủ động của nhân viên, thúc đẩy hết tiềm năng con người nhằm tự giải quyết những công việc của bản thân, của công ty, đem lại hiệu quả lớn. + Tập trung chủ yếu vào việc phân phối thành phẩm, nâng cao hoạt động thương mại, giảm hoạt động sản xuất (lắp ráp). 2. Thực trạng sản xuất kinh doanh của công ty Hạ Long Công ty ƯDCNKT Hạ Long trên thị trường so về cơ cấu là một công ty nhỏ không thể so với một số công ty khác như FPT, CMC..., tuy nhiên tên tuổi và uy tín của nó rất được đảm bảo đối với khách hàng. Để tồn tại và có uy tín, đứng vững trên thị trường hiện nay nhất là thị trường máy tính với số lượng lên đến 200 công ty phải nói rằng Hạ Long có một sự phát triẻen tương đối ổn định trong vài năm trở lại đây. Những đánh giá chung về hoạt động của công ty Hạ Long 3.1. Điểm mạnh 3.1.1. Thị trường tiêu thụ sản phẩm Lĩnh vực thiết bị văn phòng: Thị trường của công ty trong lĩnh vực thiết bị văn phòng tập trung trong lĩnh vực máy tính văn phòng, máy in, các thiết bị hỗ trợ khác. Loại sản phẩm này nhằm vào các văn phòng, trụ sở làm việc của các cơ quan và sự tiêu dùng của nhân dân. Vì vậy khách hàng chủ yếu là các công ty nhà nước và các công ty liên doanh. Bên cạnh đó phải nói rằng công ty rất mạnh trong việc cung cấp máy tính phục vụ cho việc giảng dạy trong giáo dục đặc biệt là các khối trường phổ thông. Điều này được khẳng định qua việc cung cấp một khối lượng lớn máy tính hiệu Mitac cho các trường phổ thông hầu hết ở Hà Nội và một vài tỉnh lân cận trong năm 1998. Ngoài ra việc cung cấp máy tính cho cá nhân tiêu dùng của công ty cũng không phải là nhỏ. Hiện tại, qua quá trình phát triển công ty đã gây dựng được một uy tín nhất định, xây dựng một số mối quan hệ vững chắc đối với khách hàng kể cả cơ quan Nhà nước, tư nhân, liên doanh và người dân. Công ty cũng có kinh nghiệm và khả năng thực hiện cũng như đấu thầu các dự án của nhà nước trong lĩnh vực đổi mới trang thiết bị văn phòng, quản lý nằm trong chiến lược hiện đại hoá công tác quản lý của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Công ty cũng đã tham gia nhiều dự án về giáo dục và kiến trúc, đây cũng là hai thị trường ngách quan trọng, và là 2 thị trường chính vì hiện tại số lượng máy móc văn phòng dùng cho đào tạo tại Việt Nam là tương đối khan hiếm và nhà nước cũng có chủ trương tăng cường đầu tư cho giáo dục trong đó một phần kinh phí khá lớn dành cho hiện đại hoá các thiết bị giáo dục và dành cho các lĩnh vực mới như thông tin, viễn thông. v.v... Công ty Hạ Long vừa là công ty trực tiếp bán sản phẩm tới khách hàng, trực tiếp thực hiện các dự án lớn và đồng thời cũng tạo dựng một thị trường bán sỉ liên công ty giữa các công ty thiết bị văn phòng, họ có mối quan hệ tốt đối với các đối tác, tạo dựng được uy tín và thường xuyên có những hợp đồng bán sỉ các sản phẩm hoặc các linh kiện sang các công ty cung cấp thiết bị văn phòng khác. Ngoài một thị trường lớn về các dự án, công ty cũng có một thị trường bán lẻ, thông qua bộ phận bán hàng của công ty. Trong lĩnh vực này, mặc dù cạnh tranh gay gắt và không được công ty tập trung, nhưng Hạ Long vẫn có được một phần thị trường tương đối. Hơn nữa công ty còn có một mạng lưới đại lý cung cấp hàng hoá cho mình ở một số thành phố lớn tại Việt Nam như: TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và một số tỉnh, huyện lân cận. Lĩnh vực cửa tự động: Mặc dù cửa tự động đã xuất hiện từ những năm thập niên 80 ở Mỹ và các nước phương Tây, phổ biến trong các khách sạn hay các trụ sở của các công ty, tuy nhiên ở Việt Nam loại mặt hàng này mới thực sự xuất hiện và phát triển được chừng 2 năm, mặc dù loại hàng này chưa phổ biến nhưng nó hứa hẹn nhiều triển vọng bởi tiềm năng của chính sản phẩm. Đã có một số khách sạn và một số công trình xây dựng mới, các tổng công ty, văn phòng bộ và các toà nhà lớn đã đặt mua loại mặt hàng này và trong tương lai, khi nhu cầu xây dựng của Việt Nam có chiều hướng tăng so với năm trước và nhất là với tốc độ phát triển xây dựng đến chóng mặt về quy hoạch cũng như việc xây dựng cơ sở hạ tầng (... đầu tư xây dựng tăng.. Trong khi đó công ty Hạ Long là một trong những công ty tiên phong trong lĩnh vực này: Một trong năm công ty đầu tiên tham gia nhập và nghiên cứu thị trường về cửa tự động, đồng thời Hạ Long cũng là công ty đưa ra mức giá thấp nhất so với các đối thủ cạnh tranh khác. Về thực chất công ty đã biết đến mặt hàng này từ năm 1994, nhưng sự chuyên sâu nghiên cứu thì được đầu tư vào gần 2 năm khi mà thị trường cửa tự động bắt đầu có. Công ty có những thế mạnh mà các đối thủ không có đó là mối quan hệ với các công ty xây dựng lớn (VINACONEX, Tổng Công ty xây dựng Hà Nội và hơn lữa là trong hệ thống ngành xây dựng quân đội), đồng thời công ty cũng có được lợi thế khi là công ty đầu tiên xây dựng được mối quan hệ với công ty chuyên dụng về lĩnh vực cửa tự động của Đức, trở thành nhà độc quyền về sản phẩm cửa tự động mang nhãn hiệu DORTEX. Cùng với lợi thế này sự tiên phong và chính thống hơn các công ty cạnh tranh đem lại nhiều thuận lợi cho công ty. 3.1.2. Lợi thế doanh nghiệp nguồn hàng. Hạ Long có mối quan hệ tốt đối với các đối tác nước ngoài, đối với thị trường máy tính tên tuổi của công ty và giám đốc được nhiều bạn hàng biết đến kể cả thị trường cung cấp hàng hoá chính cho thị trường Việt Nam là Đài Loan. Họ là đại lý phân phối chính cho rất nhiều hãng trên thế giới (LEO, MITAC, ARES, DORTEX tiến tới là ACER...). Họ luôn luôn năng động tìm kiếm các chủng loại hàng, các công ty cung cấp và đồng thời cũng tạ ra những công ty cung cấp thường xuyên do vậy họ có khả năng cạnh tranh về giá cả, độ tin cậy về chất lượng sản phẩm cũng như sự yên tâm về số lượng. Đồng thời bộ phận lưu kho cũng không phải chịu chi phí quá lớn, hàng thường được lưu kho rất ít và dường như công ty hoạt động theo phương thức JIT (dự trữ gần như bằng không) vì họ có khả năng chuyển tiếp số hàng một cách nhanh chóng cũng như do sự tin cậy của nguồn cung cấp tạo cho họ khả năng nhập hàng bất kỳ khi nào và sự khả chuyển lớn trong kinh doanh. Sự hỗ trợ của đối tác trong việc quảng cáo, marketing, chế độ bảo hành của hãng..., họ được độc quyền. 3.1.3. Nguồn nhân lực Trước hết phải nói đến lãnh đạo của công ty Giám đốc của Công ty Hạ Long là người có trình độ học vấn cao, tốt nghiệp ở Nga và hơn thế nữa lại xuất thân từ quân đội, đó chính là một lợi thế rất lớn trong việc quản lý và hoạch định những chính sách chiến lược cho công ty. Ông là người có tầm quan hệ rộng và có ảnh hưởng rất nhiều trong các hoạt động đầu vào và đầu ra. Ông còn là một trong số những người trong ban chấp hành, tổ chức và quản lý mọi hoạt động của Hội tin học Hà Nội ra đời năm 2000, nó đem lại lợi thế rất lớn cho công ty trong lĩnh vực tin học. Đội ngũ nhân viên: Một trong những nhân tố của thành công của công ty đó là đội ngũ nhân viên, trong 25 nhân viên của công ty có tới 80% tốt nghiệp đại học chính quy, trong số đó có 2 thạc sĩ, ngoài kiến thức thì những nhân viên của công ty còn có trình độ chuyên môn hoá cao, sự năng động trong công việc, cùng với những kinh nghiệm trong các lĩnh vực mà công ty đang tham gia. Hơn thế nữa nhân viên của công ty tương đối gắn bó với công ty, hầu hết là đội ngũ nhân viên từ khi mới thành lập. Ngoài ra công ty cũng có những chế độ ưu tiên cho việc học tập nâng cao trình độ, đồng thời cũng có xu hướng mở rộng về nhân lực cả về số lượng và chất lượng, nhất là lực lượng nhân viên trẻ và có trình độ. 3.1.4. Hậu mãi Hạ Long phải nói rằng có một dịch vụ sau bán hàng rất tốt được khẳng định bởi các yếu tố - Nhanh - Nhiệt tình - Hiệu quả Điều này tạo nên sự tín nhiệm của khách hàngvà độ tin cậy vào sản phẩm mà Hạ Long cung cấp. 3.2. Điểm yếu Một trong những điểm yếu của công ty đó chính là vốn, vốn của công ty tương đối nhỏ và hạn chế. Bởi dù sao, đây cũng là công ty tư nhân. mặt hàng của công ty không phải là phong phú, công ty chỉ kinh doanh trong hai lĩnh vực (trong đó lĩnh vực cửa tự động là mới được công ty đưa vào trong năm 2000 trong chiến lược đa dạng hoá lĩnh vực kinh doanh của công ty). Mà hai lĩnh vực này đều có rất nhiều hạn chế: Lĩnh vực cửa tự động là quá mới mẻ tại Việt nam, nó thuộc loại mặt hàng cao cấp, sự thành công của lĩnh vực là không thể nói chắc chắn được, doanh thu, chi phí, lợi nhuận là không thể đoán trước, tuy nó có nhiều triển vọng. Thị trường của nó thì chưa được mở rộng ra các tỉnh lân cận và các thành phố lớn khác. Lĩnh vực truyền thống của công ty là thiết bị văn phòng, máy tính có khá nhiều điểm hạn chế: Lĩnh vực này trong thời kỳ bão hoà, có nhiều đối thủ đã gia nhập thị trường trong khoảng hai năm trở lại đây dưới cả hai hình thức công ty và cửa hàng, làm tăng sự cạnh tranh đối với công ty. Đồng thời với sự cạnh tranh của các hãng trong nước thì không thể không nói tới các tập đoàn nước ngoài, các tập đoàn nước ngoài lớn (IBM, COMPAQ, HP, SUN...) với nhiều lợi thế (vốn, kinh nghiệm, uy tín) đưa ra các giải pháp tổng thể cạnh tranh trong các dự án mang tầm cỡ lớn và vừa, trên thực tế họ đã có được thị trường ở các ngành ngân hàng, tài chính, các tổng công ty lớn nơi mà sự tin cậy được đưa lên hàng đầu. Ngược lại sự kinh doanh mang tính chất không lâu dài chỉ với mục đích tồn tại là chủ yếu của các cửa hàng hay các công ty quá nhỏ, làm ảnh hưởng rất nhiều về giá cho thị trường nói chung và công ty nói riêng. Các yếu tố trên đã phần nào thu hẹp dần thị trường truyền thống của công ty cũng như làm cho giá cả giảm một cách tương đối (thu hẹp đáng kể lợi nhuận của công ty). Trong lĩnh vực có mức độ công nghệ thay đổi nhanh, giá cả của các loại mặt hàng chủ yếu có chiều hướng giảm hơn so với trước tăng sức cạnh tranh và nó không còn là một thị trường báo bở như những năm đầu thành lập công ty. Điểm yếu thứ ba của công ty đó là sự phụ thuộc tương đối nhiều của công ty trong việc thực hiện các dự án cũng như các hợp đồng lớn cung cấp hàng cho đối tác, mà công ty ký kết được các dự án này trong các năm trước đây có phần nhiều dự án ký kết được khi công ty nhanh nhậy và có mối quan hệ gây dựng được nên tìm được các dự án mới khi các đối thủ chưa biết, tuy nhiên trong thời điểm hiện tại, các dự án thường được đem ra đấu thầu và các thông tin thường là được công khai một cách rộng raĩ cùng với sự phát triển của các công nghệ thông tin, công ty phải chịu thêm một sức ép lớn từ các đối thủ khác trong việc tìm kiếm dự án. Điểm yếu thứ tư:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc08.DOC
Tài liệu liên quan