Trong xu thế hội nhập kịnh tế quốc ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia trên thế giới, nền kinh tế Việt nam đang đổi mới theo hướng một nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam với vai trò “bà đỡ” của nền kinh tế thị trường đang từng bước đổi mới có tổ chức và phương thức hoạt động của mình nhằm đáp ứng xu thế phát triển của thời đại. điều đó được thể hiện qua việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, khuyến khích các hoạt động của các Ngân hàng thương mại, tạo cho nền kinh tế hoạt động đa dạng, tăng tính tự chủ cho các ngân hàng, từng bước cổ phần hoá các ngân hàng thưong mại quốc doanh nhằm tăng tính cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh tế của hệ thống ngân hàng Việt nam, tích cực trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, dần xoá bỏ các rào cản về hạt động ngân hàng,tài chính với bên ngoài.
Trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh của SGD 44 Nguyễn Du-của Ngân hàng Hàng Hải Việt Nam là rất tốt,dư nợ cho vay qua các năm tăng,tỷ lệ nợ quá hạn giảm,các dịch vụ ngân hàng dược nâng cao và đa dạng . măc dù vậy bên cạnh đó cũng có nhiều vấn đề cần khắc phục như các sản phẩm dịch vụ có phù hợp với môi trường đang thay đổi đến chóng măt như hiện nay hay không, các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có gặp những rủi ro hay không,. và các khó khăn còn tiềm ẩn, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng, một hoạt động đươc coi là truyền thống của mọi ngân hàng đây là hoạt động quan trọng nhất đối với một NHTM.
Xuất phát từ những lý do trên em xin mạnh dạn chọn đề tài :
“ Thực trạng chất lượng tín dụng tại sở giao dịch 44 Nguyễn Du – Ngân hàng Maritimebank Hà Nội ”
70 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1163 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng chất lượng tín dụng tại sở giao dịch 44 Nguyễn Du – Ngân hàng Maritimebank Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kịnh tế quốc ngày càng sâu rộng giữa các quốc gia trên thế giới, nền kinh tế Việt nam đang đổi mới theo hướng một nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt nam với vai trò “bà đỡ” của nền kinh tế thị trường đang từng bước đổi mới có tổ chức và phương thức hoạt động của mình nhằm đáp ứng xu thế phát triển của thời đại. điều đó được thể hiện qua việc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật, khuyến khích các hoạt động của các Ngân hàng thương mại, tạo cho nền kinh tế hoạt động đa dạng, tăng tính tự chủ cho các ngân hàng, từng bước cổ phần hoá các ngân hàng thưong mại quốc doanh nhằm tăng tính cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kinh tế của hệ thống ngân hàng Việt nam, tích cực trong việc thực hiện các cam kết quốc tế, dần xoá bỏ các rào cản về hạt động ngân hàng,tài chính với bên ngoài.
Trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh của SGD 44 Nguyễn Du-của Ngân hàng Hàng Hải Việt Nam là rất tốt,dư nợ cho vay qua các năm tăng,tỷ lệ nợ quá hạn giảm,các dịch vụ ngân hàng dược nâng cao và đa dạng…. măc dù vậy bên cạnh đó cũng có nhiều vấn đề cần khắc phục như các sản phẩm dịch vụ có phù hợp với môi trường đang thay đổi đến chóng măt như hiện nay hay không, các hoạt động kinh doanh của ngân hàng có gặp những rủi ro hay không,... và các khó khăn còn tiềm ẩn, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng, một hoạt động đươc coi là truyền thống của mọi ngân hàng đây là hoạt động quan trọng nhất đối với một NHTM.
Xuất phát từ những lý do trên em xin mạnh dạn chọn đề tài :
“ Thực trạng chất lượng tín dụng tại sở giao dịch 44 Nguyễn Du – Ngân hàng Maritimebank Hà Nội ”
Chương 1NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và phân tích tín dụng của Ngân hàng
1.1.1.1 Khái niệm
Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất. Tín dụng là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng ( còn được gọi là tín dụng ngân hàng). Do vậy, phân tích khách hàng trong quan hệ - tín dụng của ngân hàng chính là phân tích tín dụng.
1.1.1.2 Phân tích tín dụng
Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Rủi ro này có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản tài trợ mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đó chính là quá trình phân tích tín dụng, bao gồm quá trình thẩm tra trước, trong và sau khi cho vay, chiết khấu, cho thuê và bảo lãnh.
Quan hệ tín dụng phần lớn được xác lập thong qua hợp đồng tín dụng với trọng tâm là xác định khả năng và ý muốn của người nhận tín dụng trong việc thực hiện hợp đồng. Do đó, mục tiêu của phân tích tín dụng là thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định nội dung của hợp đồng tín dụng bao gồm xác định vị trí thị trường so sánh của người nhận tín dụng, sức cạnh tranh, rủi ro, mức độ thay đổi kỹ thuật, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay… trong quá khứ, hiện tại và tương lai, cho phía ngân hàng điều chỉnh các giá trị trong quan hệ tín dụng với khách hàng.
Quá trình phân tích tín dụng phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Được xây dựng và thống nhất trong toàn NH, tránh tuỳ tiện, duy ý chí. Quy trình này phải được Ban lãnh đạo NH thông qua và phổ biến đến các phòng có liên quan cũng như các cán bộ tín dụng.
- Được xây dựng chi tiết trong nội dung phân tích, tránh chung chung. Mỗi phòng chức năng trong ngân hàng cũng như cán bộ ngân hàng cần biết mình phải làm gì, đến mức nào.
- Toàn bộ quy trình phải nhằm thực hiện các nguyên tắc tín dụng ngân hàng.
1.1.2 Phân loại tín dụng
Hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại là tài trợ cho khách hàng trên cơ sở tín nghiệm ( tín dụng). Hình thức tín dụng truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn có đảm bảo bằng tài sản, giúp khách hàng mua hàng hoá, nguyên, nhiên, vật liệu; sau đó mở rộng thành nhiều hình thức khác nhau như cho vay thế chấp bằng bất động sản, bằng các chứng khoán, bằng giấy tờ lưu kho hoặc không cần thế chấp. Các ngân hàng thương mại lớn hiện nay thực hiện đa dạng các hình thức tín dụng từ cho vay ( tiền) ngắn, trung và dài hạn, bảo lãnh cho khách (để khách hàng có thể phát hành các chứng khoán huy động vốn, mua hàng mà chưa cần trả tiền ngay, hoặc vay của người thứ ba…), mua các tài sản để cho thuê…Các hình thức tín dụng này, một mặt mang lại thu nhập mặt khác chứa đựng những rủi ro cho ngân hàng. Để mở rộng tín dụng có hiệu quả, các ngân hàng, bên cạnh việc phải xây dựng và thực hiện chính sách tín dụng đúng đắn, phải không ngừng đa dạng hoá các hình thức tín dụng cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng.
Có nhiều cách phân loại tín dụng khác nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lí của ngân hàng. Sau đây là một số cách phân loại:
1.1.2.1 Phân loại theo thời gian ( thời hạn tín dụng)
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo thời gian, tín dụng được phân chia thành:
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống.
- Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm.
Tài sản lưu động thường có vòng quay trên 1 vòng trong 1 năm. Do vậy, ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời hạn từ 1 năm trở xuống.
Các tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng hao mòn có yêu cầu được tài trợ từ trên 1 năm tới 5 năm.
Công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có thể lên tới 10 năm hoặc 30 năm.
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể ( ngày, tháng, năm) và ghi trong hợp đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của ngân hàng được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về.
Có khoản cho vay không xác định trước thời hạn như cho vay luân chuyển. Khách hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây ra khó khăn cho khách hàng trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Thời gian chiết khấu thương phiếu là thời hạn còn lại của thương phiếu. Thời hạn bảo lãnh là thời gian có hiệu lực của bảo lãnh, được thoả thuận ghi trong hợp đồng bảo lãnh. Nếu là cho thuê, thời gian được tính từ lúc ngân hàng giao tài sản cho khách hàng đến lúc khách hàng hoàn đủ tiền thuê.
1.1.2.2 Phân loại theo hình thức: Gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn ( hoặc một giấy nợ). Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải đã cho vay đối với chủ thương phiếu. Đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ra hiện tại để thu về một khoản lớn hơn trong tương lai với lãi suất xác định trước được coi như là hoạt động tín dụng. Ngân hàng tuy ứng tiền cho người bán, song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán. Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn lãi cho ngân hàng.
1.1.2.3 Phân loại theo tính chất có đảm bảo và không có đảm bảo
a. Cho vay có đảm bảo bằng tài sản
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không có đủ.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dung tài sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ cho ngân hàng.
Cầm cố:
Cầm cố là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết ( thường là thời gian nhận tài trợ).
Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ. Đối với hàng hoá, ngân hàng thường chấp nhận các loại ít chịu tác động của môi trường ( tính chất lí hoá và công dụng) trong thời gian cầm cố.
Ngân hàng yêu cầu cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm bảo là không an toàn cho ngân hàng. Thường đó là các tài sản mà khách hàng dễ bán : dễ chuyển nhượng.
Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả năng chi trả của người cam kết ( như công ty phát hành chứng khoán, công ty bảo hiểm…) đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại…Ngân hàng cùng với khách hàng định giá vật cầm cố, kí hợp đồng cầm cố, qui định quyền và nghĩa vụ đối với các đảm bảo cầm cố như chuyển giao vật cầm cố, nghĩa vụ của ngân hàng trong việc quản lí, giữ gìn vật cầm cố, quyền của ngân hàng phát mại vật cầm cố khi khách hàng vi phạm các cam kết trong hợp đồng tài trợ.
Thế chấp
Là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng ) các tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết.
Nhiều tài sản của khách hàng trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ của ngân hàng song vẫn phải tham gia vào quá trình hoạt động. Những tài sản này ngân hàng không thể cầm cố.Trừ những ngân hàng, những công ty tài chính lớn có thể nắm giữ nhiều chứng khoán, tài sản chủ yếu của doanh nghiệp là hàng hoá và tài sản cố định. Vì vậy, đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến, đặc biệt đối với doanh nghiệp và người tiêu dung. Do giá trị của tài sản loại này thường lớn nên doanh nghiệp có thể vay ngân hàng với quy mô lớn.
Đảm bảo bằng thế chấp cho phép người nhận tài trợ sử dụng tài sản đảm bảo phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Đó là một thuận lợi. Tuy nhiên, quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản, hơn nữa, do khả năng kiểm soát tài sản đảm bảo của ngân hàng bị hạn chế, khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị của tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng.
Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng thế chấp, ngân hàng phải xem xét kỹ vật thế chấp. Trong hợp đồng thế chấp (ký cùng với hợp đồng tài trợ), phải có phần mô tả vật thế chấp (diện tích, các mốc đánh dấu, giấy tờ sở hữu đối với đất, giá thị trường, công dụng, loại công nghệ, quyền sở hữu… đối với máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, năm tuổi, khả năng sinh trưởng… đối với cây trồng vật nuôi, các sản phẩm gắn với đất…). Như vậy, ngân hàng cần phải có các nhà chuyên môn (hoặc thuê) đủ khả năng đánh giá đảm bảo. Nếu định giá quá cao, quy mô tài trợ có thể rất lớn ( tài trợ theo tỷ lệ % trên giá trị đảm bảo ), có thể gây rủi roc ho ngân hàng. Ngược lại, nếu định giá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. Sau khi định giá, ngân hàng và khách hàng phải thoả thuận về nội quy sử dụng đảm bảo, quyền của ngân hàng giám sát đảm bảo, phát mại đảm bảo khi khách hàng vi phạm hợp đồng.
b.Cho vay có bảođảm bằng uy tín của bên thứ 3
Người thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện đuợc nghĩa vụ. Bảo lãnh là hình thức đảm bảo đối nhân. Các nhân tố ảnh hưởng gồm:
+ Uy tín của người bảo lãnh
+ Tài sản đảm bảo của người bảo lãnh
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho các khách hàng có uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính Phủ mà Chính Phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có khả năng giám sát việc bán hàng… cũng có thể không cần tài sản đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu ngân hàng và khách hàng phải ký hợp đồng đảm bảo. Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản đảm bảo ( quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba…), khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản tài chính đảm bảo.
c. Cho vay không có đảm bảo
Khác với cho vay có đảm bảo, cho vay không có đảm bảo dựa trên tính liêm khiết và từ tình hình tài chính cuả người đi vay, lợi tức có thể có được trong tương lai và tình hình tài chính nợ trước đây. Hình thức này thường được ngân hàng áp dụng cho khách hàng lớn và tín nhiệm của ngân hàng, trong nhiều trường hợp họ còn được hưởng lãi suất ưu đãi. Đó thường là các công ty có cách quản lý hiệu quả, có các sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận, lợi nhuận ổn định và tình hình tài chính vững mạnh. Trên thực tế nhiều khoản vay lớn nhất được thực hiện theo hình thức này
1.1.2.4 Phân loại tín dụng theo rủi ro
a. Khái niệm
Rủi ro tín dụng là sự xuất hiện những biến cố không bình thường trong quan hệ tín
dụng, từ đó tác động xấu đến hoạt động của ngân hàng và có thể làm cho ngân hàng lâm vào
tình trạng mất khả năng thanh toán cho khách hàng.
Ngân hàng luôn đối đầu với những rủi ro tín dụng, hối đoái, thanh khoản, lãi suất…Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến.
. Rủi ro tín dụng:
Là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro.Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lí toàn bộ ngân hàng, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lí.
b. Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng
Rủi ro gắn liền với hoạt động NHTM, phản ánh các tình huống bất thường xảy ra gây tổn thất cho ngân hàng.
Khi tổn thất xảy ra, ngân hàng gặp phải những khó khăn sau:
- Thu nhập của ngân hàng giảm sút dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm.
- Cổ phiếu giảm giá nếu không được kịp thời chấn chỉnh sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sáp nhập hoặc thay thế ban quản lý của ngân hàng.
- Rủi ro tín dụng và lãi suất có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản với hàng loạt người gửi tiền rút tiền ra khỏi ngân hàng, buộc ngân hàng phải đóng cửa và tuyên bố phá sản.
Tổn thất ở mức thấp làm giảm quỹ dự phòng, giảm vốn và quỹ của ngân hàng.
c. Bản chất rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của ngân hàng thương mại- hoạt động tín dung. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, ngân hàng có gắng phân tíh các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ cho vay khhi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề xảy ra. Do vậy, trên quan điểm quản lí toàn bộ ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi , là khách quan.
d. Các nguyên nhân và dấu hiệu của rủi ro tín dụng
Nguyên nhân thuộc về ngân hàng.
Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc đánh giá không tốt, cố tình làm sai… là một trong những nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Nhân viên ngân hàng phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dụ báo các vấn đề liên quan đến người vay… Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục và toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “ tiền bạc”, nhiều nhân viên ngân hàng đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột của ngân hàng. Như vậy, chất lượng nhân viên không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
Những nguyên nhân bất khả kháng
Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng như thiên tai, chiến tranh hoặc những thay đổi tầm vĩ mô như chính sách kinh tế… vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay
Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lý, chủ định lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì… là nguyên nhân gây rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay sẵn sang mạo hiểm với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai, mua chuộc… Nhiều người vay đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hi vọng có thể quỵt nợ, hoặc sủ dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để chia loại rủi ro. Một số ngân hàng chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch bị chậm, khách hàng gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời hạn ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo giá trị lớn…
Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
1.1.2.5. Phân loại khác
Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp…)
Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định).
Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dung…)
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoác trong cấp tín dụng của ngân hàng. Với xu hương đa dạng, các ngân hàng sẽ mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà ngân hàng có thể có lợi thế. Cách phân loại trên cho phép ngân hàng theo dõi rủi ro và sinh lợi gắn liền với những lĩnh vực tài trợ để có chính sách lãi suất, bảo đảm, hạn mức và chính sách mở rộng phù hợp.
1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Quan niệm chất lư ợng tín dụng của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiêp muốn đứng vững trong hoạt động kinh doanh thì phải cải thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm là điều tất yếu. Có nhiều quan điểm nói đến chất lượng bằng nhiều cách: chất lượng là “sự phù hợp với mục đích và sự sử dụng”, là “một trình độ dự kiến trước về độ đồng đều, độ tin cậy với chi phí thấp và phù hợp với thị trường” hay chất lượng là “năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng”.
Với cách đề cập như vậy thì chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu của khách hàng ( người gửi tiền và người vay tiền ), đảm bảo sự tồn tại , phát triển của Ngân hàng và phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội.
Như vậy một quan hệ tín dụng luôn luôn có sự ảnh hưởng tới ngân hàng, khách hàng và nền kinh tế. để có thể hiểu rõ hơn về chất lượng tín dụng ta xem xét sự thể hiện trên các khía cạnh sau:
Đối với ngân hàng thương mại:
Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân Ngân hàng và đảm bảo được tính cạnh tranh trên thị trường. đối với một Ngân hàng nhỏ thì nên cấp tín dụng với mức độ và trong phạm vi nhất định để thoả mãn một cách tốt nhất khách hàng của mình.
Đối với khách hàng:
Chất lượng tín dụng thể hiện ở chỗ tín dụng phát ra phải có lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc tín dụng.
Đối với sự phát triển kinh tế xã hội:
Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần giải quyết công ăn việc làm, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất
1.2.2. Một số chỉ tiêu dùng để phân tích
1.2.2.1. Doanh số cho vay
Là chỉ tiêu phản ánh tất cả các khoản tín dụng mà ngân hàng đã phát ra cho vay trong một khoảng thời gian nào đó, không kể món cho vay đó đã thu hồi về hay chưa. Doanh số cho vay thường được xác định theo tháng, quí, năm.
1.2.2.2. Doanh số thu nợ
Là toàn bộ các món nợ mà ngân hàng đã thu về từ các khoản cho vay của ngân hàng kể cả năm nay và những năm trước đó.
1.2.2.3. Dư nợ
Là chỉ tiêu phản ánh tại một thời điểm xác định nào đó ngân hàng hiện còn cho vay bao nhiêu, và đây cũng là khoản mà ngân hàng cần phải thu về.
1.2.2.4. Nợ quá hạn
Là chỉ tiêu phản ánh các khoản nợ khi đến hạn mà khách hàng không trả được cho ngân hàng mà không có nguyên nhân chính đáng thì ngân hàng sẽ chuyển từ tài khoản dư nợ sang tài khoản quản lý khác gọi là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh chất lượng của nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng.
Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm nhất định ( thường là cuối tháng, cuối quý, cuối năm).
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn = _______________ x 100%
Tổng dư nợ
Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng ngân hàng là một hiện tượng tất yếu. Song vấn đề quan trọng là phảI giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến mức thấp nhất ( vào dưới khoảng 3% ) là có thể chấp nhận được.
NHTM có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá có chất lượng cho vay thấp. Đây chỉ là chỉ tiêu hiện nay thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng cho vay của NHTM.
1.2.2.5. Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động và tổng nguồn vốn
Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động
Chỉ tiêu này đánh giá khả năng sử dụng vốn huy động vào việc cho vay vốn. Thông thường khi nguồn vốn huy động ở ngân hàng chiếm tỷ lệ thấp so với tổng nguồn vốn sử dụng thì dư nợ thường gấp nhiều lần so với vốn huy động. Nếu ngân hàng sử dụng vốn cho vay phần lớn từ nguồn vốn cấp trên thì không hiệu quả bằng việc sử dụng nguồn vốn huy động được. Do vậy, tỷ lệ này càng gần 1 thì càng tốt cho hoạt động ngân hàng, khi đó ngân hàng sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn huy động được.
Ta c ó công thức:
Tỷ lệ dư nợ trên vốn huy động
D ư n ợ *100%
=
Vốn huy động
Chỉ tiêu này cho biết tỷ trọng đầu tư vào cho vay của Ngân hàng so với tổng nguồn vốn, hay là dư nợ cho vay chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn sử dụng của Ngân hàng.
1.2.2.6. Tỷ lệ nợ quá hạn trê tổng nợ
Chỉ tiêu này thường nói lên chất lượng tín dụng của một Ngân hàng. Thông thường chỉ số này dưới mức 5% thì hoạt động kinh doanh của ngân hàng bình thường. Nếu tại một thời điểm nhất định nào đó tỷ lệ nợ quá hạn chiếm tỷ trọng trên tổng dư nợ lớn thì nó phản ánh chất lượng nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng kém, rủi ro tín dụng cao và ngược lại.
Ta có công thức:
Tỷ lệ nợ quá hạn=
Nợ quá hạn
Tổng dư nợ * 100%
1.2.2.7. Vòng quay vốn tín dụng
Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng được xác định bằng doanh số thu nợ trên dư nợ cho vay của một NHTM trong thời kỳ nhất định.
Vòng quay vốn tín dụng =
Doanh số thu nợ
Dư nợ bình quân
Trong đó:
Dư nợ bình quân = Tổng dư nợ các ngày trong kỳ/Tổng số ngày trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh số vòng chu chuyển của vốn cho vay ( thường là 1 năm ). Chỉ tiêu này càng tăng phản ánh tình hình tổ chức quản lý vốn cho vay càng tốt. Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM tính toán theo tong thời kỳ để đánh giá khả năng tổ chức quản lý tín dụng và chất lượng cho vay trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng.
Tuy nhiên chỉ tiêu này chỉ phả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3628.doc