Đề tài Tăng cường quản lý chi ngân sách cho giáo duc đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội (từ thực tế quận Hoàng Mai

Cùng với sự đổi mới chung của đất nước và thực hiện chương trình tổng thể về cải cách hành chính nhà nước, trong những năm qua quản lý ngân sách nhà nước đã có những đổi mới, cải cách và đạt được những kết quả quan trọng, đặc biệt là từ khi Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 với mục tiêu và ý nghĩa quan trọng tZrong việc quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, phát triển kinh tế xã hội, tăng cường tiềm lực tài chính đất nước, quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng ngân sách nhà nước lành mạnh, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và tài sản nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội.

Sự nghiệp giáo dục của nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Giáo dục chính là nền tảng văn hoá, là cơ sở hình thành nhân cách, phẩm chất và thức của mỗi cá nhân trong xã hội. Nhân tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chính là con người, là nguồn nhân lực. Chình vì vậy phải đầu tư cho con người ngay từ khi con người được hình thành bào thai mẹ, các cấp tiểu học trung học cơ sở, đây chính là giai đoạn nền tảng quan trọng tao lap cho con người cả về chất và lượng để chuẩn bị lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất nước.

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH-HĐH trong những năm qua chi ngân sách cho hoạt động giáo dục nói chung, chi ngân sách cho giáo dục quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng đã không ngừng tăng lên theo từng năm đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển giáo dục của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên thực trạng hiện nay công tác quản lý chi ngân sách nhà nước của quận Hoàng Mai còn nhiều hạn chế đặc biệt là vấn đề chi ngân sách cho giáo dục, định mức phân bổ vẫn chưa thật sự gắn liền với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính của các trường tiểu học và THCS của quận Hoàng Mai còn hạn chế, các trường không thể tiết kiệm để tăng thêm thu nhập cho giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.

Xuất phát từ những yêu cầu, hạn chế nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Tăng cường quản lý chi ngân sách cho giáo duc đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội (từ thực tế quận Hoàng Mai”.

 

doc99 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1071 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tăng cường quản lý chi ngân sách cho giáo duc đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội (từ thực tế quận Hoàng Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Cùng với sự đổi mới chung của đất nước và thực hiện chương trình tổng thể về cải cách hành chính nhà nước, trong những năm qua quản lý ngân sách nhà nước đã có những đổi mới, cải cách và đạt được những kết quả quan trọng, đặc biệt là từ khi Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 16/12/2002, có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004 với mục tiêu và ý nghĩa quan trọng tZrong việc quản lý, điều hành ngân sách nhà nước, phát triển kinh tế xã hội, tăng cường tiềm lực tài chính đất nước, quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng ngân sách nhà nước lành mạnh, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và tài sản nhà nước, thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội. Sự nghiệp giáo dục của nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Giáo dục chính là nền tảng văn hoá, là cơ sở hình thành nhân cách, phẩm chất và thức của mỗi cá nhân trong xã hội. Nhân tố quyết định thắng lợi trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chính là con người, là nguồn nhân lực. Chình vì vậy phải đầu tư cho con người ngay từ khi con người được hình thành bào thai mẹ, các cấp tiểu học trung học cơ sở, đây chính là giai đoạn nền tảng quan trọng tao lap cho con người cả về chất và lượng để chuẩn bị lực lượng lao động đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của đất nước. Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của giáo dục trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội thời kỳ CNH-HĐH trong những năm qua chi ngân sách cho hoạt động giáo dục nói chung, chi ngân sách cho giáo dục quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội nói riêng đã không ngừng tăng lên theo từng năm đã góp phần quan trọng vào quá trình phát triển giáo dục của thành phố Hà Nội. Tuy nhiên thực trạng hiện nay công tác quản lý chi ngân sách nhà nước của quận Hoàng Mai còn nhiều hạn chế đặc biệt là vấn đề chi ngân sách cho giáo dục, định mức phân bổ vẫn chưa thật sự gắn liền với các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính của các trường tiểu học và THCS của quận Hoàng Mai còn hạn chế, các trường không thể tiết kiệm để tăng thêm thu nhập cho giáo viên và tăng cường cơ sở vật chất nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Xuất phát từ những yêu cầu, hạn chế nêu trên, tác giả chọn vấn đề “Tăng cường quản lý chi ngân sách cho giáo duc đào tạo trên địa bàn thành phố Hà Nội (từ thực tế quận Hoàng Mai”. 2. Tình hình nghiên cứu: Hiện đã có rất nhiều những đề tài đã nghiên cứu liên quan đến quản lý ngân sách đối với giáo dục như: - Đề tài “Hoàn thiện công tác quản lý tài chính đối với hoạt động giáo dục phổ thông trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi” (2006). Luận án thạc sỹ của Phạm Thị Minh Việt (2006). - Đề tài “Tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Hưng Yên, thực trạng và giải pháp” (2009). Luận án thạc sỹ kinh tế của Đặng Thị Hạnh. - Đề tài “ Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với các trường trung học phổ thông công lập ở tỉnh Ninh Bình” (2010) Luận án thạc sỹ kinh tế của Đỗ Thị Phương Thảo. … Nhưng tất các các đề tài trên chưa có đề tài nào nghiên cứu về tăng cường quản lý chi ngân sách cho giáo dục dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy đề tài vẫn có tính cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài Mục đích: Vận dụng lý luận về ngân sách nhà nước và quản lý ngân sách nhà nước, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo, tầm quan trọng của giáo dục nói chung đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó đi sâu phân tích, đánh giá thực trạng và hạn chế của cơ chế chi ngân sách đối với hoạt động giáo dục của quận Hoàng Mai trong những năm qua. Từ đó rút ra những nguyên nhân và đề xuất một số quan điểm, giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện công tác quản lý chi ngân sách cho hoạt động giáo dục trên địa bàn quận Hoàng Mai. Nhiệm vụ: + Khái quát lại những lý luận cơ bản về ngân sách, quản lý chi ngân sách và chi ngân sách cho giáo dục đào tạo. + Khảo sát, phân tích thực trạng quản lý chi ngân sách cho giáo dục trên địa bàn quận Hoàng Mai từ năm 2006-2010. + Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý chi ngân sách cho giáo dục đào tạo quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội trong thời gian tới. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến giáo dục, các nguồn tài chính đầu tư cho giáo dục, công tác quản lý sử dụng các nguồn tài chính đó trên địa bàn quận Hoàng Mai từ năm 2006-2010. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp thống kê - Phương pháp phân tích - Phương pháp tổng hợp so sánh - Phương pháp khái quát hoá vấn đề 6. Đóng góp về lý luận thực tiễn của đề tài Đề tài vận dụng lý luận về quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo để phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục tại quận Hoàng Mai. Từ đó đề ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý chi ngân sách cho giáo dục đào tạo tại quận Hoàng Mai trong thời gian tới. Với kết quả nghiên cứu đó, đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, điều hành quản lý chi ngân sách nói chung và chi ngân sách cho giáo dục đào tạo nói riêng, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn quận Hoàng Mai. 7. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được trình bày thành 3 chương. Chương 1: Lý luận chung về ngân sách nhà nước và sự cần thiết chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo. Chương 2: Thực trạng công tác chi và quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác chi và quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào đạo quận Hoàng Mai. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHÕ CHO QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH CẤP QUẬN, HUYỆN CHO GIÁO DỤC, ĐÀO TẠO 1.1. Những vấn đề cơ bản về cơ chế quản lý chi ngân sách cấp quận, huyện cho giáo dục, đào tạo 1.1.1. Những vấn đề chung về ngân sách nhà nước 1.1.1.1. Khái niệm về ngân sách nhà nước NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền với sự xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất hiện của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những nguồn lực tài chính để đáp ứng chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. NSNN là dự toán thu - chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Như vậy, NSNN là một kế hoạch tài chính cơ bản của quốc gia, trong đó gồm kế hoạch thu, kế hoạch chi và được lập theo phương pháp cân đối (thu phải đủ chi, chi không vượt thu). Theo Luật NSNN Việt Nam thì: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”. * Bản chất cua NSNN - Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi bằng tiền của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm. Đạo luật này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành. - Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà nước. Các quan hệ kinh tế này bao gồm: + Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. + Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các đơn vị HCSN. + Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư. + Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính. + Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các hoạt động tài chính đối ngoại. - Về tính chất: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu, chi của Nhà nước, là mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là các khoản cấp phát của Nhà nước cho các nhu cầu tiêu dùng và đầu tư phát triển, đó cũng là đóng góp theo nghĩa vụ hay tự nguyện của mỗi thành viên trong xã hội cho Nhà nước và Nhà nước cấp phát kinh phí đầu tư cho mỗi thành viên xã hội. Sơ đồ hệ thống ngân sách nhà nước Ngân sách địa phương Ngân sách cấp tỉnh Ngân sách Nhà nước Ngân sách huyện Ngân sách xã Ngân sách cấp huyện * Vai trò của NSNN với giáo dục đào tạo Giáo dục là hoạt động hết sức cần thiết đối với phát triển xã hội và tăng cường kinh tế. Không thể có một xã hội phát triển ở trình độ cao mà không có một nguồn lực phát triển cả về thể chất và trí tuệ. Sản phầm của giáo dục là con người, con người là yếu tố sản xuất hết sức quan trọng. Kỹ năng của con người có tác động đến năng suất lao động, trình độ quản lý và muốn hình thành kỹ năng thì phải có giáo dục. Đặc biệt là trong bối cảnh thế giới bước sang thời đại mới - thời đại trí tuệ và trong môi trường toàn cầu hóa, trong đó, các yếu tố tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng đầu và là nguồn tài nguyên giá trị nhất thì giáo dục trỏ thành đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế. Chính vì vậy, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, đầu tư hiệu quả nhất. Đầu tư tài chính giữ vai trò như một trong những yếu tố có tính chất quyết định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, đào tạo công nhân, trung học chuyên nghiệp, đại học đến đào tạo sau đại học. Thông qua quan hệ tín dụng, tài chính có thể huy động các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để đầu tư cho giáo dục trong việc nâng cấp trang thiết bị, đầu tư cho đội ngũ giáo viên và cho học sinh vay để tiếp tục sự nghiệp giáo dục. Trong số các nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục đào tạo thì đầu tư từ NSNN là tất yếu, đóng vai trò chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục bởi: - Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm một tỷ trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín dụng Nhà nước thì NSNN có tỷ trọng lớn nhất. NSNN đảm bảo nhu cầu tiêu dùng xã hội theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, trong đó nhu cầu giáo dục đào tạo đứng hàng đầu. Mặt khác, giáo dục đào tạo là dịch vụ công cộng, tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực - nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo điều kiện tài chính cần thiết để giải quyết vấn đề phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân ở tầm vĩ mô như về phát triển rộng khắp mạng lưới các cơ sở giáo dục, xây dựng các cơ sở giáo dục trọng điểm quốc gia, điều chỉnh quy mô và cơ cấu, nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục. Bởi vậy, NSNN là nguồn tài chính cơ bản, to lớn nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước - Thứ hai, đầu tư của NSNN có tác dụng hướng dẫn, huy động các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục đào tạo vì giáo dục là dịch vụ công cộng, tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển nguồn nhân lực – nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Đầu tư NSNN cho giáo dục như một cú huých ban đầu để khuyến khích nhân dân đóng góp xây dựng và sửa chữa trường lớp, thu hút các nguồn từ lao động sản xuất, từ hợp đồng NCKH của các trường, đóng góp của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo”, đồng thời là nguồn chính để phát huy nguồn viện trợ và vay của nước ngoài để đầu tư cho giáo dục đào tạo. Lợi ích của việc đầu tư vào giáo dục đem lại không chỉ cho những người trực tiếp được hưởng giáo dục mà còn cho cả xã hội nói chung. Tuy nhiên, trong thực tế các cá nhân hầu như không tính đến tác động này trong việc lựa chọn quyết định có nên đầu tư vào giáo dục hay không. Trong một số trường hợp, họ có thể không biết đến tác động ngoại ứng tích cực của giáo dục. Trong trường hợp khác, họ biết tác động đó song thiếu sự khuyến khích và tạo điều kiện của Nhà nước để đi đến quyết định đầu tư. Như vậy, nếu không có sự đầu tư từ NSNN để hỗ trợ và khuyến khích thì mức đầu tư của tư nhân cho sự phát triển giáo dục sẽ thấp hơn khả năng sẵn có. - Thứ ba, NSNN đầu tư cho giáo dục đào tạo sẽ đảm bảo từng bước ổn định đời sống của đội ngũ cán bộ giảng dạy. Tuy đời sống của giáo viên còn chưa cao nhưng NSNN đã đảm bảo tiền lương chính cho đội ngũ cán bộ giảng dạy toàn ngành. Ngoài ra còn dành một phần NSNN để ưu đãi riêng cho ngành giáo dục đào tạo như phụ cấp giảng dạy, phụ cấp thâm niên, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp dạy thêm giờ, thêm lớp… - Thứ tư, NSNN có vai trò điều phối cơ cấu giáo dục toàn ngành. Thông qua định mức chi ngân sách giáo dục đào tạo hàng năm đã góp phần định hướng sắp xếp cơ cấu các cấp học, mạng lưới trường. Tập trung NSNN cho những chương trình mục tiêu quốc gia như chống mù chữ, phổ cập giáo dục, xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú, khuyến khích phát triển giáo dục ở vùng núi và dân tộc ít người, tăng cường cơ sở vật chất các trường học… - Thứ năm, đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục. Ở các quốc gia không phải mọi công dân đều có khả năng chi trả các khoản chi phí trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc trực tiếp hưởng thụ giáo dục. Nếu giáo dục được cung cấp hoàn toàn theo cơ chế thị trường mà không có sự đầu tư từ NSNN thì bộ phận dân cư không có khả năng chi trả các khoản chi phí giáo dục sẽ không có cơ hội được học tập, từ đó dẫn đến mất công bằng xã hội trong giáo dục. Hơn nữa, công bằng xã hội trong giáo dục còn là điều kiện quan trọng để đạt đến công bằng xã hội nói chung. - Thứ sáu, đầu tư của Nhà nước cho giáo dục nhằm để khắc phục khiếm khuyết của thị trường vốn. Nghiên cứu kinh tế học giáo dục, các nhà kinh tế đều cho rằng, thị trường vốn cho việc đầu tư vào giáo dục là không hoàn hảo. Có nhiều rủi ro cho cả người vay và người cho vay khi đầu tư vào giáo dục. Hầu như không có cơ sở cho việc xác định khả năng chắc chắn có việc làm và có được mức thu nhập sau khi đã kết thúc khóa học để có thể trả được các khoản nợ vay cho việc học tập của các cá nhân. Do vậy, các chủ thể cho vay vốn không dễ dàng chấp nhận bỏ vốn để cho vay đầu tư vào việc học tập của các cá nhân. Khắc phục khiếm khuyết của thị trường vốn cần thiết phải có sự can thiệp và đầu tư của Nhà nước cho giáo dục. Tóm lại, đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nguồn lực tài chính để phát triển giáo dục chủ yếu là từ nguồn NSNN. NSNN đóng vai trò quan trọng, là yếu tố chính quyết định đối với sự nghiệp giáo dục quốc dân. 1.1.2. Cơ chế quản lý chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo 1.1.2.1. Nội dung chi ngân sách nhà nước cho giáo dục * Nội dung chi NSNN cho giáo dục và đào tạo: Nội dung chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo gắn liên với cơ cấu, nhiệm vụ của ngành trong mỗi giai đoạn lịch sử và được xem xét ở các giác độ khác nhau. Căn cứ vào cơ cấu tổ chức của ngành giáo dục đào tạo có thể hiện nội dung chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo gồm: - Chi ngân sách cho hệ thống các trường học có: + Chi ngân sách cho hệ thống các trường mầm non và các trường phổ thông + Chi ngân sách cho các trường đại học, các học viện, các trường cao đẳng, các trường trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. + Chi cho các trường Đảng, đoàn thể - Chi ngân sách cho các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo như: Bộ giáo dục đào tạo, Sở giáo dục, phòng giáo dục.... Theo cách phân loại chi NSNN theo yếu tố và phương thức quản lý các khoản chi cho giáo dục bao gồm: - Chi thường xuyên - Chi xây dựng cơ bản Đối với các khoản chi thường xuyên căn cứ vào đối tượng của việc sử dụng kinh phí NSNN có thể chia thành 4 nhóm mục chi sau: + Các khoản chi cho con người: Chi lương, các khoản phụ cấp theo lương, chi bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn, chi phúc lợi tập thể cho giáo viên, cán bộ nhân viên, chi học bổng và trợ cấp cho học sinh sinh viên, tiền công.... + Chi về quản lý hành chính, chi về công tác phí, công vụ phí, điện nước, xăng xe, văn phòng phẩm, chi hội nghị về công tác quản lý. + Chi cho hoạt động chuyên môn: Chi mua tài liệu, đồ dùng giảng dạy và học tập chi hội thảo, hội giảng, chi cho các lớp bồi dưỡng học sinh bồi dưỡng chuyên môn, các hoạt động chuyên đề về chuyên môn. +. Chi mua sắm, sửa chữa, xây dựng nhỏ phục vụ cho hoạt động chuyên môn như: Mua sắm bàn ghế, bảng và các trang thiết bị khác, sửa chữa nhỏ trong trường... Ngoài ra ngân sách Nhà nước còn chi tiêu cho các đơn vị thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục như chương trình phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ, chương trình tăng cường cơ sở vật chất trường học, chương trình công nghệ giáo dục... Hầu hết các chi khoản chi trên là những khoản chi phát sinh thường xuyên, tương đối ổn định và có thể định mức được. Do vậy trong công tác quản lý các khoản chi này phải lấy định mức làm cơ sở, riêng các khoản mua sắm sửa chữa nhỏ không phát sinh thường xuyên nên phải căn cứ vào thực trạng nhà cửa trang thiết bị, chế độ chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ và đặc biệt là khả năng nguồn vốn của NSNN để cấp phát và chi tiêu. Đối với chi đầu tư XDCB tập trung, tuỳ theo yêu cầu quản lý nội dung chi đầu tư XDCB được phân loại theo những tiêu thức khác nhau. Xét theo hình thức tái sản xuất TSCĐ, chi đầu tư XDCB cho giáo dục đào tạo được phân thành: - Chi đầu tư xây dựng mới các TSCĐ phục vụ cho giáo dục đào tạo như các trường học, thư viện, phòng thí nghiệm… - Chi cải tạo, nâng cấp mở rộng các TSCĐ hiện có nhằm tăng thêm công suất và hiện đại hoá TSCĐ như nâng cấp trường học, thư viện, xây thêm các lớp học… * Các nhân tố ảnh hưởng tới các khoản chi NSNN cho giáo dục và đào tạo: - Tổng sản phẩm quốc nội và phương thức phân phối tổng sản phẩm quốc nội: Tổng sản phẩm quốc nôị (GDP) là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh giá trị sản phẩm mới mà nền kinh tế sáng tạo ra trong 1 năm. Tổng sản phẩm quốc nội có ảnh hưởng tới số chi ngân sách cho Giáo dục - Đào tạo bởi vì: Thứ nhất: Tổng sản phẩm quốc nội cao, chứng tỏ một nền sản xuất có hiệu quả khi đó thu nhập trong dân lớn, thu nhập bình quân đầu người tăng lên, cuộc sống vật chất của nhân dân khá giả lúc đó người dân mới có điều kiện cho con cái ăn học, đóng góp kinh phí cho nhà trường; các công ty, xí nghiệp làm ăn phát đạt dễ làm việc tài trợ cho giáo dục - đào tạo. Tổng sản phẩm quốc nội cao sẽ làm giàu các nguồn tài chính khác, làm ảnh hưởng tới số chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo. Thứ hai: Theo chế độ tài chính hiện hành, Nhà nước sẽ tham gia vào quá trình phân phối lần đầu và phân phối lại tổng sản phẩm quốc nội để tạo nguồn thu cho NSNN. Nhà nước động viên một phần tổng sản phẩm quốc nội vào tay mình làm cơ sơ vật chất cho quá trình chi tiêu. Thông thưòng tỷ lệ điều tiết của Nhà nước có tính ổn định trong một thời gian dài cho nên khi tổng sản phẩm quốc nội tăng sẽ làm tăng số thu NSNN, tạo cơ sở cho việc tăng chi ngân sách cho Giáo dục - Đào tạo, số chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo không những chịu ảnh hưởng của tổng sản phẩm quốc nội mà còn chịu ảnh hưởng của phương thức phân phối tổng sản phẩm quốc nội: Nếu phương thức phân phối xác định tỷ lệ lớn, số chi ngân sách Nhà nước cho Giáo dục - Đào tạo thì Giáo dục - Đào tạo sẽ phát triển mạnh nhưng hạn chế khả năng chi cho các ngành khác và cho tích luỹ. Nếu phương thức phân phối xác định tăng nhiều cho các ngành khác mà giảm nhẹ khoản chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo sẽ làm giảm chất lượng Giáo dục - Đào tạo. - Tốc độ phát triển dân số, số lượng và cơ cấu dân số: Tốc độ dân số tăng lên, dân số lớn sẽ làm giảm thu nhập quốc dân bình quân đầu người, giảm thu nhập bình quân của mỗi gia đình. Do đó, các gia đình khó có điều kiện cho con đi học, nguồn kinh phí đầu tư từ gia đình cũng giảm, gây ảnh hưởng tới số chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo. Trong trường hợp tốc độ tăng dân số nhỏ hơn tốc độ tăng sản phẩm quốc nội, nghĩa là thu nhập bình quân đầu người tăng lên sẽ làm tăng nhu cầu đào tạo, chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo sẽ tăng lên. Muốn đảm bảo cho Giáo dục - đào tạo phát triển được thì tốc độ tăng chi cho Giáo dục - Đào tạo phải lớn hơn tốc độ gia tăng của học sinh đào tạo. Trong điều kiện nước ta hiện nay, nhu cầu đào tạo đã thực sự biến đổi tỷ lệ thuận với dân số. Ngân sách Nhà nước khó có thể đáp ứng được chu toàn. Trước tình cảnh đó việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình ngoài ý nghĩa giải quyết các vấn đề xã hội còn có tác dụng giảm nhẹ nhu cầu chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo. - Thực trạng trang thiết bị, phương tiện phục vụ cho Giáo dục - Đào tạo. Nhân tố này có ảnh hưởng đến các khoản chi có tính chất không thường xuyên của NSNN cho Giáo dục - Đào tạo như khoản chi sửa chữa, mua sắm máy móc, thiết bị cho hoạt động giảng dạy, khoản chi này không có định mức quản lý và được xác định tuỳ thuộc vào thực trạng của nhà trường. - Phạm vi, mức độ các khoản dịch vụ không phải trả tiền do Nhà nước cung cấp cho học sinh: Thực chất của nhân tố này nói đến phạm vi, mức độ các khoản được Nhà nước bao cấp phục vụ, trước khi với cơ chế quản lý quan liêu bao cấp hầu hết mọi nhu cầu học hành, sinh hoạt của học sinh đều được Nhà nước bao cấp, do vậy số chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo rất cao. Ngày nay khi nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, phạm vi bao cấp của Nhà nước giảm, Nhà nước chỉ đảm bảo kinh phí để duy trì sự đảm bảo của nhà trường, phần còn lại phải huy động qua chính sách thu học phí của học sinh. Do vậy, số chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo đã giảm nhẹ mà chỉ mang tính chất định hướng quản lý vĩ mô GD - ĐT. Trên đây là 4 nhân tố có tác động lớn tới số chi NSNN cho giáo dục và đào tạo xuất phát từ tình hình kinh tế xã hội mang lại. Tuy nhiên, từ phần mình Giáo dục và đào tạo cũng tạo nên nhân tố ảnh hưởng tới số chi NSNN cho Giáo dục. - Mạng lưới tổ chức hoạt động sự nghiệp Giáo dục - đào tạo: Mạng lưới tổ chức hoạt động Giáo dục Đào tạo là hệ thống các trường đào tạo, cơ cấu tổ chức cán bộ quản lý, giáo viên giảng dạy. Nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp tới khoản chi lương, phụ cấp lương, phúc lợi tập thể cũng như chi phí quản lý hành chính. Tính hợp lý hay không hợp lý trong việc tổ chức mạng lưới giáo dục và đào tạo sẽ tác động mạnh tới số chi, một mạng lưới giáo dục vừa gọn nhẹ vừa đủ, bố trí trường lớp hợp lý đảm bảo được chất lượng công tác quản lý, giảng dạy thì phần nào sẽ giảm chi cho NSNN và ngược lại trường lớp bố trí không hợp lý, bộ máy quản lý hành chính cồng kềnh, biên chế giáo viên giảng dạy quá nhiều, không xếp đủ số giờ, số tiết tiêu chuẩn cho họ theo quy định của Nhà nước thì chi NSNN sẽ tăng lên, hiệu quả sử dụng NSNN sẽ giảm xuống. Với ảnh hưởng của nhân tố này theo quan điểm về lâu dài là từng bước hợp lý hoá mạng lưới tổ chức, tinh giảm gọn nhẹ biên chế, nâng cao chất lượng giảng dạy, phục vụ, từng bước cải cách hành chính trong hệ thống Giáo dục - Đào tạo. Ngành Tài chính cần có biện pháp xác định quản lý số chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo để khoản chi đó có tác dụng tích cực tới tổ chức mạng lưới Giáo dục - Đào tạo. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới số chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo giúp chúng ta có cơ sở phân tích tính hợp lý về nội dung và mức độ chi NSNN cho Giáo dục - đào tạo ở các năm, giải thích được sự khác nhau của nó ở các giai đoạn lịch sử, đồng thời từ những biến đổi của các hiện tượng kinh tế xã hội mà thấy được sự cần thiết phải thay nội dung, mức độ chi cho phù hợp. Khi ấy các nhân tố ảnh hưởng đã thực sự trở thành các cơ sở khoa học để xác định số chi NSNN cho Giáo dục - Đào tạo. Ngoài ra trong công tác quản lý tài chính cũng thấy được sự ảnh hưởng của các nhân tố đó mà áp dụng các biện pháp quản lý thích hợp trong từng thời kỳ. * Nội dung công tác quản lý chi ngân sách cho giáo dục đào tạo Chi ngân sách Nhà nước nói chung và cho lĩnh vực đào tạo nói riêng có nội dung hết sức phong phú và phức tạp. Nó được tiến hành cho nhiều đối tượng và bao gồm nhiều khoản chi có tính chất, đặc điểm khác nhau. Vì vậy, muốn phát huy được hiệu quả các khoản chi đảm bảo tiết kiệm cho Ngân sách Nhà nước cần phải thực hiện tốt các nội dung quản lý chi ngân sách cho giáo dục - đào tạo. Thực chất quản lý chi ngân sách cho giáo dục đào tạo là các hoạt động và tổ chức các hoạt động phân phối NSNN, kiểm tra giám sát việc phân phối và sử dụng NSNN cho giáo dục - đào tạo theo đúng quy định của pháp luật. Nội dung quản lý chi ngân sách giáo dục đào tạo gồm: + Quản lý định mức chi: Trong quản lý các khoản chi thường xuyên cho NSNN, nhất thiết phải có định mức cho từng nhóm mục chi hay cho mỗi đối tượng cụ thể. Nhờ đó mà các ngành các cấp các đơn vị mới có căn cứ pháp lý để triển khai các công việc cụ thể thuộc quá trình quản lý chi thường xuyên của NSNN. Định mức chi là cơ sở quan trọng để lập dự toán chi, cấp phát và quyết toán các khoản chi, đồng thời là chuẩn mực để phân bổ và kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước. Định mức chi phải đảm bảo được các yêu cầu sau: Thứ nhất: Các định mức chi phải được xây dựng một cách khoa học, từ việc phân loại đối tượng đến trìn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc112645.doc
Tài liệu liên quan