Đề tài Thực trạng hoạt động đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay tại sở giao dịch I- Ngân hàng công thương Việt Nam

Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, ngành Ngân hàng luôn có một vị trí quan trọng, và vai trò của nó càng vô cùng to lớn hơn trong một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay. Trong đó phải kể đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Bởi vì nước ta phải trải qua 2 cuộc kháng chiến, sau khi giành được thắng lợi, đất nước được độc lập lúc đó ta mới có điều kiện xây dựng kinh tế. Các doanh nghiệp phần lớn đều bước vào trường với kiến thức kinh doanh ít ỏi, công nghệ nghèo nàn lạc hậu, hơn nữa đất nước ta duy trì chế độ bao cấp quá lâu càng khiến cho các doanh nghiệp hoạt động trì trệ kém hiệu quả. Điều đó đương nhiên cũng dẫn tới hiệu quả cho vay của ngân hàng là kém, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự bươn chải làm ăn, nền kinh tế phát triển hơn lên và hoạt động cho vay của ngân hàng thực sự phát huy được hiệu quả. Hoạt động cho vay của ngân hàng góp phần phát triển kinh tế đất nước, tạo ra những động lực mới cho cải cách kinh tế, dẫn đến sự hình thành và phát triển đa dạng nhiều loại ngành nghề hình thức kinh doanh. Đặc biệt trong những năm gần đây theo chủ trương của chính phủ, ngân hàng đã mạnh dạn cho vay các thành phần kinh tế mới như Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân tạo điều kiện cho họ phát triển, giải quyết thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các hình thức bảo đảm tiền vay đã đa dạng hơn xưa: người vay có thể bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3; kể cả bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Về phía ngân hàng bao giờ vấn đề hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay cũng phải được đưa lên hàng đầu. Có như thế ngân hàng mới thu hồi được vốn và có lãi, trang trải chi phí; rồi lại tiếp tục sử dụng vốn quay vòng phát huy được hiệu quả. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào tiền vay cũng thu hồi lại được đầy đủ và có lãi, vì có rất nhiều nguyên nhân từ môi trường kinh tế, môi trường pháp lý của Nhà nước, và một phần không nhỏ về phía cán bộ ngân hàng đã không xem xét thẩm định tốt dự án trước khi cho vay, vấn đề nắm bắt thông tin thị trường. Người đi vay nhiều khi khai báo không đúng sự thật, khai khống, làm nhiều hồ sơ giả để vay nhiều hơn, xem xét phương án kinh doanh của mình chưa kỹ càng

Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp là những ví dụ điển hình cho hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Ngày nay nó càng trở thành thời sự hơn trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất nước. Mục đích của đề tài này người nghiên cứu muốn đề cập đến hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực trạng và hiệu quả hoạt động này tại Sở đang diễn ra như thế nào, nghiên cứu và đề xuất khắc phục, nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại Sở nói riêng và hoạt động ngân hàng cả nước nói chung.

 

doc39 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng hoạt động đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách hàng vay tại sở giao dịch I- Ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Tính cấp thiết và mục đích nghiên cứu của đề tài Trong bất kỳ một nền kinh tế nào, ngành Ngân hàng luôn có một vị trí quan trọng, và vai trò của nó càng vô cùng to lớn hơn trong một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa như ở nước ta hiện nay. Trong đó phải kể đến hoạt động cho vay của ngân hàng. Bởi vì nước ta phải trải qua 2 cuộc kháng chiến, sau khi giành được thắng lợi, đất nước được độc lập lúc đó ta mới có điều kiện xây dựng kinh tế. Các doanh nghiệp phần lớn đều bước vào trường với kiến thức kinh doanh ít ỏi, công nghệ nghèo nàn lạc hậu, hơn nữa đất nước ta duy trì chế độ bao cấp quá lâu càng khiến cho các doanh nghiệp hoạt động trì trệ kém hiệu quả. Điều đó đương nhiên cũng dẫn tới hiệu quả cho vay của ngân hàng là kém, gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Từ năm 1986 nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự bươn chải làm ăn, nền kinh tế phát triển hơn lên và hoạt động cho vay của ngân hàng thực sự phát huy được hiệu quả. Hoạt động cho vay của ngân hàng góp phần phát triển kinh tế đất nước, tạo ra những động lực mới cho cải cách kinh tế, dẫn đến sự hình thành và phát triển đa dạng nhiều loại ngành nghề hình thức kinh doanh. Đặc biệt trong những năm gần đây theo chủ trương của chính phủ, ngân hàng đã mạnh dạn cho vay các thành phần kinh tế mới như Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân … tạo điều kiện cho họ phát triển, giải quyết thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các hình thức bảo đảm tiền vay đã đa dạng hơn xưa: người vay có thể bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp hoặc bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3; kể cả bảo đảm tiền vay trong trường hợp cho vay không có bảo đảm bằng tài sản. Về phía ngân hàng bao giờ vấn đề hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay cũng phải được đưa lên hàng đầu. Có như thế ngân hàng mới thu hồi được vốn và có lãi, trang trải chi phí; rồi lại tiếp tục sử dụng vốn quay vòng phát huy được hiệu quả. Nhưng trong thực tế không phải lúc nào tiền vay cũng thu hồi lại được đầy đủ và có lãi, vì có rất nhiều nguyên nhân từ môi trường kinh tế, môi trường pháp lý của Nhà nước, … và một phần không nhỏ về phía cán bộ ngân hàng đã không xem xét thẩm định tốt dự án trước khi cho vay, vấn đề nắm bắt thông tin thị trường. Người đi vay nhiều khi khai báo không đúng sự thật, khai khống, làm nhiều hồ sơ giả để vay nhiều hơn, xem xét phương án kinh doanh của mình chưa kỹ càng … Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp là những ví dụ điển hình cho hiệu quả hoạt động bảo đảm tiền vay của ngân hàng. Ngày nay nó càng trở thành thời sự hơn trong giai đoạn phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất nước. Mục đích của đề tài này người nghiên cứu muốn đề cập đến hoạt động bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Công thương Việt Nam, thực trạng và hiệu quả hoạt động này tại Sở đang diễn ra như thế nào, nghiên cứu và đề xuất khắc phục, nhằm nâng cao hiệu quả công tác này tại Sở nói riêng và hoạt động ngân hàng cả nước nói chung. Chương I Lý luận chung về bảo đảm tiền vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại I.1. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại. 1.a. Ngân hàng thương mại: + Định nghĩa: Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên của nó là nhập tiền gửi của khách hàng (không kỳ hạn, có kỳ hạn, phát hành séc), về trách nhiệm là phải hoàn trả số tiền đó và sử dụng số tiền đó để: đầu tư, cho vay, chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. + Chức năng của ngân hàng thương mại: - Chức năng trung gian tín dụng: Là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của ngân hàng thương mại và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thực hiện chức năng này một mặt ngân hàng thương mại huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác trên cơ sở vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh tiêu dùng của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng thương mại vừa là người đi vay vừa là người cho vay, hay nói cách khác, nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay. Ngày nay quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn. Sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa Công ty (khi phát hành cổ phiếu) với những nhà đầu tư, chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán; đảm nhận việc mua bán trái phiếu Công ty … theo cách này, ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người vay vốn trên thị trường. Tác dụng của trung gian tài chính này là giảm thiểu những chi phí thông tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế; những trung gian tài chính là một nguồn tài chính quan trọng hơn nhiều cho các Công ty so với thị trường chứng khoán. Hơn nữa, tín dụng ngân hàng còn là một trong những nguồn hình thành vốn lưu động và vốn cố định của doanh nghiệp. Vì vậy tín dụng ngân hàng đã góp phần điều hoà vốn trong nền kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, là cầu nối giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động viên vật tư hàng hoá đưa vào sản xuất lưu thông, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. - Chức năng làm trung gian thanh toán và quản lý các phương tiện thanh toán. Là sự kế thừa và phát triển chức năng ngân hàng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, tức là ngân hàng tiến hành nhập tiền vào tài khoản hay chi trả tiền theo lệnh của chủ tài khoản; tạo cơ sở cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ cho vay. Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những công cụ lưu thông tín dụng và độc quyền quản lý các công cụ đó (séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán …) đã tiết kiệm cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thông, đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá. - Chức năng tạo ra tiền ngân hàng trong hệ thống ngân hàng 2 cấp: Hệ thống ngân hàng 2 cấp được hình thành vào cuối thế kỷ 19: các ngân hàng không còn hoạt động riêng lẻ nữa mà đã tạo nên một hệ thống, trong đó ngân hàng thương mại là cơ quan quản lý về tiền tệ, tín dụng, là ngân hàng của các ngân hàng. Các ngân hàng còn lại chuyên kinh doanh tiền tệ, nhờ hoạt động trong hệ thống các ngân hàng thương mại đã tạo ra "bút tệ" thay thế cho tiền mặt. Chính nhờ phương thức tạo tiền này mà ngân hàng chẳng những bảo đảm cho sự phát triển của mình mà còn trở thành trung tâm tiền tệ của đời sống kinh tế hiện đại. - Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác: Trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ ngân hàng có những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các doanh nghiệp. Với những điều kiện đó ngân hàng có thể làm tư vấn về tài chính và đầu tư cho các doanh nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, trái khoán bảo đảm đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Khi một doanh nghiệp muốn phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp, họ có thể nhờ ngân hàng cung cấp các dịch vụ như: lựa chọn loại chứng khoán phát hành, tư vấn các vấn đề lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác. Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng, làm dịch vụ thu lãi chứng khoán, chuyển lãi đó vào tài khoản cho khách hàng, hoặc có khi ngân hàng thương mại còn thực hiện việc mua - bán các chứng khoán cho khách hàng, thu hồi vốn chứng khoán đến hạn. Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khác như: dịch vụ bảo quản an toàn vật có giá của khách hàng, dịch vụ cho thuê két ngân buổi tối, dịch vụ tín thác hoặc uỷ thác ngân hàng … - Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Thực hiện chức năng này rất phức tạp, đòi hỏi những điều kiện hết sức ngặt nghèo, nguyên tắc chặt chẽ, phương châm linh hoạt như: * Năng lực tài chính: Có vốn đủ sức hoạt động và cạnh tranh. * Trình độ quản lý kinh doanh và có uy tín thể hiện trên các mặt trang bị những phương tiện thiết bị hiện đại, tiên tiến đủ khả năng để tiếp cận và hoà nhập với thông lệ quốc tế. * Kỹ thuật công nghệ ngân hàng đảm bảo các cho giao dịch nhanh chóng và an toàn, đánh giá trên hệ số cơ giới, tự động hoá. * Có đội ngũ cán bộ với trình độ nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ và phong cách giao dịch đáp ứng yêu cầu hoạt động của cơ chế thị trường. + Vai trò của ngân hàng thương mại: 2 vai trò - Thực thi chính sách tiền tệ: Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về ngân hàng trung ương: để thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng … Chính các ngân hàng thương mại là chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những công cụ này và đồng thời đóng vai trò cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại cũng qua ngân hàng thương mại và các định chế tài chính trung gian khác, tình hình, giá cả, sản lượng, công ăn việc làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá … của nền kinh tế được phản hồi về cho ngân hàng trung ương để chính phủ và ngân hàng trung ương có những chính sách điều tiết thích hợp với từng tình hình cụ thể. Hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại gắn liền với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, các tổ chức và các chủ thể kinh tế. Trong quá trình hoạt động đó ngân hàng thương mại thực hiện vai trò tham gia điều tiết kinh tế vi mô đối với nền kinh tế thông qua các chức năng của mình, biểu hiện các mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại với các tổ chức kinh tế, cá nhân về mặt tín dụng, tiền mặt, thanh toán không dùng tiền mặt … đảm bảo hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế được bình thường. Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ ngân hàng thương mại còn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác trong nền kinh tế. Đây là những dịch vụ trung gian tạo cho ngân hàng thương mại những nguồn lợi đáng kể, góp phần tăng thêm các khoản thu nhập cho ngân hàng, đồng thời cũng tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Với tư cách là trung gian thanh toán không dùng tiền mặt, ngân hàng thương mại đã giúp các chủ thể tham gia thanh toán, tiết kiệm thời gian, đồng thời giúp cho doanh nghiệp thu hồi tiền bán hàng nhanh để tiếp tục quá trình luân chuyển vốn tiếp theo, tạo thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp …, từ đó đảm bảo quyền lợi của người mua và người bán, đảm bảo an toàn và đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn góp phần tạo nên "văn minh tiền tệ" cho xã hội. - Vai trò góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thong qua chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại: được thể hiện trên 2 mặt: Thứ nhất: Tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn thảo chính sách tiền tệ. Thứ hai: Chính sách tiền tệ được thiết kế và khởi động từ ngân hàng thương mại lan ra đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây chuyền của hệ thống ngân hàng trung gian và các tổ chức tài chính trong nước. Như vậy, nếu không có sự chấp hành của hệ thống ngân hàng trung gian thì ý đồ và chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương sẽ không thực hiện được. Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội, mà trước hết là trong hệ thống ngân hàng thương mại. Các công cụ này là những thao tác hoạt động hàng ngày của ngân hàng trung ương. Mọi hoạt động của ngân hàng trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mô trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ đã vạch ra. Ngân hàng thương mại bằng việc tạo tiền gắn liền chặt chẽ với công cụ quản lý vĩ mô của ngân hàng trung ương (tỉ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc) trong khi thực hiện hoạt động kinh doanh của mình, đã góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô của ngân hàng trung ương thông qua chính sách tiền tệ. b. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại (hay còn gọi là nghiệp vụ): bao gồm 3 lĩnh vực nghiệp vụ: Nghiệp vụ nợ, nghiệp vụ có và nghiệp vụ môi giới trung gian. Đó là các nghiệp vụ nằm trong bảng tổng kết tài sản, ngoài ra còn có các dịch vụ khác không tổng kết trên bảng tài sản như bảo lãnh, cho thuê két sắt, tư vấn … 3 nghiệp vụ trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau để hình thành hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế khi ngân hàng thương mại đi vào hoạt động ổn định, các nghiệp vụ được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động, tạo thành một chỉnh thể thống nhất. + Nghiệp vụ nợ (nghiệp vụ tạo lập vốn): Đây là nghiệp vụ khởi đầu tạo điều kiện cho sự hoạt động của ngân hàng. Về sau khi ngân hàng thương mại đã ổn định các nghiệp vụ của nó được xen kẽ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động. Huy động các nguồn vốn khác nhau (tài sản nợ) trong hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Một ngân hàng không thể hình thành, lớn mạnh và phát triển mà lại không đặt vấn đề huy động vốn lên hàng đầu. Ngân hàng thương mại là người đi vay, tài sản nợ bao gồm những khoản mà nhân dân gửi vào (ký thác) cho ngân hàng, hay ngân hàng đi vay các đối tượng trong nền kinh tế như ngân hàng trung ương, các ngân hàng hay tổ chức tài chính khác, chính quyền, nước ngoài, các doanh nghiệp … - Tài sản nợ của ngân hàng thương mại tập trung vào 5 nhóm phổ biến: 1) Vốn pháp định hay vốn điều lệ, 2) Tiền gửi không kỳ hạn, 3) Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, 4) Các khoản vay trên thị trường tiền tệ, 5) Các khoản vay của các ngân hàng khác hoặc ngân hàng trung ương. Vốn pháp định là điều kiện bắt buộc ban đầu trước khi ngân hàng được phép khai trương (hay còn gọi là vốn điều lệ) và được ghi rõ trong điều lệ hoạt động của ngân hàng thương mại. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức vốn pháp định do ngân hàng Nhà nước công bố vào đầu mỗi năm tài chính. Vốn điều lệ quy định cho một ngân hàng nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động. Vốn điều lệ sẽ được bổ sung và tăng dần dưới các hình thức: huy động thêm vốn từ các cổ đông, ngân sách cấp lợi nhuận bổ sung … Vốn này chủ yếu được dùng để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị … cho hoạt động ngân hàng, ngoài ra còn được dùng để góp vốn liên doanh, cho vay, mua cổ phần của các Công ty khác. Không được dùng vốn điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ phúc lợi khen thưởng. Như vậy đến khi hoạt động, vốn điều lệ của ngân hàng có thể đã nằm dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ, trang thiết bị, dự trữ hay ký quỹ tại ngân hàng tủng ương, hoặc đã đầu tư vào một thương vụ nào đó. ở Việt Nam để thành lập một ngân hàng thương mại trước hết phải có đủ vốn pháp định theo mức quy định của ngân hàng Nhà nước. Nguồn vốn pháp định của mỗi ngân hàng do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định, nghĩa là nguồn vốn này có thể do Nhà nước cấp hoặc có thể do huy động trong xã hội. Việt Nam ta quy định như sau: * Nếu là ngân hàng thương mại thuộc sở hữu Nhà nước, vốn pháp định do ngân sách Nhà nước cấp 100% vốn ban đầu. * Nếu là ngân hàng thương mại cổ phần, vốn pháp định (vốn điều lệ) do sự đóng góp của các cổ đông dưới hình thức phát hành cổ phiếu. * Nếu là ngân hàng thương mại liên doanh, vốn pháp định là vốn đóng góp cổ phần của các ngân hàng tham gia liên doanh. Ngoài vốn pháp định (vốn điều lệ), ngân hàng thương mại còn có các quỹ dự trữ buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng: Quỹ phát triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi … Toàn bộ các nguồn vốn này được gọi vốn tự có của ngân hàng, nhưng nó lại vô cùng quan trọng vì qua đó mọi người có thể thấy được thực lực quy mô của ngân hàng và vì nó lại là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng. Theo đà phát triển, vốn này sẽ được gia tăng về số lượng tuyệt đối, song nó vẫn luôn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn vốn. Vốn tự có chỉ là điểm xuất phát để tổ chức hoạt động ngân hàng. Ngày nay các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng dựa trên cơ sở vốn vay mượn (nghiệp vụ kỹ thác, vay các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, phát hành các giấy tờ có giá …) tỷ lệ giữa vốn vay mượn và vốn tự có có thể từ 1/10 đến 1/100. Vốn tự có là điều kiện pháp lý cơ bản, đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy quy mô vốn là yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và quy mô tài sản có. Vốn tự có càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế và tình hình hoạt động ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn. Vốn tự có càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận càng lớn vì có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng có nhiều cơ hội làm ra tiền hơn. Vốn tự có có 3 chức năng: Chức năng bảo vệ (sự bảo đảm thanh toán cho người ký thác khi vỡ nợ, góp phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản dự trữ để ngân hàng khỏi bị đe dọa bởi sự thua lỗ để có thể tiếp tục hoạt động); chức năng hoạt động (xây dựng trụ sở, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng), chức năng điều chỉnh (thoả mãn các cơ quan quản lý ngân hàng: xem xét cấp giấy phép hoạt động, thiết lập các chi nhánh, giới hạn tín dụng đầu tư và mua sắm tài sản của ngân hàng). - Nghiệp vụ ký thác: Do khách hàng gửi vào và để lại trong tài khoản của họ tại ngân hàng; theo 2 mục đích: hưởng các lợi ích của các phương tiện mà ngân hàng có thể cung cấp cho họ, thứ hai là lấy lãi suất như các số tiền gửi vào sổ tiết kiệm hay vào các tài khoản định kỳ (trong trường hợp này thì khách hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng như dùng séc để thanh toán chẳng hạn). Ký thác của ngân hàng chủ yếu từ 2 nguồn: Từ doanh nhân và từ dân cư. Luật pháp quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi nhận ký thác và chính nghiệp vụ ký thác còn cung cấp một tiêu chuẩn để phân biệt giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian khác. Về phương diện pháp lý, ngân hàng thương mại trở thành người bảo quản các số tiền gửi dưới bất kỳ hình thức nào và được quyền sử dụng các số tiền đó trong các nhu cầu hoạt động chuyên môn của mình, nhưng đồng thời cũng có trách nhiệm hoàn lại vốn trong các điều kiện đã được quy định. Các khoản tiền ký thác được phân loại thành: Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm, tiền gửi không kỳ hạn. - Nghiệp vụ đi vay: Sau khi đã sử dụng hết vốn nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của khách hàng, các ngân hàng thương mại có thể vay ở ngân hàng trung ương, ở các ngân hàng thương mại khác, vay ở thị trường tiền tệ, vay các tổ chức nước ngoài … Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng có thể chấp nhận được trong kết cấu nguồn vốn, nhưng nó rất cần thiết và có vị trí quan trọng để bảo đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách bình thường. - Nghiệp vụ có: Huy động được vốn rồi thì ngân hàng thương mại phải tìm cách để hiệu quả hoá những tài sản này. Hầu như tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của ngân hàng đều là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến từng giờ. Do đó để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn pải cho vay hoặc đầu tư ngay số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lời, có thu được lãi ngân hàng sẽ trả lãi cho vốn đã vay, thanh toán cho các chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng. Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thị trường nợ ngân hàng hoặc là những khoản mà ngân hàng cho thị trường vay. Ngân hàng là chủ nợ và các đối tượng vay tiền của nó là con nợ. Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu tư tiền của nó. Sự khác nhau giữa các loại đầu tư này hình thành nên sự khác nhau trong tài sản có của ngân hàng thương mại và thường được quy về các nhóm sau: - Dự trữ tiền mặt bao gồm tiền mặt tại kho của ngân hàng và tiền mặt ký gửi tại ngân hàng trung ương. - Đầu tư vào chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu) - Cho vay - Đầu tư vào các loại tài sản (như bất động sản, cơ sở hạ tầng trang thiết bị …) + Nghiệp vụ môi giới trung gian: Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa dạng của công chúng. Thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ đem lại cho các ngân hàng những chứng khoản thu nhập khá quan trọng. Các dịch vụ ngân hàng sẽ giúp ngân hàng phát triển toàn diện. Hiện nay, để cạnh tranh với nhau các ngân hàng thương mại không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, cung cấp tiện nghi cho khách hàng, tạo thêm những hình thức dịch vụ mới, tạo sự phong phú đa dạng hoạt động kinh doanh.Dịch vụ ngân hàng càng phát triển thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau, chủ yếu là các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt như sau: - Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác cùng ở một ngân hàng hay ở 2 ngân hàng khác nhau, thông qua các công cụ như séc, lệnh chi, thẻ chi trả. - Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ tài khoản. - Dịch vụ trả lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh nghiệp chỉ cần gửi bảng lương qua ngân hàng, theo đó ngân hàng sẽ ghi nợ vào tài khoản doanh nghiệp đó và tiến hành chi lương cho những người có tên trong danh sách tiền lương. - Dịch vụ chuyển tiền tự địa phương này sang địa phương khác. - Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân. Theo đó nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản của khách hàng để thanh toán các hoá đơn đòi tiền do các đơn vị dịch vụ gửi đến như: trả tiền điện, nước, điện thoại, thuê nhà … Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi đi thanh toán các khoản này. c, Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại: Là hoạt động kinh doanh chủ chốt của ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư. Kinh tế càng phát triển, lượng cho vay của các ngân hàng thương mại càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. ở các nước đang phát triển (cả Việt Nam) khi cho vay ngắn hạn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn. Cho vay của ngân hàng thương mại, nói rộng ra là tín dụng của ngân hàng thương mại xét về mặt pháp lý có thể phân thành 3 loại: + Cho vay ứng trước (hay còn gọi là loại cho vay trực tiếp, cho vay tiền). + Cho vay dựa trên việc chuyển nhượng trái quyền. + Cho vay qua chữ ký (cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký). Mỗi loại cho vay có đặc thù riêng, thủ tục pháp lý khác nhau, mức độ an toàn khác nhau. + Cho vay tiền: Là nghiệp vụ tín dụng trong đó người cho vay cam kết giao cho người đi vay một khoản tiền và người đi vay cam kết sẽ hoàn trả theo thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh lệch đó là lãi cho vay. Lãi cho vay tỷ lệ với số lượng tiền và thời hạn vay. Cho vay tiền cũng được gọi là loại cho vay ứng trước: thông qua sự thoả thuận giữa người đi vay và người cho vay, dựa trên các phương án kinh doanh người đi vay trình cho người cho vay; bên cạnh đó khoản vay còn được đảm bảo bằng tài sản của người đi vay. Loại cho vay này chứa đựng rủi ro cao vì thiếu cơ sở đảm bảo bằng những hành vi thương mại đã được thực hiện, nghĩa là khách hàng nhận tiền vay sau đó mới đưa tiền đó vào sử dụng. Khách hàng trong trường hợp này có thể sử dụng tiền trái mục đích ghi trên khế ước vay do đó tạo rủi ro cho ngân hàng (rủi ro đạo đức). Loại cho vay này dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản: - Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi: Là nguyên tắc quan trọng hàng đầu. Và để thực hiện nguyên tắc này mỗi lần cho vay ngân hàng phải định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ người đi vay phải lập giấy trả nợ cho ngân hàng, nếu kông ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi của người đi vay để thu hồi nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số dư thì chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ, ngân hàng sẽ phát mại tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về thanh khoản. - Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích: Không những là nguyên tắc mà còn là phương châm hoạt động của ngân hàng. Hiệu quả của nó trước hết là đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm, dịch vụ; đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Khi thực hiện nguyên tắc này ngân hàng yêu cầu khách hàng vay vốn phải sử dụng đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích đó đã được ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên tắc này, ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn, nếu khách hàng không có tiền thì chuyển nợ quá hạn. - Vốn vay phải có tài sản tương đương làm đảm bảo: Tài sản này có thể là hình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100292.doc
Tài liệu liên quan