Đề tài Tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm

Trong thếgiới tựnhiên, xãhội loài người làmột hình thức tổchức

cao nhất, trong đócon người luôn đóng vai tròlànhân tốtrung tâm của mọi

hoạt động diễn ra trong xãhội vàmọi hoạt động đócũng không nằm ngoà i

mục đích nâng cao đời sốngvật chất, tinh thần cho con người. Đểcó được

những thành tựu to lớn trên mọi phương diện của đời sống con người như

ngày hôm nay, con người đã không ngừng phấn đấu, tìm tòi học hỏi và

nhận thức ngày càng sâu sắc hơn thực tại khách quan nhằm cải thiện môi

trường sống vàhoàn thiện chính bản thân mình.

Mỗi con người tồn tại được một cách bình thường trong xãhội đều

cần phải duy trì hai yếu tốcơbản nhất, đólàtrílực vàthểlực; trong đóyếu

tốnày làtiền đềcho yếu tốkia phát triển vàkhông tách rời nhau trong toà n

bộ đời sống con người. Muốn có được thểlực tốt nhất, con người phải luôn

biết cách chă m sóc sức khoẻcho chính mình: khi khoẻmạnh phải giữgìn

sức khoẻvàkhi ốm đau phải chạy chữa. Điều này dẫn đến các hoạt động y

tếdần nẩy sinh vàkhông thểthiếu được trong đời sống con người khi hiểm

họa bệnh tật ngày một nhiều.

Do đó, với mục tiêu phát triển toàn diện con người, Đảng và Nh à

nước ta luôn coi trọng sựnghiệp y tếlàmột trong những sựnghiệp quan

trọng nhất, thiết yếu nhất trong đời sống kinh tế -xãhội, góp phần thúc đẩy

các lĩnh vực khác phát triển đi lên. Theo đómục tiêu phát triển sựnghiệp y

tếchỉcóthểdo nhànước quản lývàbảo đảm bằng quỹtài chính lớn nhất,

tập trung nhất c ủa nền kinh tếquốc dân, đólàNgân sách Nhànước. Vì vậy,

để đạt được kết quả cao nhất trong sự nghiệp y tế ( ch ăm sóc sức khoẻ,

khá m chữa bệnh cho nhân dân) thìnâng cao chất lượng các hoạt động y tế

thông qua quản lýchi Ngân sách Nhànước cho sựnghiệp này làyêu cầu

cấp bách đặt ra trong giai đoạn phát triển kinh tế -xãhội hiện nay vàtrong

tương lai.

pdf82 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1242 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI "Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm" Giảng viên hướng dẫn : Ts Phạm Quang Chung Sinh viên thực hiện : 1 Lời nói đầu Trong thế giới tự nhiên, xã hội loài người là một hình thức tổ chức cao nhất, trong đó con người luôn đóng vai trò là nhân tố trung tâm của mọi hoạt động diễn ra trong xã hội và mọi hoạt động đó cũng không nằm ngoài mục đích nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Để có được những thành tựu to lớn trên mọi phương diện của đời sống con người như ngày hôm nay, con người đã không ngừng phấn đấu, tìm tòi học hỏi và nhận thức ngày càng sâu sắc hơn thực tại khách quan nhằm cải thiện môi trường sống và hoàn thiện chính bản thân mình. Mỗi con người tồn tại được một cách bình thường trong xã hội đều cần phải duy trì hai yếu tố cơ bản nhất, đó là trí lực và thể lực; trong đó yếu tố này là tiền đề cho yếu tố kia phát triển và không tách rời nhau trong toàn bộ đời sống con người. Muốn có được thể lực tốt nhất, con người phải luôn biết cách chăm sóc sức khoẻ cho chính mình: khi khoẻ mạnh phải giữ gìn sức khoẻ và khi ốm đau phải chạy chữa. Điều này dẫn đến các hoạt động y tế dần nẩy sinh và không thể thiếu được trong đời sống con người khi hiểm họa bệnh tật ngày một nhiều. Do đó, với mục tiêu phát triển toàn diện con người, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp y tế là một trong những sự nghiệp quan trọng nhất, thiết yếu nhất trong đời sống kinh tế - xã hội, góp phần thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển đi lên. Theo đó mục tiêu phát triển sự nghiệp y tế chỉ có thể do nhà nước quản lý và bảo đảm bằng quỹ tài chính lớn nhất, tập trung nhất của nền kinh tế quốc dân, đó là Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, để đạt được kết quả cao nhất trong sự nghiệp y tế ( chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh cho nhân dân) thì nâng cao chất lượng các hoạt động y tế thông qua quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp này là yêu cầu cấp bách đặt ra trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay và trong tương lai. Hơn nữa, để người dân được trực tiếp hưởng thụ các dịch vụ 2 chăm sóc sức khoẻ, khám chữa bệnh do Nhà nước cung cấp, định hướng phát triển thì chất lượng các hoạt động y tế tuyến cơ sở có tính chất quyết định và hiện thực nhất với phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Nhận thức được tầm quan trọng của các hoạt động sự nghiệp y tế tuyến cơ sở và từ quá trình nghiên cứu, thực tập tại phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm đã định hướng cho em đi sâu nghiên cứu đề tài: "Tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm". Kết cấu đề tài gồm 3 phần chính: Chương I: Sự cần thiết phải quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế Chương II: Thực trạng công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước trong lĩnh vực y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước với yêu cầu xã hội hoá các hoạt động y tế trên địa bàn quận Hoàn Kiếm Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em đã được sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Phạm Quang Trung và sự chỉ bảo của các cán bộ Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm. Nhưng do kiến thức còn hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi những sai sót, em kính mong sự góp ý của các Thầy, cô giáo Khoa Ngân hàng - Tài chính Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cán bộ Phòng Tài chính - Vật giá quận Hoàn Kiếm. Em xin chân thành cảm ơn! 3 Chương 1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO SỰ NGHIỆP Y TẾ 1.1. QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP Y TẾ TUYẾN CƠ SỞ 1.1.1. Tầm quan trọng của sự nghiệp y tế trong đời sống xã hội · Tác động của các hoạt động y tế đến đời sống xã hội Đời sống kinh tế – xã hội là hình thức biểu hiện cao nhất, tiến bộ nhất của con người, khác xa với các hoạt động khác có trong thế giới tự nhiên ở chỗ con người nhận thức được thực tại khách quan và các quy luật tự nhiên. Để phát triển kinh tế – xã hội thì yếu tố quyết định phải chính là con người và mục tiêu của phát triển kinh tế – xã hội phải hướng tới duy trì sự tồn tại, phát triển của con người. Muốn vậy, con người phải có được một thể lực và trí lực thích hợp nhất, trong đó thể lực lại là tiền đề cho tạo ra và nâng cao trí lực. Thể lực thể hiện sự ngày càng thích nghi với môi trường sống của con người và chính con người lại tự nhận thức, biết nâng cao thể lực thông qua các hoạt động y tế của mình. Các hoạt động y tế với mục tiêu chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ con người trước những tác động tiêu cực của môi trường sống. Khi có được sức khoẻ tốt nhất, con người có điều kiện để tiếp thu và phát triển trí thức cho mình nhằm xây dựng, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình ngày càng tốt hơn. Các hoạt động y tế là phần không thể thiếu được trong xã hội loài người, con người luôn luôn có nhu cầu chăm sóc sức khoẻ không những của bản thân mà của cả gia đình mình. Không một ai lại sống mà luôn luôn khoẻ mạnh cả bởi sự thay đổi thường xuyên của môi trường sống cùng với sự vận động của thế giới tự nhiên. Các hoạt động y tế mà con người sáng 4 tạo ra cũng chính nhằm mục đích điều hoà những tác động không tốt của môi trường sống tới con người. Do đó, các hoạt động y tế là không thể thiếu được trong đời sống con người. Tuy mỗi con người có cuộc sống khác nhau nhưng các hoạt động y tế lại đóng vai trò tác động chung tới từng người nhằm duy trì và phát triển giống nòi. Qua những tác động to lớn của y tế tới đời sống con người như vậy cho nên mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội cần phải chú trọng và lấy mục tiêu chăm sóc sức khoẻ cho con người làm gốc, định hướng cho các chương trình kinh tế – xã hội khác vì một mục tiêu chung là phát triển bền vững. Điều này cũng được thể hiện xuyên suốt trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định một cách rõ ràng trong Nghị quyết TW4 của Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII: Con người là nguồn tài nguyên qúi báu nhất của xã hội, con người quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức khoẻ là vốn qúi nhất của mỗi con người và của toàn xã hội. Do vậy, với bản chất nhân đạo và định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường, ngành y tế phải đảm bảo sự công bằng và hiệu qủa trong chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. · Nhu cầu về các dịch vụ y tế Trong sự phát triển ngày nay, khoa học – kỹ thuật ngày một hiện đại cũng là điều kiện để phát triển lĩnh vực y tế theo kịp và đáp ứng nhu cầu đa dạng của con người. Không chỉ khi mắc bệnh thì con người mới có nhu cầu được chạy chữa mà chăm sóc sức khoẻ ban đầu lại là hết sức quan trọng. Từ khi chưa sinh ra, thai nhi đã được hưởng các chương trình phòng chống bệnh tật hay các dịch vụ chăm sóc khác qua chăm sóc người mẹ (tiêm chủng cho phụ nữ mang thai, khám và theo dõi định kỳ thai nhi..). Suốt toàn bộ đời sống của mình con người luôn luôn đòi hỏi được phòng ngừa bệnh tật tối đa và đến khi mắc bệnh lại cần điều kiện chữa trị tốt nhất. Một chu trình phòng chống bệnh tật cho con người cứ diễn ra liên tục suốt toàn bộ quá trình tồn tại của con người. Chính vì vậy, nhu cầu về các dịch vụ y 5 tế cho con người là vô cùng to lớn, mỗi người đều muốn mình nhận được những dịch vụ y tế tốt nhất có thể có. Do nhu cầu về các dịch vụ y tế rất lớn như vậy và lại mang tính chất đơn lẻ của các cá nhân nên nhu cầu cần được xác định một cách thống nhất, có thể phân định ra hai loại nhu cầu sau: nhu cầu do cá nhân xác định và nhu cầu do Chính phủ xác định. Sự can thiệp của Chính phủ vào việc xác định các nhu cầu về dịch vụ y tế cũng là một tất yếu trong quá trình quản lý bộ máy Nhà nước và quản lý nền kinh tế, đời sống xã hội. Bởi vì việc xác định các nhu cầu về dịch vụ y tế của các cá nhân chỉ xuất hiện khi họ thực sự cần phải được khám chữa bệnh chứ ít cá nhân lại thấy được mình phải được phòng bệnh hay cần làm gì để ngăn chặn các đại dịch xảy ra. Các nhu cầu được xác định bởi Chính phủ nhằm góp phần đẩy lùi các đợt dịch bệnh lây lan hay phòng ngừa những bệnh dễ mắc phải trong dân cư. Từ việc định hướng xác định nhu cầu về các dịch vụ y tế mà trong quá trình quản lý, Nhà nước sẽ có kế hoạch và thực thi các chương trình mục tiêu để đảm bảo sức khoẻ cộng đồng và hơn hết là gây dựng được sự tin tưởng vào bộ máy Nhà nước, hệ thống chính trị. · Tìm hiểu về thị trường dịch vụ y tế Xuất phát từ nhu cầu các dịch vụ y tế của con người và các nhu cầu này lại có khả năng chi trả từ phía các cá nhân cho nên các mức giá và sản lượng tương ứng sẽ được xác định, theo đó hình thành nên cầu về các dịch vụ y tế. Có cầu thì có cung đó là điều mà các nhà kinh tế học đã chứng minh: Cung các dịch vụ y tế là cung hạn chế bởi tính đặc thù và chuyên môn cao vốn có của ngành y tế. Khi cung và cầu về y tế gặp nhau hình thành nên thị trường các dịch vụ y tế. Điều quan trọng ở đây không phải là chúng ta đi tìm hiểu xem thị trường các dịch vụ y tế hoạt động ra sao, mà điểm cốt lõi là đặc trưng của 6 thị trường này có gì khác biệt với các thị trường khác, nhằm định hướng cho công tác triển khai các hoạt động trong sự nghiệp y tế với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường thì mọi hàng hoá, dịch vụ được định giá bởi thị trường nhưng dịch vụ y tế lại không nên để thị trường kiểm soát mà phải có sự quản lý của Chính phủ và được trợ cấp bởi Chính phủ theo một số điểm quan trọng sau: + Thị trường dịch vụ y tế hoạt động phải đem lại mục tiêu công bằng, nhất là đối với xã hội XHCN tồn tại ở nước ta. Nếu giá cả và khối lượng dịch vụ y tế được xác định hoàn toàn bởi thị trường thì gây ra tình trạng mất công bằng, chỉ có những người có đủ tiền mới được hưởng những dịch vụ y tế có thể với chi phí cao mà những người có thu nhập thấp hơn không thể có được. + Để đạt được công bằng trong thị trường các dịch vụ y tế thì phải mất đi tính hiệu quả tương ứng với công bằng đạt thêm được, cho nên đóng vai trò kiểm soát thị trường Chính phủ đứng ra trợ cấp để phát triển các dịch vụ y tế ngày một tốt hơn thông qua những chính sách của mình bằng nguồn Ngân sách Nhà nước. + Dịch vụ y tế không thể là hàng hoá công cộng thuần tuý mà chỉ gần gũi với hàng hoá công cộng thuần tuý ( vẫn tồn tại sự cạnh tranh nhưng rất hạn chế ) bởi đây là một yếu tố kích thích và tích luỹ cho thị trường dịch vụ y tế phát triển. Hơn nữa, đời sống con người ngày một nâng cao nên có thể trang trải một phần chi phí cho việc sử dụng các dịch vụ y tế, giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước. + Thị trường y tế phát triển kém hơn các thị trường khác do thiếu động cơ lợi nhuận là điều dễ hiểu nhưng cần phải duy trì thị trường này bởi tính đặc biệt của nó là chăm sóc sức khoẻ và liên quan trực tiếp đến tính 7 mạng con người. Khi thị trường các dịch vụ y tế bị thu hẹp thì sẽ tạo điều kiện cho kiểm soát và định hướng theo các mục tiêu của Nhà nước về quản lý nền kinh tế, xã hội dễ dàng hơn. Do có những điểm khác biệt so với các thị trường khác nên việc quản lý và định hướng phát triển thị trường các dịch vụ y tế phải được coi là một trong những chương trình, chiến lược quốc gia quan trọng nhất. Ngoài ra, cần phải hạn chế những tiêu cực do thông tin không tương xứng đối với người sử dụng các dịch vụ y tế được cung cấp trên thị trường, người sử dụng dịch vụ y tế không biết được chính xác thông tin về bác sĩ, về thuốc men, về bệnh viện... do không dễ gì có được trình độ chuyên môn phù hợp. · Sự nghiệp y tế đặt ra cho nền kinh tế nước ta Mục tiêu và bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta, một Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, phải coi y tế là một sự nghiệp chung cũng giống như sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta vậy. Chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân là một trong những công việc hết sức to lớn, quan trọng mang lợi ích chung và lâu dài cho toàn bộ xã hội. Với phương châm xây dựng một xã hội XHCN bền vững và phát triển toàn diện, coi trọng yếu tố quyết định là con người thì không thể đặt các hoạt động y tế ngoài sự nghiệp chung của toàn xã hội được. Do vậy, sự nghiệp y tế là yêu cầu tất yếu khách quan của chế độ xã hội ở nước ta và phải nhằm thực hiện những mục tiêu đem lại những kết quả về chăm sóc sức khoẻ nhân dân cao nhất. Phấn đấu để mọi người dân đều được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh, nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi. 8 Trong điều kiện hiện nay, khi chuyển cơ chế mới thì sự nghiệp y tế được xác định là loại hình sự nghiệp có thu tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên hay là loại hình sự nghiệp có thu tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, cụ thể được xác định như sau:(1) Trong đó: Tổng số thu sự nghiệp của đơn vị bao gồm: + Tiền thu phí, lệ phí thuộc Ngân sách Nhà nước ( phần được để lại đơn vị thu theo quy định): Mức thu phí, lệ phí, tỷ lệ nguồn thu được để lại đơn vị sử dụng và nội dung chi thực hiện theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với từng loại phí, lệ phí. + Thu từ hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ: Mức thu từ các hoạt động này do Thủ trưởng đơn vị quyết định, theo nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí và có tích luỹ. + Các khoản thu sự nghiệp khác theo quy định của pháp luật (nếu có). Tổng số chi hoạt động thường xuyên của đơn vị theo chức năng, nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao và chi cho các hoạt động có thu sự nghiệp, bao gồm: + Chi cho người lao động: chi tiền lương, tiền công; các khoản phụ cấp lương; các khoản trích bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn theo quy định... (1) ViÖc ph©n chia lo¹i h×nh sù nghiÖp cã thu ®­îc cô thÓ ho¸ trong NghÞ ®Þnh sè 10/N§-CP ngµy 16/01/2002 cña ChÝnh phñ vµ Th«ng t­ sè 25/2002/TT-BTC ngµy 21/03/2002 cña Bé tµi chÝnh. Mức tự đảm bảo chi phÝ hoạt động thường xuyên của đơn vÞ sự nghiệp [A](%) Tổng số nguồn thu sự nghiệp Tổng số chi hoạt động thường xuyên X100% 9 + Chi quản lý hành chính: vật tư văn phòng, dịch vụ công cộng, thông tin liên lạc, công tác phí, hội nghị phí... + Chi các hoạt động nghiệp vụ. + Chi hoạt động tổ chức thu phí, lệ phí. + Chi hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ ( kể cả chi nộp thuế, trích khấu hao tài sản cố định). + Chi mua sắm tài sản, sửa chữa thường xuyên cơ sở vật chất: nhà cửa, máy móc thiết bị... + Chi khác. + Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp đảm bảo được toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, ngân sách không phải cấp kinh phí bảo đảm hoạt động thường xuyên cho đơn vị ( đây là những đơn vị có tỷ lệ A lớn hơn hoặc bằng 100%). + Đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo một phần chi phí hoạt động thường xuyên: Là đơn vị có nguồn thu sự nghiệp chưa tự trang trải toàn bộ chi phí hoạt động thường xuyên, Ngân sách Nhà nước cấp một phần chi phí hoạt động thường xuyên cho đơn vị ( đây là những đơn vị có tỷ lệ A nhỏ hơn 100%). Theo đó, các đơn vị sự nghiệp y tế hiện nay được chủ động hơn trong hoạt động của mình khi áp dụng Nghị định 10/2002/NĐ-CP, phần nào giảm bớt đi gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước và thể hiện sự đổi mới trong quản lý các đơn vị sự nghiệp có thu nói chung cũng như sự nghiệp y tế nói riêng. 10 1.1.2. Nội dung quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở Sự nghiệp y tế đóng vai trò hết sức quan trọng trong khám chữa bệnh và thực hiện các chiến lược chăm sóc sức khoẻ ban đầu mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, cho nên phần lớn nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp y tế thuộc nguồn Ngân sách Nhà nước. Nguồn Ngân sách Nhà nước cấp cho các đơn vị hoạt động sự nghiệp y tế bao gồm:(1) 3Đối với cả hai loại đơn vị sự nghiệp có thu, đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí và đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí, thì nguồn Ngân sách Nhà nước cấp ( cả Ngân sách Trung ương và Ngân sách địa phương) là các khoản sau: + Chi phí thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, ngành; chương trình mục tiêu quốc gia và các nhiệm vụ đột xuất khác được cấp có thẩm quyền giao. + Kinh phí Nhà nước thanh toán cho đơn vị sự nghiệp theo chế độ đặt hàng để thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước giao, theo giá hoặc khung giá do Nhà nước quy định ( điều tra, quy hoạch, khảo sát ...). + Kinh phí cấp để thực hiện tinh giảm biên chế theo chế độ do Nhà nước quy định đối với số lao động trong biên chế dôi ra. + Vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động sự nghiệp theo dự án và kế hoạch hàng năm; vốn đối ứng cho các dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt. 3Riêng đối với đơn vị tự bảo đảm một phần chi phí, nguồn Ngân sách Nhà nước cấp kinh phí hoạt động thường xuyên. Mức kinh phí Ngân sách Nhà nước cấp được ổn định theo định kỳ 3 năm và hàng năm được (1) §­îc quy ®Þnh theo Th«ng t­ sè 25/2002/TT-BTC ngµy 21/03/2002 cña Bé tµi chÝnh 11 tăng thêm theo tỷ lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Hết thời hạn 3 năm, mức Ngân sách Nhà nước bảo đảm sẽ được xác định lại cho phù hợp. Ngoài nguồn từ Ngân sách Nhà nước, chi cho các hoạt động sự nghiệp y tế còn bao gồm các khoản khác như: nguồn thu sự nghiệp của các đơn vị ( đã nêu ở phần 1.2.1.) và các nguồn khác theo quy định ( các dự án viện trợ, quà biếu tặng...). · Nội dung các hoạt động trong sự nghiệp y tế tuyến cơ sở Sự nghiệp y tế tuyến cơ sở ( gồm y tế thôn, bản, xã, phường, quận, huyện, thị xã ) là tuyến y tế trực tiếp gần dân nhất, bảo đảm cho mọi người dân được chăm sóc sức khoẻ cơ bản với chi phí thấp, góp phần thực hiện công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, xây dựng nếp sống văn hoá, trật tự an toàn xã hội, tạo niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa. Do vậy, các hoạt động y tế cơ sở phải là toàn diện và nằm trong các hoạt động chủ yếu sau: + Các hoạt động khám chữa bệnh thông thường, sơ cứu bệnh nhân nặng và chăm sóc sức khoẻ ban đầu trên địa bàn quận, huyện, xã, phường là chủ yếu ( những trường hợp bệnh nhân nặng phải chuyển lớn tuyến trên). + Hoạt động trong khuôn khổ các chương trình quốc gia về y tế: các đơn vị sự nghiệp y tế tuyến cơ sở là các đơn vị trực tiếp triển khai các chương trình dưới sự chỉ đạo trực tiếp về nghiệp vụ của các sở y tế, bao gồm các mục tiêu sau: + Mục tiêu phòng chống bệnh sốt rét. + Mục tiêu phòng chống bệnh bướu cổ. + Mục tiêu tiêm chủng mở rộng. + Mục tiêu phòng chống lao. + Mục tiêu phòng chống bệnh phong. + Mục tiêu phòng chống bệnh sốt xuất huyết. 12 + Mục tiêu phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em. + Mục tiêu phòng chống HIV/AIDS. + Mục tiêu nâng cấp thiết bị y tế. Ngoài ra, tuyến y tế cơ sở còn đóng góp hoạt động của mình trong các nghiệp vụ sau: + Thường xuyên tổ chức kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm, xử lý và khắc phục nhanh chóng hậu quả của thảm họa, thiên tai, phòng chống tai nạn và thương tích, nhất là tai nạn giao thông, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hay xử lý các tác động gây ô nhiễm môi trường và tác động xấu đến sức khoẻ như chất thải bệnh viện, hoá chất bảo vệ thực vật... + Trực tiếp tiếp tham gia các đợt phòng dịch và ngăn chặn các bệnh dịch lây lan kịp thời như: dịch bệnh tiêu chảy, uốn ván, nhiễm khuẩn hô hấp cấp, thấp tim, giun sán... Tham gia triển khai chương trình sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình như truyền thông, tuyên truyền sinh đẻ có kế hoạch, chăm sóc sản khoa... + Tổ chức cai nghiện ma tuý và tuyên truyền tác hại của ma tuý sâu rộng trong mọi tầng lớp nhân dân. + Các hoạt động y tế khác. Các hoạt động sự nghiệp y tế ở tuyến cơ sở trực tiếp tác động đến đời sống nhân dân trên các địa bàn dân cư nên việc thực hiện quản lý các hoạt động này có ý nghĩa quan trọng bậc nhất và tạo cơ sở vững chắc của cả thực hiện các chủ trương chính sách về y tế của Nhà nước cũng như giảm bớt gánh nặng cho các tuyến y tế cấp trên. · Công tác quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở 13 Sự nghiệp y tế có tính chất quan trọng trong các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta đề ra, đặt dưới sự lãnh đạo của các cơ quan Hành chính sự ngiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước nên các đơn vị sự nghiệp hoạt động trong lĩnh vực y tế được xác định lấy nguồn từ Ngân sách Nhà nước đảm bảo cho hầu hết các hoạt động của mình. Do vậy, việc quản lý Ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp y tế là yêu cầu không thể thiếu trong điều kiện cần phát huy hơn nữa vai trò và hiệu quả của y tế trong đời sống kinh tế – xã hội. Để quản lý các khoản chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế cũng nảy sinh nhiều cách thức phân chia khác nhau nhưng một cách tổng quát có thể chia làm các nhóm chi chủ yếu sau: - Nhóm một: Các khoản chi thường xuyên. Chi thường xuyên là những khoản chi có tính định kỳ và thường xuyên trong toàn bộ hoạt động sự nghiệp. Trong nhóm chi thường xuyên lại bao gồm một số khoản cụ thể sau: + Chi cho con người: đây là các khoản chi chủ yếu phục vụ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên hoạt động trong lĩnh vực y tế cũng như quản lý về y tế như: chi tiền lương, tiền công, tiền thưởng, phụ cấp, các khoản đóng góp, phúc lợi tập thể và các khoản thanh toán khác cho cán bộ công nhân viên. + Chi cho các nghiệp vụ chuyên môn: là các khoản chi đặc thù cho lĩnh vực y tế như: mua sắm thuốc chữa bệnh, bơm kim tiêm, bông, băng, gạc, cồn, phim chụp X quang...; vật tư, trang thiết bị kỹ thuật chuyên dùng không phải là tài sản cố định và các khoản chi khác. + Chi cho quản lý hành chính: bao gồm các khoản chi phục vụ cho việc quản lý mọi hoạt động sự nghiệp y tế như: chi mua vật tư văn phòng, điện, nước, thuê bao điện thoại, chi hội nghị, tiếp khách, chi thuê mướn và các khoản chi khác có liên quan. 14 - Nhóm hai: Chi mua sắm, sửa chữa. Nhóm chi này bao gồm các khoản chi chủ yếu cho tài sản cố định: các chi phí sửa chữa tài sản cố định; mua sắm tài sản cố định; vận chuyển, lắp đặt tài sản cố định; chi phí thanh lý, nhượng bán tài sản cố định... Do tài sản cố định sử dụng trong lĩnh vực y tế có đặc thù riêng và thuộc về sự nghiệp của Nhà nước nên không được khấu hao để bù đắp tài sản cố định, không tránh khỏi việc sử dụng kém hiệu quả, lãng phí. - Nhóm ba: Chi khác. Đây là các khoản chi phát sinh không thường xuyên, đột xuất và không thuộc các khoản chi trên. Các khoản chi Ngân sách Nhà nước hiện nay được cấp phát theo một số hình thức sau: + Phương thức cấp phát theo hạn mức kinh phí: định kỳ cơ quan tài chính cấp phát hạn mức cho các đơn vị sự nghiệp, căn cứ vào hạn mức mà các đơn vị rút tiền từ Kho bạc để chi tiêu, hết hạn thời hạn của hạn mức mà hạn mức chi không hết sẽ bị xoá bỏ. Phương thức này chủ yếu được sử dụng trong cấp phát kinh phí chi thường xuyên. + Phương thức cấp phát theo lệnh chi: kinh phí sau khi cấp phát theo lệnh chi qua Kho bạc nhà nước quận, huyện tài khoản tiền gửi của các đơn vị sẽ được tăng thêm đúng bằng số ghi trong lệnh chi, sau khi hết niên độ kế toán mà đơn vị không chi hết số kinh phí đó thì số còn lại nằm trong số dư của tài khoản tiền gửi sẽ được chuyển sang năm sau. Phương thức này dùng cho các cơ quan, đơn vị không có quan hệ thường xuyên với Ngân sách Nhà nước hay các khoản chi đầu tư, mua sắm tài sản cố định của đơn vị sự nghiệp. + Phương thức cấp phát ủy quyền: phương thức này chủ yếu áp dụng cho quan hệ giữa Ngân sách Nhà nước Trung ương và Ngân sách Nhà nước địa phương, áp dụng phương thức này khi các đơn vị thực hiện các nhiệm vụ chi tiêu trên địa bàn do Ngân sách Nhà nước Trung ương đảm nhận; khi quyết toán thuộc về Ngân sách Nhà nước trung ương. 15 + Phương thức ghi thu- ghi chi: cho phép các đơn vị sự nghiệp sử dụng các khoản thu sự nghiệp để chi tiêu trực tiếp. + Phương thức cấp phát theo số lượng công trình hoàn thành: Phương thức này được áp dụng trong cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản, thường thì cơ quan tài chính tạm ứng theo công trình, sau khi công trình hoàn thành thì quyết toán số còn lại. Tuy nhiên, để thuận tiện cho việc quản lý và hạch toán Ngân sách Nhà nước chi cho sự nghiệp y tế thì các đơn vị sự nghiệp y tế phải quản lý danh mục các khoản chi theo chi tiết hệ thống Mục lục Ngân sách Nhà nước hiện hành. Trong rất nhiều các phương thức quản lý thì phương thức quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp y tế tuyến cơ sở chủ yếu hiện nay dựa vào phương thức quản lý theo dự toán cùng lúc của các đơn vị quản lý như: Phòng Tài chính – Vật giá quận, huyện; Kho bạc nhà nước qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnh128_7509.pdf