Đề tài Thực trạng áp dụng lý thuyết bộ ba bất khả thi ở Việt Nam và một số đề xuất

Lời mở đầu

Trong suốt thời gian qua, vấn đề lạm phát đang trở thành đề tài nóng trên cả báo chí và giới học thuật. Lạm phát nhận được công chúng quan tâm bởi nó tác động đến “mâm cơm” của những người lao động nghèo, công nhân, sinh viên, trí thức những thành phần chiếm đại đa số trong dân cư. Lạm phát đang khiến chất lượng cuộc sống ngày càng suy giảm, trở thành mối đe doạ cho mục tiêu thiên niên kỷ của Việt Nam Do. Cùng với đó thị trường chứng khoán Việt Nam không ổn định với chỉ số VN- Index tụt dốc liên tục. Chính phủ đã thực hiện các chính sách vĩ mô để giả quyết hai vaavs đề trên .Để xem các chính sách vĩ mô của nhà nước thực hiện như thế nào và giữa chúng có quan hệ ra sao thì chúng ta đi nghiên cứu lý thuyết bộ ba bất khả thi của Robert Mundell và Marcus Fleming, từ đó có thể áp dụng lý thuyết này vào điều hành chính sách vĩ mô của Việt Nam. Lý thuyết nỳ phát biểu như sau:”Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa hai trong ba. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung Quốc ngày nay), nó có thể chọn một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ , nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống như Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)"-- trích lời đề tặng Robert Mundell - Paul Krugman, 1999

Chính vì lẽ đó chúng tôi chọn đề tài: “ Thực trạng áp dụng lý thuyết bộ ba bất khả thi ở Việt Nam và một số đề xuất”

Đề tài chúng tôi gồm có 3 chương:

Chương I: Cơ sở lý luận về lý thuyết bộ ba bất khả thi

Chương II: Các hàm ý đối với Việt Nam

Chương III: Giải pháp để thực hiện hai mục tiêu :Kiềm chế lạm phát , ổn định thị trường chứng khoán

 

doc40 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1846 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng áp dụng lý thuyết bộ ba bất khả thi ở Việt Nam và một số đề xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC Lời mở đầu Lời mở đầu Trong suốt thời gian qua, vấn đề lạm phát đang trở thành đề tài nóng trên cả báo chí và giới học thuật. Lạm phát nhận được công chúng quan tâm bởi nó tác động đến “mâm cơm” của những người lao động nghèo, công nhân, sinh viên, trí thức… những thành phần chiếm đại đa số trong dân cư. Lạm phát đang khiến chất lượng cuộc sống ngày càng suy giảm, trở thành mối đe doạ cho mục tiêu thiên niên kỷ của Việt Nam Do. Cùng với đó thị trường chứng khoán Việt Nam không ổn định với chỉ số VN- Index tụt dốc liên tục. Chính phủ đã thực hiện các chính sách vĩ mô để giả quyết hai vaavs đề trên .Để xem các chính sách vĩ mô của nhà nước thực hiện như thế nào và giữa chúng có quan hệ ra sao thì chúng ta đi nghiên cứu lý thuyết bộ ba bất khả thi của Robert Mundell và Marcus Fleming, từ đó có thể áp dụng lý thuyết này vào điều hành chính sách vĩ mô của Việt Nam. Lý thuyết nỳ phát biểu như sau:”Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa hai trong ba. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi sinh tự do hóa dòng vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung Quốc ngày nay), nó có thể chọn một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá thả nổi (giống như Anh hoặc Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định chính sách tiền tệ , nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái (giống như Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)"-- trích lời đề tặng Robert Mundell - Paul Krugman, 1999 Chính vì lẽ đó chúng tôi chọn đề tài: “ Thực trạng áp dụng lý thuyết bộ ba bất khả thi ở Việt Nam và một số đề xuất” Đề tài chúng tôi gồm có 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận về lý thuyết bộ ba bất khả thi Chương II: Các hàm ý đối với Việt Nam Chương III: Giải pháp để thực hiện hai mục tiêu :Kiềm chế lạm phát , ổn định thị trường chứng khoán Tp , Hồ Chí Minh ngày 17 tháng 4 năm 2011 Nhóm thực hiện Chương I. CƠ SỞ LÝ LUẬN Giáo sư Robert Mundell được xem là cha đẻ của lý thuyết bộ ba bất khả thi. Dựa trên những ý tưởng của ông trong tác phẩm nổi tiếng “ Chính sách tài khoá và tiền tệ dưới các chế độ tỷ giá” (1963), Krugman (1979) và Frankel (1999) đã phát triển thành “ mô hình bất khả thi”. Theo lý thuyết này, một quốc gia không thể đồng thời đạt được cả ba mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá cố định và tự do hoá dòng vốn. Mô hình Mundell-Fleming và các hàm ý về chính sách tào khóa , chính sách tiền tệ dưới các chế độ tỷ giá. Khi nghiên cứu tác động của chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ đối với việc gia tăng sản lượng quốc gia trong mô hình IS-LM, James Meade(1951) và Jan Tinbergen (1952) đã có những nỗ lực để đưa các yếu tố nước ngoài vào mô hình. Tuy nhiên, phần lớn những đóng góp này đều chỉ dừng lại ở mức là những tranh luận hấp dẫn, chưa thực sự trở thành một lý thuyết vững chắc. Nỗ lực thành công nhất trong việc đưa yếu tố nước ngoài vào hệ thống lý thuyết Keyness hiện đại được xem là của “mô hình Mundell-Fleming”. Đây là kết quả nghiên cứu của Robert Mundell (1962, 1963) và J.M.Fleming (1962) trong thời gian làm việc tại quỹ tiền tệ quốc tế IMF. Mô hình Mundell-Fleming là sự mở rộng của nền tảng lý thuyết IS-LM khi có tính đến tác động của cán cân thanh toán. Đây được xem là điểm khởi đầu cho lý thuyết bộ ba bất khả thi. Mô hình Mundell-Fleming chỉ ra sự hiệu quả hay không hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá dưới các chế độ tỷ giá khác nhau. Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá cố định. Đầu tiên, mô hình Mundell-Fleming chỉ ra rằng, chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá có thể làm thay đổi các trạng thái của cán cân thanh toán . Bắt đầu tại điểm cân bằng E trong hình 1.1, nơi mà BP=0, nếu chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng (một sự dịch chuyển sang phải từ LM thành LM’) thì sẽ có một điểm F cân bằng mới nằm dưới đường cong BP, và đó là một cán cân thanh toán thâm hụt. Ngược lại, bắt đầu từ điểm E, một sự mở rộng chính sách tài khoá (đường IS dịch chuyển sang phải thành IS’) sẽ hướng nền kinh tế đến một cán cân thanh toán thặng dư tại điểm G. r G H E IS IS’ BP>0 LM LM’ F BP<0 Y Hình 1.1: Mô hình IS-LM của Mundell-Fleming với tỷ giá cố định Mặc dù chính sách tiền tệ và tài khoá có thể dẫn đến một cán cân thanh toán thặng dư hoặc thâm hụt, nhưng hàm ý của mô hình Mundell-Fleming đó là có thể sử dụng sự kết hợp của chính sách tài khoá và tiền tệ để tăng sản lượng mà không tạo nên một cán cân thanh toán thâm hụt hay thặng dư. Điều này được thể hiện rõ trong hình 1.1. Bắt đầu tại điểm E, chúng ta có thể thực hiện cả hai chính sách tài khoá và tiền tệ mở rộng (nghĩa là, IS dịch chuyển đến IS’ và LM dịch chuyển đến LM’) nhưng vẫn có được một cán cân thanh toán cân bằng (điểm H trong hình 1.1). Điểm H là một điểm cân bằng bền vững trong dài hạn. Khi cán cân thanh toán thặng dư, NHTW sẽ dùng nội tệ để mua ngoại tệ vào. Ngược lại, khi cán cân thanh toán thâm hụt, NHTW sẽ bán ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu trên thị trường. Do đó, một cán cân thanh toán thặng dư hay thâm hụt sẽ làm tăng hoặc giảm cung tiền của nền kinh tế vì NHTW sẽ mua vào hoặc bán ra ngoại tệ. Kết quả là, một cán cân thanh toán thặng dư hay thâm hụt sẽ không được duy trì, nhưng điều này lại tác động đến lạm phát trong nước. Luận điểm này sau đó được Frankel và Krugman khai thác và xây dựng nên lý thuyết bộ ba bất khả thi. Nhằm tránh những tác động của việc mua bán ngoại tệ đến lạm phát trong nước như đã nói ở trên, NHTW sử dụng một công cụ gọi là “chính sách vô hiệu hoá”. Giả định, có một sự mở rộng chính sách tiền tệ và tạo ra một cán cân thanh toán thâm hụt như điểm F trong hình 1.1: +Nếu NHTW bán ngoại tệ nhằm đáp ứng cầu ngoại tệ sẽ làm giảm cung tiền nội địa và làm đường LM’ dịch chuyển trở lại đường LM, hay mức cân bằng sẽ trở lại điểm E. Để duy trì vị trí tại F, NHTW phải tiến hành cái gọi là “chính sách vô hiệu hoá”, tức là NHTW sẽ mua các chứng khoán trên thị trường mở nhằm cung ứng ra lưu thông một lượng nội tệ đúng bằng lượng nội tệ giảm đi khi NHTW bán ngoại tệ để duy trì cán cân thanh toán thâm hụt. +Ngược lại, để duy trì một cán cân thanh toán thặng dư, chính sách vô hiệu hoá của ngân hàng được thực hiện theo chiều ngược lại. Nghĩa là, NHTW sẽ bán các chứng khoán trên thị trường mở để hút lượng nội tệ được dùng mua ngoại tệ trước đó. Thật quan trọng để hiểu các hàm ý về chính sách tài khóa và tiền tệ dưới các mức độ khác nhau của luân chuyển dòng vốn, cơ chế tỷ giá và chính sách vô hiệu hoá. Nếu chúng ta vẫn tiếp tục giả định chế độ tỷ giá hối đoái là cố định và không có chính sách vô hiệu hoá, thì sau đó tất yếu rằng, chính sách tài khoá trở nên hiệu quả hơn chính sách tiền tệ. Nhìn hình 1.1: + Bắt đầu tại điểm E, một sự mở rộng chính sách tiền tệ sẽ chuyển đường LM sang LM’ và do đó đạt được một cán cân thanh toán thâm hụt tại điểm F. Tuy nhiên, không có sự vô hiệu hoá, cung tiền sẽ giảm và sau đó LM’ sẽ dịch chuyển sang phía trái trở lại LM và điểm F sẽ quay trở lại điểm E. Nghĩa là, sản lượng sau khi gia tăng trong một thời gian ngắn sẽ quay lại điểm cân bằng Y*. Do đó, chính sách tiền tệ không hiệu quả hoàn toàn để làm gia tăng sản lượng quốc gia. +Ngược lại, giả định rằng, bắt đầu tại điểm E, chúng ta thực hiện một chính sách tài khóa mở rộng, đường IS dịch chuyển sang IS’, dẫn tới một cán cân thanh toán thặng dư tại điểm G. Không có chính sách vô hiệu hoá, một cán cân thanh toán thặng dư hàm ý rằng cung tiền sẽ tăng nhằm đáp ứng cho sự gia tăng trong sản lượng quốc gia. Do đó, đường LM dịch chuyển sang phía phải đến LM’. Tại điểm cân bằng mới, điểm H, là một vị thế dài hạn. Như vậy, sản lượng đã tăng đáng kể trong trường hợp này vì sự dịch chuyển của cung tiền khi không có vô hiệu hoá bổ sung cho sự mở rộng chính sách tài khoá ban đầu. Điều này đưa ta đến kết luận: dưới chế độ tỷ giá cố định, chính sách tài khoá có hiệu quả cao hơn và chính sách tiền tệ kém hiệu quả hơn. Chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ dưới chế độ tỷ giá linh hoạt. Các hàm ý của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá dưới chế độ tỷ giá linh hoạt có thể được hình dung trong hình 1.2. Giả định chúng ta bắt đầu tại E=(r*, Y*) - phần giao nhau của đường cong IS, LM, BP; và giả định có một sự mở rộng chính sách tiền tệ từ LM sang LM’. Kết quả, chúng ta dịch chuyển từ E đến F, là một cán cân thanh toán thâm hụt. Tại điểm F, có một cầu thặng dư về ngoại tệ và cung thặng dư về nội tệ trên thị trường ngoại hối. Dưới cơ chế tỷ giá linh hoạt, tỷ giá thực sẽ giảm, do đó đường BP dịch chuyển sang phải thành BP’ và IS dịch chuyển sang phải thành IS’, tạo nên một điểm cân bằng sản lượng mới J cao hơn Y*J. Chúng ta có được sự cân bằng bên trong và bên ngoài khi có sự giao nhau của ba đường IS’, LM’ và BP’. Do đó, dưới chế độ tỷ giá linh hoạt, chính sách tiền tệ tỏ ra khá hiệu quả để gia tăng sản lượng. Hình 1.2: Mô hình IS-LM của Mundell-Fleming với tỷ giá linh hoạt Ngược lại, sự hiệu quả của chính sách tài khoá dưới cơ chế tỷ giá linh hoạt là không rõ ràng. Trong hình 1.2, bắt đầu tại điểm E, giả định có một chính sách tài khoá mở rộng làm cho đường cong IS dịch chuyển đến IS’’ tại điểm G. Tuy nhiên, tại điểm G, chúng ta có một cán cân thanh toán thặng dư và do đó có một sự gia tăng trong tỷ giá thực. Điều này sẽ làm cho đường BP dịch chuyển lên trên thành BP’’ và IS’’ dịch chuyển ngược lại thành IS’. Ta có một điểm cânbằng mới K, là sự giao nhau của đường IS’, LM và BP’’. Như vậy, trong điều kiện tương đối, một chính sách tài khoá mở rộng dưới chế độ tỷ giá linh hoạt là ít hiệu quả hơn dưới chế độ tỷ giá cố định. Lý thuyết bộ ba bất khả thi Ba nhân tố của lý thuyết và thước đo của bộ ba bất khả thi. Độc lập tiền tệ Độc lập tiền tệ giúp cho chính phủ chủ động sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để thực hiện chính sách phản chu kỳ kinh tế. Chẳng hạn nếu nền kinh tế có dấu hiệu phát triển nóng, chính phủ sẽ tăng lãi xuất hoặc thắt chặt cung tiền và ngược lại.Trong các trường hợp này chính phủ không quan tâm đến tỷ giá tăng hay giảm và các biến số kinh tế vĩ mô khác. Chính vì sự độc lập tiền tệ này mà nhiều nhà kinh tế tin rằng chúng sẽ giúp nền kinh tế tăng trưởng ổn định hơn. Tuy nhiên vấn đề là trong một thế giới mà giá cả và tiền lương tương đối cứng nhắc, độc lập tiền tệ quá mức có thể là một cái cớ để chính phủ lạm dụng thực hiện các chiến lược tăng trưởng méo mó trong ngắn hạn. Độc lập tiền tệ nhiều hơn vì vậy dễ dẫn đến bất ổn định trong tăng trưởng và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao. Đó là chưa kể độc lập tiền tệ quá mức có khả năng làm cho chính phủ tiền tệ hóa chi tiêu chính phủ bằng cách phát hành tiền trang trải cho thâm hụt ngân sách. Hậu quả là nền kinh tế rơi vào mất ổn định với tình trạng lạm phát hai con số thậm chí siêu lạm phát. Ổn định tỷ giá Ổn định tỷ giá giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến hành các biện pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu tư đối với rủi ro của nền kinh tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công chúng vào đồng nội tệ. Tất cả giúp làm cho môi trường đầu tư tốt lên. Tuy nhiên tỷ giá cố định hay ổn định quá mức có mặt trái của nó. Tỷ giá quá ổn định làm cho chính phủ mất đi một công cụ để hấp thụ các cú sốc bên trong và bên ngoài truyền dẫn vào nền kinh tế. Ví dụ lạm phát cao trong nước mà tỷ giá gần như cố định dễ dẫn đến nguy cơ hàng hóa mất sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, hậu quả là xuất khẩu giảm và nhập khẩu tăng lên. Ngoài ra tính quá cứng nhắc của tỷ giá còn ngăn cản không cho những nhà làm chính sách sử dụng công cụ chính sách phù hợp với thực tế diễn biến cả nền kinh tế, nhất là khi đang có dấu hiệu bong bóng tài sản. Ví dụ vào những tháng đầu năm 2008 kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng lạm phát tăng tốc 2 con số. Lúc bấy giờ tỷ giá dao động mức 1 USD=16.500 VND. Nhiều nhà kinh tế lúc bấy giờ đưa ra đề xuất để cho tỷ giá giảm xuống mức 1 USD = 15.500 VND để nhập khẩu lạm phát thấp ở nước ngoài về.Tỷ giá giảm làm cho giá hàng nhập khẩu giảm đi. Kết quả của việc giảm tỷ giá, tức để cho đồng nội tệ lên giá, kéo theo giá hàng nhập khẩu giảm đi (nếu các yếu tố khác không đổi). Vào thời điểm này do dòng vốn chảy vào nền kinh tế Việt Nam quá nhiều nên tỷ giá có lúc đã giảm xuống khoảng 1 USD = 15.500 VND. Vấn đề là thay vì nhập khẩu các vật tư cần thiết cho sản xuất giúp hạ nhiệt lạm phát thì các doanh nghiệp Việt Nam lại nhập khẩu quá nhiều ô tô. Nhìn chung tỷ giá quá cứng nhắc chẳng những có khả năng dẫn đến bất ổn trong tăng trưởng, rủi ro lạm phát cao mà còn dẫn đến phân bổ sai nguồn lực và tăng trưởng không bền vững. Hội nhập tài chính Hội nhập tài chính là xu thế khó thể cưỡng lại được trong bối cảnh toàn cầu hóa. Lợi ích của hội nhập tài chính đến từ hai mặt: hữu hình và vô hình. Về mặt hữu hình,lợi ích của hội nhập tài chính giúp quốc gia tăng trưởng nhanh hơn và phân bổ nguồn lực tốt hơn. Chúng cũng giúp nhà đầu tư đa dạng hóa đầu tư, nhờ vậy mà họ mới mạnh dạn bỏ vốn vào nền kinh tế. Thị trường tài chính nội địa nhờ đó cũng phát triển theo. Hội nhập tài chính còn giúp giải quyết được phần nào vấn đề mất cân xứng thông tin do từ khu vực doanh nghiệp đến chính phủ phải minh bạch thông tin nếu muốn thu hút nhiều hơn. Lợi ích lớn nhất-lợi ích vô hình-mang lại từ hội nhập tài chính là tạo ra ộng lực giúp cho chính phủ tiến hành nhiều cải cách và quản trị tốt hơn để theo kịp những thay đổi từ hội nhập. Trên thực tế chính nhờ vào quá trình tự do hóa tài chính cuối những thập niên 1990, nhất là sau trở thành thành viên WTO 2007 mà chính phủ Việt Nam đã tiến hành nhiều cải cách sâu rộng, trong đó có cải cách thủ tục hành chính và chất lượng thể chế. Mặc dù vậy hội nhập tài chính cũng được cho là nguyên nhân dẫn đến bất ổn kinh tế những năm gần đây. Các cuộc khủng hoảng kinh tế thập niên 1990 và cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu cũng có nguyên nhân từ hội nhập tài chính nhưng thiếu quy tắc điều tiết kèm theo. Tình trạng bong bóng chứng khoán và bất động sản ở Việt Nam giai đoạn 2005-2008 dẫn đến những bất ổn kinh tế vĩ mô một phần cũng do tự do hóa tài chính nhưng thiếu cơ chế giám sát tương thích. Dòng vốn gián tiếp chảy vào nền kinh tế đa phần là ngắn hạn và mang tính đầu cơ. Kết hợp ba nhân tố: Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất đi một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài. Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ giá thả nỗi nhưng phải từ bỏ mục tiêu ổn định tỷ giá. Với lựa chọn này, chính phủ (NHTW) được quyền tự do ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của thị trường. Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn đóng. Lựa chọn này có nghĩa chính phủ phải thiết lập kiểm soát vốn. Khi có kiểm soát vốn, mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ. Thước đo bộ ba bất khả thi Tỷ giá, yếu tố đầu tiên của bộ ba,dễ đo lường nhất. Độ ổn định tỷ giá được đo lường dựa vào chế độ tỷ giá trên thực tế thay vì chế độ tỷ giá như cam kết của một quốc gia với IMF. Yếu tố thứ hai của bộ ba là độc lập tiền tệ. Rose (1996) có đề xuất đo lường độc lập tiền tệ bằng cách xem phản ứng của tỷ giá đối với những thay đổi trong sản lượng, lãi suất và cung tiền. Tuy nhiên đối với cung tiền, phương pháp này có nhược điểm là khó thể nào phân biệt được trong thực tế đâu là một cú sốc cung và cú sốc cầu tiền tệ, đó là chưa kể phải giả định tốc độ lưu thông tiền tệ là không đổi. Khác với Rose, Obstfeld, Jay C. Shambaugh và Taylor (2005) đề xuất cách tiếp cận khác để đo lường độc lập tiền tệ bằng cách không dựa trên số lượng mà dựa trên lãi suất danh nghĩa ngắn hạn. Phương pháp này gây tranh cãi vì chỉ dựa chủ yếu vào trực giác khi cho rằng điều hành chính sách tiền tệ chủ yếu dựa vào mức lãi suất mục tiêu hơn là dựa trên số lượng tiền tệ. Yếu tố khó đo lường nhất của bộ ba là hội nhập tài chính. Thường thì các nhà kinh tế dựa vào phương thức kiểm soát vốn của mỗi quốc gia theo phân loại của IMF để xem xét chỉ số độ mở của tài khoản vốn.Tuy nhiên điều mà các nhà kinh tế thực sự quan tâm là mức độ hội nhập tài chính trên thực tế. Có thể một quốc gia tuy tuyên bố kiểm soát chặt các giao dịch vốn nhưng trên thực tế các chính sách lại khá thông thoáng. Chinn và Ito đã phát triển ba thước đo để đánh giá mức độ độc lập tiền tệ (MI), ổn định tỷ giá ( ERS) và hội nhập tài chính ( KAOPEN). Độc lập tiền tệ MI. Mức độ độc lập tiền tệ được đo lường bằng hàm đảo nghịch của mức tương quan hằng năm của lãi suất hàng tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở. Chỉ số mức độ độc lập tiền tệ được xác định bằng: MI = 1 - Trong đó: i: quốc gia sở tại, j: quốc gia cơ sở. Với công thức như trên, giá trị tối đa, tối thiểu tương ứng là 1 và 0. Gía trị càng tiến về 1 có nghĩa là chính sách tiền tệ càng độc lập hơn. VÍ dụ nếu chúng ta muốn đo lường mức độ độc lập tiền tệ của Việt Nam, quốc gia sở tại là Việt Nam và quốc gia cơ sở là Mỹ ( nếu chúng ta muốn xem xét thay đổi lãi suất VNĐ với lãi suất USD). Ổn định tỷ giá (ERS). Độ ổn định tỷ giá chính là độ lệch chuẩn của tỷ giá, được tính theo năm dựa trên dữ liệu tỷ giá mỗi tháng giữa quốc gia sở tại và quốc gia cơ sở.Độ ổn định tỷ giá nằm giữa giá trị 1 và 0, càng tiến về 1 tỷ giá càng ổn định. ERS = Cách thức đo lường độ ổn định tỷ giá như trên có ưu điểm là giúp chúng ta xác định được chính sách tỷ giá trên thực tế mà một quốc gia đang áp dụng chứ không phải dựa trên những gì mà quốc gia đó tuyên bố. Hội nhập tài chính (KAOPEN).Trong các chỉ số đo lường bộ ba bất khả thi,khó nhất là đo lường mức độ hội nhập tài chính.Muốn đánh giá mức độ hội nhập tài chính, chúng ta phải đo lường mức độ mà một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Tuy nhiên việc đo lường mức độ kiểm soát vốn rất phức tạp vì rất khó để phản ánh hết những phức tạp trong thực tế. Chẳng hạn có quốc gia tuy tuyên bố mở cửa thị trường vốn bằng những chính sách khá thông thoáng nhưng trong thực tế lại kiểm soát vốn bằng những biện pháp hành chính của các cơ quan chức năng. Chinn và Ito (2006 , 2008) đưa ra đề xuất sử dụng độ mở tài khoản vốn KAOPEN để đo lường mức độ hội nhập tài chính. KAOPEN dựa trên thông tin trong báo cáo hằng năm về cơ chế tỷ giá và những hạn chế ngoại hối do IMF phát hành (Annual Report on Exchange Arrangements and Exchange Restrictions). Nhìn vào KAOPEN ta sẽ thấy một quốc gia trên thực tế có tiến hành chính sách đa tỷ giá hay không. Đây là dạng cơ chế mà một loại tỷ giá áp dụng cho giao dịch trên tài khoản vãng lai và một loại tỷ giá áp dụng cho tài khoản vốn. Cơ chế đa tỷ giá chính là một dấu hiệu nhận biết một quốc gia tiến hành kiểm soát vốn. Vào thời điểm tình trạng lạm phát tăng tốc ở Việt Nam năm 2008, đã có đề xuất từ một số nhà làm chính sách cho rằng nên áp dụng cơ chế đa tỷ giá, trong đó tỷ giá áp dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu phải khác với các doanh nghiệp nhập khẩu ( chính phủ Việt Nam sau đó đã không đồng ý với biện pháp này). KAOPEN vì vậy cho thấy những hạn chế trong các giao dịch trên tài khoản vãng lai. Tài khoản vốn và kết hối ngoại tệ. Mặc dù vậy, KAOPEN có nhược điểm là không phản ánh đúng mức những gì diễn ra trong thực tế, nhất là việc khu vực tư nhân tìm mọi cách tránh né các biện pháp kiểm soát vốn của chính phủ. Ví dụ chúng ta thấy ở Việt Nam chẳng hạn, các sai số thống kê hằng năm trong cán cân thanh toán quốc tế nhiều khi lên đến hàng tỷ USD. Các sai số này được quy cho khu vựa doanh nghiệp tìm cách chuyển tiền xuyên biên giới vì nhiều mục đích khác nhau.Tuy có một số nhược điểm nhưng chỉ số KAOPEN được nhiều nhà kinh tế đánh giá đã phản ánh được các mục tiêu chính sách quan trọng mà một quốc gia theo đuổi trong tiến trình hội nhập tài chính. Chỉ số Chinn-Ito (KAOPEN) biến thiên giữa 0 và 1.Giá trị càng cao của chỉ số này cho thấy quốc gia mở cửa hơn với những giao dịch vốn xuyên quốc gia. Lưu ý là chỉ số KAOPEN chỉ cho ta thấy độ mở tài khoản vốn theo pháp lý dựa trên các báo cáo của chính phủ cho IMF, WB các chỉ số kinh tế vĩ mô liên quan đến kiểm soát vốn và ngoại hối. Lane và Milesi-Ferretti (2006) có đề xuất sử dụng chỉ số độ mở tài khoản vốn trên thực tế. Chỉ số của Lane và Milesi-Ferretti đo lường khối lượng nợ và tài sản nước ngoài trong cán cân thanh toán. Khi đo lường tổng lượng nợ và tài sản nước ngoài trong cán cân thanh toán, ta sẽ thấy được mức độ kiểm soát vốn trên thực tế mà quốc gia đó đang theo đuổi. Ngoài ra còn một phương pháp thứ hai để đo lường độ mở của tài khoản vốn trên thực tế, đó là tính toán tỷ số dòng tài chính xuyên biên giới trong cán cân thanh toán quốc tế so với GDP. Thường khi phân tích các chỉ số của bộ ba bất khả thi các nhà kinh tế có xu hướng sử dụng đồng thời cả hai chỉ số độ mở tài khoản vốn theo pháp lý và trên thực tế cùng một lúc. Thuyết bộ ba bất khả thi của GS. Robert Mundell Từ những hàm ý của mô hình Mundell-Fleming ở trên ta thấy rằng: hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài khoá phụ thuộc vào cơ chế tỷ giá hối đoái và mức độ kiểm soát vốn.Ví dụ, quốc gia nào có chuyển dịch dòng vốn tự do và tỷ giá cố định, thì các nhà quản lý tiền tệ không thể theo đuổi một chính sách tiền tệ độc lập. Trong một quốc gia có cơ chế tỷ giá cố định thì không có rủi ro tỷ giá, và lãi suất trong nước biến động cùng với lãi suất nước ngoài. Từ những nhận định trên, các nhà kinh tế như Krugman (1979) và Frankel (1999) đã mở rộng mô hình Mundell-Fleming thành “mô hình bất khả thi”. Giống như trong hình 1.3, Frankel (1999)cho rằng, một quốc gia phải từ bỏ một trong 3 mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, sự ổn định của chính sách tỷ giá, và hội nhập thị trường tài chính.Các nội dung này được tóm tắt trong bảng 1.1 Hình 1.3 là sự minh hoạ về nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi. Mỗi cạnh thể hiện cho các mục tiêu tốt nhất, lần lượt là: chính sách tiền tệ độc lập, sự ổn định của tỷ giá, và hội nhập tài chính hoàn toàn. Đối nghịch với mỗi cạnh (hay mỗi mục tiêu) là các công cụ chính sách tại các đỉnh. Mục tiêu hội nhập tài chính đối ngược với đỉnh kiểm soát vốn; mục tiêu ổn định tỷ giá đối ngược với đỉnh thả nổi hoàn toàn; mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập đối ngược với đỉnh liên minh tiền tệ. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng có thể đạt được bởi một đỉnh nằm giữa. Ví dụ,mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và tỷ giá ổn định đạt được bởi đỉnh kiểm soát vốn hoàn toàn.Mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập và hội nhập tài chính hoàn toàn có thể khả thi với đỉnh thả nổi hoàn toàn. Cuối cùng, mục tiêu tỷ giá ổn định và hội nhập tài chính đạt được bởi đỉnh liên minh tiền tệ. Hoàn toàn không khả thi để đạt được đồng thời cả ba mục tiêu. Kiểm soát vốn hoàn toàn Chính sách tiền tệ độc lập tỷ giá ổn định Luân chuyển vốn tăng Liên minh tiền tệ Thả nỗi hoàn toàn Hội nhập tài chính hoàn toàn Hình 1.3 Tam giác bộ ba bất khả thi Bảng 1.1- Nguyên lý của bộ ba bất khả thi Dòng vốn lưu động hoàn toàn Chính sách tiền tệ độc lập Hệ thống tỷ giá cố định Ví dụ: Kiểm soávốn Không Có Có Trung Quốc trước cải cải cách tháng 7/2005 Liên minh tiền tệ Có Không Có EU Tỷ giá thả nổi Có Có Không Nhật, Úc Chứng minh lý thuyết bộ ba bất khả thi Thị trường vốn đóng Độc lập tiền tệ ổn định tỷ giá Tỷ giá thả nỗi Tỷ giá cố định Hội nhập tài chính Hình 2.3 Bộ ba bất khả thi Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ Y0 Y1 A B LM LM1 BP IS r r1 Hình 2.3.1 Thị trường vốn đóng Xuất phát từ A thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng làm dịch chuyển LM đến LM1 . LM1 cắt IS tại B thì có R thấp hơn, có Y1 >Yo làm cho NX giảm làm mất cân bằng tỷ giá . Nếu nhà nước cho hội nhập tài chính làm cho áp lực càng lớn đối với cố định tỷ giá > hội nhập tài chính sẽ không tồn tại. Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính A BP Y r Y0 Y1 B LM LM1 BP IS r r1 Xét tại điểm A nếu nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng thì đường LM dịch chuyển xuống thành LM1. Đường LM1 cắt IS tại B có r thấp làm dòng vốn dịch chuyển ra nước ngoài và tại đó có mức sản lượng Y1 lớn hơn mức sản lượng Yo làm cho xuất khẩu ròng giảm > cung ngoại tệ giảm cầu ngoại tệ tăng > không thể ổn định tỷ giá . Hình 2.3.2 Tỷ giá thả nỗi Ổn định tỷ giá và hội nhâp tài chính Xét tại điểm A thực hiện chính sách mở rộng tiền tệ đường LM dịch chuyển LM1 , LM1 cắt IS tại B lúc này tại B có r thấp , xuất khẩu ròng giảm(NX) làm tỷ giá biến đổi . Nhà nước phải bù đắp khoản khoản ngoại tệ này bằng cách bơm ngoại tệ vào thị trường > làm LM1 dịch chuyển LM chính sách tiền tệ vô tác dụng A BP Y r Y0 Y1 B LM LM1 BP IS r r1 Hình 2.3.3 Tỷ giá cố định Chương II. CÁC HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM Bộ ba bất khả thi ở các nước. Nước Mỹ đã chọn hai mục tiêu đó là sử dụng chính sách tiền tệ và lưu chuyển dòng vốn tự do vào nền kinh tế.Mọi người Mỹ đều có thể dễ dàng đầu tư ra nước ngoài, đơn giản nhất là gửi tiền cho 1 quỹ đầu tư tương hỗ quốc tế và người nước ngoài có thể dễ dàng mua chứng khoán, trái phiếu tại Mỹ. Mặt khác, Cục dự trữ liên bang Fed cũng sử dụng chính sách tiền tệ để góp phần tạ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctaichinhquocte_bobanatkhathi.doc
Tài liệu liên quan