Mục đích của việc phát triển toàn diện của mỗi quốc gia là hướng tới đảm bảo phúc lợi cho con người. Tuy nhiên, để thực hiện quá trình trên, các nước đang phát triển phải đối mặt với việc giải quyết mâu thuẫn giữa thúc đẩy tăng trưởng nhanh và đảm bảo những nhu cầu cơ bản của con người, đặc biệt là giải quyết nghèo đói.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những bước đi tích cực để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người. Với đặc điểm là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, Việt nam đã chú trọng thực hiện biện pháp cụ thể là: Tăng truởng và Xóa đói giảm nghèo - sử dụng tăng truởng như một công cụ để đạt được mục tiêu giải quyết nghèo đói.
Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2010 đã đánh giá và đưa ra những định hướng thực hiện cụ thể vấn đề này trong thực tế. Kết quả và những hạn chế trong thời gian 2001 - 2005 cũng như phương hướng cơ bản để tiếp tục thực hiện thành công chiến lược trên từ năm 2005 - 2006 sẽ là những nội dung chính của đề án.
35 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Mục đích của việc phát triển toàn diện của mỗi quốc gia là hướng tới đảm bảo phúc lợi cho con người. Tuy nhiên, để thực hiện quá trình trên, các nước đang phát triển phải đối mặt với việc giải quyết mâu thuẫn giữa thúc đẩy tăng trưởng nhanh và đảm bảo những nhu cầu cơ bản của con người, đặc biệt là giải quyết nghèo đói.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những bước đi tích cực để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng và đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người. Với đặc điểm là một nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, Việt nam đã chú trọng thực hiện biện pháp cụ thể là: Tăng truởng và Xóa đói giảm nghèo - sử dụng tăng truởng như một công cụ để đạt được mục tiêu giải quyết nghèo đói.
Chiến lược toàn diện về Tăng trưởng và Xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2001 – 2010 đã đánh giá và đưa ra những định hướng thực hiện cụ thể vấn đề này trong thực tế. Kết quả và những hạn chế trong thời gian 2001 - 2005 cũng như phương hướng cơ bản để tiếp tục thực hiện thành công chiến lược trên từ năm 2005 - 2006 sẽ là những nội dung chính của đề án.
CHƯƠNG I:
BẢN CHẤT, VAI TRÒ CỦA TĂNG TRƯỞNG VÀ
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. Phát triển kinh tế là gì?
1.Khái niệm phát triển kinh tế
Đã từ lâu nay, mọi quốc gia trên thế giới đều coi phát triển là mục đích hiển nhiên của mọi hoạt động kinh tế - xã hội. Theo như định nghĩa của các nhà kinh tế học người Pháp thì phát triển là một quá trình một xã hội đạt được sự thỏa mãn nhu cầu mà xã hội ấy cho là cơ bản; đó là quá trình các nước theo đuổi và đạt được mục tiêu, một giá trị nào đó về vật chất hay tinh thần; những giá trị này ngày càng được bổ sung theo thời gian phù hợp với nhu cầu của xã hội.
Đến lượt mình, Michael P. Todaro đã cho rằng, phát triển phải được hiểu như một quá trình nhiều mặt liên quan đến những thay đổi trong cơ cấu, thái độ và thể chế, cũng như việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, giảm bớt mức độ bất bình đẳng và xoá tình trạng nghèo đói tuyệt đối.
Hiện nay, mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời gian, khái niệm phát triển cũng đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế được xem như là quá trình biến đổi cả về lượng và chất – là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Tóm lại, nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức: tăng trưởng kinh tế, cơ cấu kinh tế và việc đảm bảo phúc lợi cho con người
2. Các yếu tố cốt lõi của phát triển kinh tế.
2.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế được hiểu là sự gia tăng về thu nhập của nền kinh tế trong một thời gian nhất định (thường là 1 năm).
Biểu hiện của tăng trưởng kinh tế là quy mô và tốc độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng lên về lượng tuyệt đối nhiều hay ít. Tốc độ tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ. Thu nhập của nền kinh tế có thể biểu hiện dưới dạng hiện vật hoặc giá trị. Thu nhập bằng giá trị phản ánh qua các chỉ tiêu GDP, GNI, được tính cho toàn thể nền kinh tế. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Hiện nay, người ta thường gắn tăng trưởng kinh tế với tính bền vững, tính phù hợp, tính cân đối và tính hiệu quả của tăng trưởng. Theo khía cạnh này, điều được nhấn mạnh nhiều hơn là sự gia tăng liên tục, hiệu quả của chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người. Đặc biệt là quá trình ấy phải được tạo nên bởi nhân tố đóng vai trò quyết định là khoa học, công nghệ và vốn nhân lực trong điều kiện một cơ cấu kinh tế hợp lý.
2.2. Cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế được hiểu là tương quan giữa các bộ phận trong tổng thể nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể.
* Cơ cấu ngành kinh tế: là tương quan giữa các ngành trong tổng thể kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau. Dạng cơ cấu ngành phản ánh sự phát triển của khoa học cộng nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất. Trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.
* Cơ cấu vùng kinh tế: là sự thể hiện cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ địa lý, điều này phản ánh mức độ tập trung hay phân tán vào các vùng miền của một quốc gia, qua đó phản ánh mức độ phân hoá thu nhập trong những nhóm, vùng dân cư nhất định theo khu vực địa lý.
* Ngoài ra còn có nhiều cách tiếp cận khác về cơ cấu kinh tế như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu khu vực thể chế, cơ cấu tái sản xuất, cơ cấu thương mại quốc tế, cơ cấu theo tính chất xã hội, cơ cấu theo tính chất kỹ thuật... Mỗi dạng đều phản ánh những khía cạnh và tính chất của quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia.
2.3. Phúc lợi cho con người
Tiến bộ xã hội mà trung tâm là vấn đề phát triển con người được xem là tiêu thức đánh giá mục tiêu cuối cùng của phát triển. Việc đáp ứng những nhu cầu về phát triển con người là mục tiêu cơ bản nhất của quá trình phát triển. Nó bao gồm các nhu cầu xã hội cơ bản và những nhu cầu xã hội chất lượng cao trên các lĩnh vực chủ yếu như: nhu cầu mức sống vật chất, nhu cầu giáo dục, y tế - chăm sóc sức khoẻ, nhu cầu việc làm. Một số các chỉ tiêu cụ thể của từng lĩnh vực bao gồm:
*Chỉ tiêu phản ánh mức sống: thu nhập bình quân đầu người
*Chỉ tiêu phản ánh giáo dục và trình độ dân trí: tỷ lệ người lớn biết chữ, tỷ lệ nhập học ở các cấp tiểu học, tỷ lệ chi ngân sách cho giáo dục so với tổng chi ngân sách hoặc GDP
*Chỉ tiêu về tuổi thọ bình quân và chăm sóc sức khoẻ: tuổi thọ bình quân từ thời điểm mới sinh; tỷ lệ trẻ em chết yểu; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng theo các tiêu chuẩn chiều cao – cân nặng; tỷ lệ các bà mẹ tử vong vì lý do sinh sản; tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng dịch; tỷ lệ chi ngân sách cho y tế.
Để đánh giá tổng hợp và xếp loại trình dộ phát triển kinh tế - xã hội chung giữa các quốc gia hay các địa phương, năm 1990, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra một chỉ tiêu tổng hợp còn gọi là Chỉ số phát triển con người (HDI) với ba yếu tố cơ bản: tuổi thọ bình quân, trình độ giáo dục, mức thu nhập bình quân đầu người tính theo ngang giá sức mua. Chỉ số HDI càng cao chứng tỏ mức độ đáp ứng phúc lợi cho con người ngày càng tốt hơn. Việc tính toán và phân tích HDI chi tiết nhằm chỉ ra sự chênh lệch về việc đảm bảo các vấn đề xã hội giữa các vùng, giới tính, giữa thành thị và nông thôn, giữa các dân tộc, trên cơ sở đó có chính sách ưu tiên đầu tư, chi tiêu công cộng hay viện trợ cho các vùng và các nhóm có HDI thấp.
II. Những vấn đề liên quan đến con người
1. Khái niệm
1.1. Bất bình đẳng
1.1.1. Thước đo bất bình đẳng về thu nhập:
Bất bình đẳng là một trong những vấn đề được đặt ra để đánh giá sự đáp ứng phúc lợi cho con người nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Thuật ngữ “bất bình đẳng” mà lĩnh vực kinh tế phát triển đề cập đến được hiểu là sự bất bình đẳng về mặt kinh tế trong phân phối thu nhập và tài sản. Thước đo bất bình đẳng về phân phối thu nhập đã được các nhà kinh tế sử dụng nhiều trong các phân tích kinh tế là đường Lorenz và hệ số GINI.
1.1.2. Các mô hình bất bình đẳng trong tăng trưởng kinh tế
Trong lịch sử đã có rất nhiều mô hình chỉ ra mối quan hệ giữa bất bình đẳng và tăng trưởng kinh tế với hai luồng tư tưởng chủ yếu:
*Mô hình tăng trưởng và bất bình đẳng có sự đánh đổi.
S. Kuznets – nhà kinh tế học người Mỹ, bằng những nghiên cứu thực nghiệm của mình đã đưa ra kết luận: sự bất công về thu nhập sẽ tăng lên từ nước có thu nhập thấp tới nước có thu nhập vừa và giảm từ nước thu nhập vừa tới nước có thu nhập cao.
Còn A. Lewis lại cho rằng: trước hết, sự bất bình đẳng tăng lên ở giai đoạn đầu trong lĩnh vực công nghiệp do lao động dư thừa. Ở giai đoạn sau, sự bất bình đẳng giảm bớt do khi lao động dư thừa được thu hút hết vào khu vực thành thị thì lao động trở nên khan hiếm trong sản xuất. Nhu cầu lao động ngày càng tăng lên đòi hỏi phải tăng tiền lương như vậy sẽ dẫn đến giảm bớt sự bất bình đẳng.
* Mô hình giải quyết tăng trưởng và bất bình đẳng cùng lúc
Theo H.Oshima, tăng trưởng khu vực nông nghiệp sẽ dẫn đến hạn chế sự bất bình đẳng trong quá trình tăng trưởng; tiết kiệm sẽ được tăng lên ở các nhóm dân cư, kể cả các nhóm có thu nhập thấp nhất, chính điều này lại thúc đẩy tăng trưởng, như vậy, ngay từ đầu đã có thể hạn chế sự bất bình đẳng.
Theo quan điểm của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng có thể đi đôi với vấn đề bình đẳng và tiến hành phân phối lại dựa trên các thành quả của tăng trưởng kinh tế sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần được cải thiện hoặc ít nhất là không xấu đi trong quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự lựa chọn các giải pháp chính sách phân phối lại được xem là quan trọng, bao gồm: chính sách phân phối lại tài sản và phân phối lại từ tăng trưởng.
1.2. Bản chất của nghèo đói
Có thể nói, tăng trưởng, bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và nghèo đói luôn là những vấn đề luôn đi cùng nhau trong phát triển kinh tế nói chung. Nghèo đói có thể coi là nguyên nhân của bất bình đẳng trong việc phân phối thu nhập khiến cho tăng trưởng kinh tế vẫn không đáp ứng được nhu cầu cơ bản của đại đa số dân chúng. Nghèo đói được đánh giá qua các tiêu chí sau:
1.2.1. Nghèo khổ về thu nhập
Nghèo là tình trạng thiếu thốn ở nhiều phương diện như: thu nhập hạn chế hoặc thiếu cơ hội tạo thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng những lúc khó khăn và dễ bị tổn thương trước những đột biến, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định... Nghèo khổ được định nghĩa trên nhiều khía cạnh khác nhau, việc đo lường từng khía cạnh một cách nhất quán là không thể.
Có thể đo lường nghèo khổ về thu nhập qua hai tiêu chí là “nghèo khổ tuyệt đối” và “nghèo khổ tương đối”:
* “Nghèo khổ tuyệt đối” nhằm biểu thị một mức thu nhập tối thiểu để đảm bảo những “nhu cầu vật chất cơ bản” như lương thực, quần áo, nhà ở để cho mỗi người có thể “tiếp tục tồn tại”. Các nhà kinh tế tiếp cận việc đánh giá nghèo khổ về thu nhập bằng “giới hạn nghèo khổ”, hay ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm (nghèo đói ở mức thấp).
* “Nghèo khổ tương đối” được xét theo tương quan xã hội, phụ thuộc địa điểm cư dân sinh sống và phương thức tiêu thụ phổ biến nơi đó. Nghèo khổ tương đối cũng là một hình thức biểu hiện sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập giữa các quốc gia, các vùng khác nhau.
Để đánh giá “nghèo khổ về thu nhập” thường sử dụng tỷ lệ dân số sống dưới chuẩn nghèo và “khoảng cách nghèo” (phần chênh lệch giữa mức chi tiêu của người nghèo và ngưỡng nghèo).
1.2.2. Nghèo khổ của con người (nghèo khổ tổng hợp)
Nghèo khổ tổng hợp là khái niệm chỉ sự nghèo khổ đa chiều của con người – là sự thiệt thòi, khốn cùng theo 3 khía cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con người thông qua chỉ số nghèo khổ của con người – HPI (chỉ số nghèo khổ tổng hợp). Giá trị HPI của một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của con người ảnh hưởng lên bao nhiêu phần của dân số nước đó. So sánh các giá trị HDI & HPI cho thấy sự phân phối thành tựu của tiến bộ con người.
2. Sự tồn tại của bất bình đẳng và nghèo đói ở các nước đang phát triển.
Các nước đang phát triển đều là những nước nghèo, những nước có thu nhập thấp với những đặc trưng cơ bản là mức sống thấp, tỷ lệ tích luỹ thấp, trình độ kỹ thuật sản xuất thấp và năng suất lao động thấp. Các nước này đang vướng phải vòng luẩn quẩn của đói nghèo, bất bình đẳng và kém phát triển.
Quy mô và mức độ nghèo đói ở mỗi nước phụ thuộc vào hai yếu tố: thu nhập bình quân đầu người và mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Việc phân phối càng bất công bao nhiêu thì số người nghèo sẽ nhiều hơn bấy nhiêu.
Đại bộ phận những người nghèo ở các nước đang phát triển là những nông dân thiếu các phương tiện sản xuất, đặc biệt là đất đai. Ở thành thị, người nghèo tập trung ở những khu vực phi chính thức, họ là những người không có vốn hoặc vốn rất ít và trình độ giáo dục thấp.
Hiện nay đã có rất nhiều nước thoát khỏi tình trạng này để vươn lên trở thành những nước công nghiệp mới với thu nhập bình quân đầu người tăng, đồng thời giải quyết tốt các vấn đề xã hội khác có liên quan. Như vậy là các nước đang phát triển hoàn toàn có đủ khả năng và hy vọng để cải thiện tình trạng của quốc gia mình theo chiều hướng tích cực.
III. Bản chất của mối quan hệ tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo.
1. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề để phát triển.
Tăng trưởng kinh tế có lợi cho xã hội vì nó giúp con người quyền kiểm soát rộng rãi với môi trường xã hội và vật chất, mở rộng quyền tự do của con người. Tăng trưởng kinh tế làm cho con người có thể chiến thắng ốm đau, bệnh tật, đói khát. Tăng trưởng kinh tế giúp con người có nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn sự giải trí thoải mái hơn cũng như nhiều hàng hoá hơn, sự sẵn có của nhiều dịch vụ hơn cũng hàng hoá và sự giải trí: cho phép thưởng thức nhiều hoạt động văn hoá cao hơn, cho phép phụ nữ được “giải phóng” khỏi những công việc truyền thống bắt buộc họ phải ở nhà và hạn chế giao tiếp. Tăng trưởng kinh tế góp phần thực hiện việc truyền bá tư tưởng nhân văn của xã hội giàu có, có nhiều khả năng hơn trong việc chăm sóc những người đau yếu và không thể tự giúp mình như người mù, người tàn tật, thần kinh, và những người mất khả năng khác.
Có thể nói, tăng trưởng kinh tế là tiền đề vật chất cho phát triển kinh tế.
2. Vì sao có tăng trưởng cao nhưng vẫn có sự tồn tại của bất bình đẳng và đói nghèo?
Tăng trưởng kinh tế chưa phải là điều kiện đủ cho phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế không chỉ có lợi cho xã hội, chủ yếu dưới hình thức tự do rộng rãi hơn, mà còn gây ra những tổn phí xã hội nhất định. Tăng trưởng kinh tế gây ra những ảnh hưởng tiêu cực, đặc biệt là hiện tượng đô thị hoá, các tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên....
Nếu giả sử như không có những hao tổn nhất định như trên thì thực tế chỉ ra rằng, tăng trưởng dường như chỉ có người giàu được hưởng lợi ích từ tăng trưởng, trong khi đó thì mức sống của phần lớn dân cư lại không được cải thiện.
Nguyên nhân của tình hình trên được phân tích ở nhiều góc độ. Chẳng hạn, Chính phủ có những mục tiêu ưu tiên khác nhau trong quá trình phát triển: tăng thêm sức mạnh quân sự, danh tiếng của đất nước hoặc dùng một phần lớn thu nhập để tái đầu tư. Nếu quá trình này diễn ra trong một thời gian dài thì mặc dù vẫn duy trì tăng trưởng kinh tế nhưng không nâng cao được đời sống người dân, trái lại còn làm giảm sút tiêu dùng. Tuy nhiên, nguyên nhân chính của việc tăng trưởng kinh tế nhanh nhưng không đi đôi với cải thiện đời sống, nâng cao phúc lợi cho đa số dân chúng - những người nghèo - là xuất phát từ "phân phối thu nhập" không bình đẳng.
Phân phối thu nhập theo chức năng được xác định chủ yếu dựa vào quyền sở hữu các yếu tố nguồn lực trong sản xuất, những người có quyền sở hữu nhiều hơn với những yếu tố như vốn, đất đai, trình độ lao động sẽ có được thu nhập cao hơn những người khác, dẫn đến mức độ thu nhập khác nhau giữa các nhóm dân. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất công trong phân phối thu nhập của các cá nhân và tình trạng đói nghèo ở hầu hết các nước đang phát triển là do sự bất công trong sở hữu tài sản. Vì vậy cần phải phân phối lại tài sản để có sự công bằng đối với sở hữu nguồn lực. Tuy nhiên, trong quá trình tăng trưởng mà không chú ý đến phân phối lại các thành quả từ tăng trưởng thì sẽ cũng dẫn tới sự bất bình đẳng về thu nhập, khiến đại bộ phận dân chúng, đặc biệt là những người nghèo không được hưởng những lợi ích từ tăng trưởng.
3, Vai trò của xoá đói giảm nghèo trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Như chúng ta đã thấy, muốn phát triển kinh tế thì cần phải tăng trưởng kinh tế đồng thời sử dụng thành quả tăng trưởng đó phân phối một cách công bằng để những người nghèo trong xã hội cũng được hưởng những thành quả đó. Một xã hội muốn phát triển không thể tồn tại một tình trạng bất bình đẳng cũng như tỷ lệ đói nghèo cao. Mục tiêu của mọi quá trình phát triển là hướng vào con người như một đối tượng thụ hưởng thành quả đó, như vậy xoá đói giảm nghèo là tất yếu. Nếu tiếp cận quan niệm coi con người là đối tượng thực hành sự phát triển thì vấn đề xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là ở các quốc gia đang phát triển, thực sự là động lực để mở rộng hơn sự lựa chọn cho con người, để con người tự do hơn trong các cơ hội tiếp cận với các nguồn lực. Con người có tuổi thọ cao hơn, có thu nhập cao hơn, có trí tuệ tốt hơn đương nhiên sẽ có nhiều khả năng để lao động, quản lý, sở hữu một cách tốt nhất các nguồn lực phục vụ cho quá trình phát triển.
Nghèo đói có thể ngăn cản tăng trưởng kinh tế vì người nghèo có năng suất lao động thấp do sức khoẻ kém và kỹ năng lao động lạc hậu làm ảnh hưởng iêu cực đến năng lực sản xuất của nền kinh tế. Nghèo đói cũng làm giảm năng lực tiết kiệm và đầu tư, làm cho tăng trưởng kinh tế bị triệt tiêu dần. Với những đòi hỏi khắt khe của thị trường tín dụng thì người nghèo gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn và vì thế họ ít có khả năng khai thác những cơ hội tích luỹ vốn vật chất và vốn con người. Điều này làm giảm tốc độ tăng trưởng thu nhập, và hiệu quả có thể làm nghèo đói gia tăng.
Tóm lại, xoá đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại và bổ trợ cho nhau trong qua trình phát triển kinh tế. Trong mối quan hệ đó thì vấn đề phân phối thu nhập hợp lý để giảm bất bình đẳng trở thành quá trình lựa chọn chính sách, là phương thức để các nước đạt đến mục tiêu phát triển kinh tế.
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG
VÀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM
I. Đặc điểm kinh tế xã hội ở Việt Nam
1. Việt Nam là một nước đang phát triển
Mức thu nhập của Việt Nam nếu tính theo phương pháp quy đổi ngoại tệ trực tiếp thì GNI/ người năm 2003 là 480$, nếu tính theo PPP thì mức này là 2409$. Theo tiêu chí đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam vẫn đứng hàng các nước có thu nhập trung bình thấp.
Trình độ kỹ thuật của sản xuất của nước ta vẫn ở mức thấp. Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước nông - công nghiệp.Tính đến năm 2004, lao động trong khu vực nông nghiệp vẫn chiếm khoảng 58,6% và cung cấp 20,4% giá trị tính trong GDP. Việc chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp còn chậm. Tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu đã qua sơ chế mới chỉ chiếm khoảng hơn 50%; khoảng 70% hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu vẫn dưới dạng thô.
Nguồn lao động ở nước ta tuy dồi dào về mặt số lượng nhưng thực sự năng suất lao động chưa cao. Lao động nông nghiệp nông thôn vẫn là chủ yếu gấp 3 lần so với khu vực thành thị. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của nước ta năm 2004 mới chiếm khoảng 22%, chủ yếu tập trung ở vùng đô thị, trong khu vực phi nông nghiệp. Thể lực của lao động Việt Nam nhìn chung kém, số người không đủ cân nặng chiếm tới 48,7%, Số người lớn suy dinh dưỡng là 28%, phụ nữ thiếu máu là 40% (số liệu năm 2000).
Việt Nam, nhìn chung vẫn là một nước đang phát triển, đang trong thời kỳ quá độ để trở thành một nước công nghiệp phát triển.
2. Định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã chứng minh tính đúng đắn của Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời giúp chúng ta nhận thức được ngày càng rõ ràng hơn về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường là một trong những đường lối phát triển kinh tế đã được xác định của Đảng. Việt Nam đã phát triển trên mô hình nhấn mạnh vào bình đẳng và công bằng xã hội, đưa ra yếu cầu giải quyết các vấn đề xã hội ngay từ đầu trong điều kiện tăng trưởng thu nhập vẫn ở mức độ chưa cao.
II. Thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
1. Định nghĩa chuẩn nghèo
Đã có nhiều định nghĩa về nghèo đói nhưng hiện nay theo định nghĩa được nhiều quốc gia sử dụng, trong đó có Việt Nam thì Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương.
1.1. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo quốc tế.
Phương pháp xác định đường đói nghèo theo chuẩn quốc tế do Tổng cục Thống kê, Ngân hàng thế giới xác định gồm có hai đường chuẩn nghèo. Đường đói nghèo ở mức thấp gọi là đường đói nghèo lương thực, thực phẩm. Đường đói nghèo thứ hai ở mức cao hơn gọi là đường nghèo chung (bao gồm cả mặt hàng lương thực và phi lương thực).
Đường nghèo đói ở mức thấp được xác định theo chuẩn mực hầu hết các nước đang phát triển cũng như Tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức Kcal tối thiếu cho mối thể trạng con người là chuẩn về nhu cầu 2100 Kcal/người/ngày. Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được lượng Kcal này gọi là những người nghèo về lương thực, thực phẩm.
Đường nghèo đói thứ hai tính thêm các chi phí cho các mặt hàng phi lương thực, thực phẩm. Tính cả chi phí này với đường nghèo đói ở trên ta có đường nghèo đói chung.
1.2. Phương pháp xác định chuẩn đói nghèo của Chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia.
Căn cứ vào quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, nguồn lực tài chính 2001 – 2005 và mức sống thực tế của người dân từng vùng, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam đuă ra chuẩn nghèo đói nhằm lập danh sách hộ nghèo từ cấp thôn, xã và danh sách xã nghèo từ các huyện trở lên hưởng sự trợ giúp của Chính phủ từ Chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia về xoá đói giảm nghèo và các chính sách hỗ trợ khác...
Năm 1997, Việt Nam đưa ra chuẩn nghèo đói cho thời kỳ 1996 – 2000 như sau: Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 55.000đ/người/tháng; vùng nông thôn đồng bằng trung du: dưới 70.000đ/người/tháng; vùng thành thị: dưới 90.000đ/người/tháng.
Trước những thành tích của công cuộc giảm nghèo cũng như tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức sống, từ năm 2001 đã công bố mức chuẩn nghèo của Chương trình xoá đói giảm nghèo quốc gia mới được xác định ở mức độ khác nhau tuỳ theo từng vùng, cụ thể bình quân thu nhập là: 80.000đ/người/tháng ở các vùng hải đảo và vùng núi nông thôn; 100.000đ/người/tháng ở các vùng đồng bằng nông thôn; 150.000đ/người/tháng ở khu vực thành thị.
2. Thực trạng đói nghèo Việt Nam.
2.1. Đặc điểm nghèo đói ở Việt Nam.
Việt Nam được xếp vào các nước nghèo trên Thế giới do tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam còn khá cao. Tỷ lệ hộ nghèo theo các năm từ 2001 đến 2004 (theo chuẩn mới) được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Các chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
Năm 2004
Tỷ lệ hộ nghèo
17,5%
14,5%
11,0%
8,3%
(Nguồn: Báo cáo thường niên Tăng trưởng và Giảm nghèo 2003 - 2004)
Mặc dù trong thời gian vừa qua chúng ta đã đạt được những thành công rất lớn trong việc giảm tỷ lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần thấy rằng thành tựu này rất mong manh. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh mức nghèo, do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo cũng khiến họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo. Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người nghèo rất bấp bênh va dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói, do vậy, khi có những dao động về thu nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với mức sống chung và nhóm có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn còn rất cao.
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên nghèo nàn, điều kiện thời tiết khắc nghiệt như ở các vùng núi, vùng sâu, vùng xa hoặc các vùng thường xuyên phải hứng chịu những sự biến động thời tiết khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất của người dân càng thêm khó khăn. Hơn nữa, sự kém phát triển của cơ sở hạ tầng ở các vùng nghèo đã làm cho các vùng này ngày càng bị tách biệt so với các vùng khác. Năm 2000, khoảng 20 – 30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phòng học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công trình thuỷ lợi nhỏ; 20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã. Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1 – 1,5 triệu người. Hàng năm, số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát nghèo vẫn còn lớn.
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn, có trên 90% số người nghèo sinh sống ở nông thôn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực, thực phẩm của thành thị là 4,6% trong khi đó của nông thôn là 15,9%. Trên 80% số người nghèo là nông dân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 351.doc