Chúng ta đã biết Việt Nam đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, và đang trên con đường phát triển kinh tế theo xu hướng công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên nông nghiệp vẫn là một trong những ngành nghề quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam vì vậy việc kết hợp phát triển sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Thời gian qua, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có những bước tiến lớn như mở rộng thị trường ra khoảng 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Âu, các nước ASEAN. Trong đó, Hoa Kỳ là một thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng đầy thách thức đối với nước ta. Hoạt động xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ trong những năm gần đây đã có những thành tựu nhất định như sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu cũng như về chủng loại sản phẩm. Có được những thành tựu đó một phần là nhờ tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (Bilateral Trade Agreement, viết tắt là BTA) được ký giữa Chính phủ hai nước vào ngày 13 tháng 7 năm 2000. Tuy nhiên, bên cạnh các tác động tích cực thì Hiệp định cũng có những rào cản nhất định đối với hoạt động xuất khẩu hàng nông sản. Do đó, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tới hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ” để có thể đánh giá cụ thể hơn các tác động tích cực và tiêu cực của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và đưa ra những yếu tố thuận lợi cũng như khó khăn đối với việc phát triển sản xuất, xuất khẩu nông sản của Việt Nam nói chung cũng như xuất khẩu nông sản sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
61 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1165 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tới hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1.1. Thuế suất MFN của Hoa Kỳ đối với một số nông sản nhập khẩu 8
Bảng 1.2. Biểu thuế MFN và non-MFN của một số sản phẩm Nông sản và mức chênh lệch giữa hai biểu thuế 16
Biểu đồ 1.1. Kim ngạch xuất khẩu rau quả giai đoạn 1996 - 2000 18
Bảng 1.3. Kim ngạch xuất khẩu nông sản giai đoạn 1996 - 2000 19
Bảng 1.4. Kim ngạch xuất khẩu nông sản trong giai đoạn 2001 - 2008 21
Bảng 1.5. Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 1996-2000 28
Bảng 1.6. Kim ngạch xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ giai đoạn 2000-2009 33
Biểu đồ 1.2. Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu vào Hoa Kỳ giai đoạn 2001-2009 35
LỜI MỞ ĐẦU
Tính tất yếu của đề tài
Chúng ta đã biết Việt Nam đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, và đang trên con đường phát triển kinh tế theo xu hướng công nghiệp hóa hướng vào xuất khẩu. Tuy nhiên nông nghiệp vẫn là một trong những ngành nghề quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam vì vậy việc kết hợp phát triển sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Thời gian qua, hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có những bước tiến lớn như mở rộng thị trường ra khoảng 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Âu, các nước ASEAN.... Trong đó, Hoa Kỳ là một thị trường đầy tiềm năng nhưng cũng đầy thách thức đối với nước ta. Hoạt động xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ trong những năm gần đây đã có những thành tựu nhất định như sự tăng trưởng về kim ngạch xuất khẩu cũng như về chủng loại sản phẩm. Có được những thành tựu đó một phần là nhờ tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (Bilateral Trade Agreement, viết tắt là BTA) được ký giữa Chính phủ hai nước vào ngày 13 tháng 7 năm 2000. Tuy nhiên, bên cạnh các tác động tích cực thì Hiệp định cũng có những rào cản nhất định đối với hoạt động xuất khẩu hàng nông sản. Do đó, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ tới hoạt động xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ” để có thể đánh giá cụ thể hơn các tác động tích cực và tiêu cực của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và đưa ra những yếu tố thuận lợi cũng như khó khăn đối với việc phát triển sản xuất, xuất khẩu nông sản của Việt Nam nói chung cũng như xuất khẩu nông sản sang thị trường Hoa Kỳ nói riêng, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài này được nghiên cứu với mục đích giúp cho người đọc thấy được tác động của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) tới hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm và một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vào thị trường thế giới nói chung và thị trường Hoa Kỳ nói riêng. Đề tài cũng đưa ra một số các rào cản của Hoa Kỳ về nhập khẩu nông sản để các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản có thể có sự chuẩn bị tốt hơn trước khi xuất khẩu nông sản sang Hoa Kỳ.
Phương pháp nghiên cứu đề tài
Bài viết dựa vào các cơ sở lý luận và thực tiễn, thu thập số liệu thực tế, phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với các kiến thức chung về kinh tế học và kiến thức chuyên ngành về kinh tế quốc tế.
Kết cấu của đề tài
Đề tài được chia làm 2 phần:
1. Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và ảnh hưởng của nó tới hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
2. Giải pháp tận dụng Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ để thúc đẩy xuất khẩu nông sản sang thị trường Hoa Kỳ.
CHƯƠNG 1
HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - HOA KỲ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ TỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ
1.1. Khái quát về thị trường nông sản Hoa Kỳ
1.1.1 Những đặc điểm cơ bản của thị trường nông sản Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là quốc gia có điều kiện để phát triển sản xuất các sản phẩm nông nghiệp như diện tích rộng lớn, khí hậu ôn hòa và khoa học kỹ thuật tiến bộ, do đó Hoa Kỳ đứng đầu thế giới về xuất khẩu các sản phẩm ngô, đậu nành, thịt bò...Tuy nhiên, Hoa Kỳ cũng là một trong những nước nhập khẩu nông sản lớn nhất thế giới, trong đó Hoa Kỳ nhập khẩu chủ yếu các mặt hàng như gạo, rau quả, cà phê, thịt gia súc, ngũ cốc,...
Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đông dân nhất thế giới với thu nhập GDP hàng năm thường đứng vị trí số một thế giới. Có thể nói Hoa Kỳ là một thị trường tiềm năng đối với tất các các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nhưng để thâm nhập được thị trường Hoa Kỳ không phải là đơn giản bởi bên cạnh việc thị trường Hoa Kỳ là một thị trường khổng lồ, có sức mua lớn và có tính mở cửa khá cao thì thị trường Hoa Kỳ lại có các quy định pháp luật chặt chẽ và yêu cầu về chất lượng, nhãn hiệu, kỹ thuật... khá khắt khe do tính chất bảo hộ cho nền nông nghiệp trong nước của chính sách thương mại quốc tế. Hơn nữa, thị trường Hoa Kỳ lại có môi trường pháp lý hết sức phức tạp do Hoa Kỳ là một nước Liên bang nên pháp luật giữa các Bang và Liên bang lại có sự khác biệt. Do đó muốn xuất khẩu hàng hóa nói chung, hàng nông sản nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ thì phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng như nắm vững hệ thống các quy định, tiêu chuẩn của Hoa Kỳ, nghiên cứu thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng,...
Thêm một đặc điểm nữa là thị trường Hoa Kỳ về cơ bản được “phân chia” bởi hệ thống các tập đoàn lớn xuất nhập khẩu, bán buôn và vô số công ty nhỏ, cửa hàng bán lẻ. Đại đa số hàng tiêu dùng tại Hoa Kỳ thường được các tập đoàn Hoa Kỳ đặt mẫu mã cho nước ngoài rồi nhập khẩu vào thị trường nội địa. Bởi vậy, để có đối tác ở Hoa Kỳ, ngoài việc đi chợ trên mạng internet thì doanh nghiệp các nước còn phải tham gia các hội chợ về hàng nông sản tại Hoa Kỳ, thử nghiệm sức cạnh tranh của mình ngay tại chỗ và qua đó tiếp xúc trực tiếp đối tác để lập quan hệ.
1.1.2. Quy định của Hoa Kỳ về nhập khẩu nông sản
1.1.2.1. Quy định về thông tin hàng hóa
Hoa Kỳ là một quốc gia có rất nhiều quy định nghiêm ngặt, tiêu chuẩn khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt là đối với các mặt hàng lương thực, thực phẩm. Do đó, các sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ phải được kiểm tra chặt chẽ và tuân thủ đầy đủ các yêu cầu về chất lượng mà Hoa Kỳ đưa ra. Các nhà xuất khẩu nông sản muốn đưa sản phẩm của mình vào thị trường Hoa Kỳ cần đảm bảo cung cấp cho Cơ quan giám định thực động vật Hoa Kỳ (Animal and Plant Health Inspection Service viết tắt là APHIS) các thông tin như sau:
Tên khoa học: Ở các nước khác nhau thường sử dụng các tên gọi khác nhau cho cùng một loại cây, do đó, APHIS cần phải dựa vào tên khoa học để xác định nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm. Tên khoa học gồm có tên loài, chủng loại.
Mô tả các bộ phận của hàng sẽ giao: Để tránh việc lây lan sâu bệnh do các phần khác nhau của cây có thể nhiễm các loại sâu bệnh khác nhau thì nhà xuất khẩu cần nêu rõ các bộ phận của sản phẩm như gốc, thân, ống, quả, hạt, lá, cuống...
Tên nước trồng, nước giao hàng loại sản phẩm nhập khẩu: Mỗi nước có thể có những loại sâu bệnh khác nhau nên hàng hóa có thể bị nhiễm sâu bệnh khi đi qua các nước khác nhau vì vậy cần cung cấp tên các nước trồng sản phẩm và nước giao hàng để kiểm soát được tình trạng sâu bệnh của sản phẩm.
Địa phương canh tác: Sản phẩm sẽ được chấp nhận khi canh tác tại khu vực không có sâu bệnh.
Tên, địa chỉ công ty, tổ chức trồng loại cây nhập khẩu: APHIS muốn sơ bộ chấp nhận lô hàng thông qua sự tín nhiệm một tổ chức hơn là sự tín nhiệm từng cá nhân.
Dự kiến tổng trọng lượng hàng sẽ giao, số lượng chuyến hàng sẽ giao sang Hoa Kỳ
Dự kiến thời gian thu hoạch và giao hàng.
Dự kiến cảng nhập, khu vực phân phối, tiêu thụ tại Hoa Kỳ
Phương thức vận chuyển.
Mô tả các đóng gói, bao bì, loại container được sử dụng trong vận chuyển hàng hóa sang Hoa Kỳ: Việc đóng gói phải đảm bảo dễ làm giấy giám định, một số loại bao bì và container phải được khử trùng trước khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ.
Sau khi nhận được các thông tin trên và các thông tin về sâu bệnh gắn với sản phẩm do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam cung cấp, APHIS sẽ tiến hành xem xét sản phẩm. Nếu sản phẩm được APHIS chấp nhận về mặt kỹ thuât, họ sẽ cho đăng ký sản phẩm liên bang (Federal Register Proptal) và cấp giấy phép nhập khẩu.
1.1.2.2. Hàng rào thuế quan áp dụng cho hàng nông sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ
Một trong các đặc điểm nổi bật của chính sách thương mại quốc tế của Hoa Kỳ là tính bảo hộ, trong đó thuế quan là một công cụ hết sức cần thiếu để bảo hộ nền sản xuất nói chung và nền sản xuất nông nghiệp nói riêng. Biểu thuế điều hòa và mô tả mã hóa hàng hóa HS (Harmony System) trong đó các mặt hàng nông sản bao gồm gần 300 dòng thuế. Tuy nhiên, một tỷ lệ khá lớn số dòng thuế được Hoa Kỳ quy định dưới hình thức thuế đặc định và thuế kết hợp trong khi việc việc quy định đối với những dòng thuế đặc định và thuế kết hợp sang thuế theo giá tương đương là không dễ dàng, nhờ đó đã che dấu được mức độ bảo hộ thuế quan của Hoa Kỳ. Bên cạnh đó, Hoa Kỳ cũng là quốc gia tham gia tích cực vào quá trình tự do hóa thương mại của thế giới nên Hoa Kỳ có nhiều ưu đãi về thuế quan theo các thỏa thuận của hiệp định kinh tế song phương và đa phương. Các thỏa thuận này đã nới lỏng hàng rào thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu nói chung và có sự ưu đãi lớn đối với hàng nông sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Cơ sở pháp lý để thực hiện công cụ thuế quan của Hoa Kỳ là dựa trên cơ sở các đạo luật về thuế quan, luật chống bán phá giá, luật về các biện pháp tự vệ trong thương mại, luật thuế đối kháng. Hiện nay thì biểu thuế quan của Hoa Kỳ được trình bày theo hai cột:
Cột một là thuế quan tối huệ quốc MFN (Most Favoured Nation) được áp dụng với hai nhóm nước là những nước đã có chế độ tối huệ quốc với Hoa Kỳ và những nước được hưởng chế độ ưu đãi đặc biệt, bao gồm các nước đang phát triển và chậm phát triển được hưởng ưu đãi thuế quan GSP và các nước được hưởng chế độ đãi ngộ đặc biệt trong quan hệ thương mại với Hoa Kỳ như các nước thuộc vùng biển Caribbean, Israel và một số nước đồng minh khác. Mức thuế MFN trung bình với hàng nông sản là gần 10% cao hơn hẳn so với mặt hàng phi công nghiệp chỉ là 5,7%, như vậy có thể thấy đối với sản phẩm nông nghiệp thì Hoa Kỳ có sự bảo hộ rất cao. Tuy nhiên, nếu so sánh thì thuế MFN đã thấp hơn hẳn so với non-MFN bởi vậy việc Việt Nam được hưởng thuế MFN sau khi ký kết Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ đã tạo điều kiện cho hàng nông sản Việt Nam thâm nhập thị trường Hoa Kỳ một cách dễ dàng hơn. Dưới đây là bảng thuế MFN đối với một số sản phẩm nông sản nhập khẩu vào Hoa Kỳ:
Bảng 1.1. Thuế suất MFN của Hoa Kỳ đối với một số nông sản nhập khẩu
STT
Mặt hàng
Thuế suất MFN (%)
1
Gạo
17
2
Hạt ngũ cốc
0,6
3
Rau, quả, hạt
5,4
4
Hạt có dầu
8,3
5
Thịt gia súc
3,4
6
Dầu thực vật
3,7
7
Cà phê
0
8
Sợi có nguồn gốc thực vật
0,3
9
Điều
0
10
Lúa
5,8
11
Chè
0
12
Quế
0
(Nguồn: Tổng cục Hải quan Hoa Kỳ)
Cột hai là cột thuế quan không tối huệ quốc non-MFN: được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu từ các nước chưa có quan hệ thương mại bình thường với Hoa Kỳ.
Ngoài ra, Hoa Kỳ còn áp dụng biện pháp hạn ngạch thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu: Đây là biện pháp cho phép hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ trong hạn ngạch thì sẽ được hưởng một mức thuế giảm bớt trong một khoảng thời gian nhất định, nếu lượng nhập khẩu vào Hoa Kỳ vượt quá hạn ngạch cho phép thì lượng vượt quá sẽ phảo chịu mức thuế cao hơn. Hoa Kỳ áp dụng biện pháp này cho thịt bò, các sản phẩm từ sữa, lạc, đường,.... Với các hàng hóa nhập khẩu vào Hoa Kỳ theo hạn ngạch thuế quan sẽ được hưởng mức thuế khoảng 9,5% còn các hàng hóa ngoài hạn ngạch sẽ chịu mức thuế khoảng 55,8% cao hơn rất nhiều so với mức thuế trong hạn ngạch.. Tuy nhiên, trên 90% mức thuế ngoài hạn ngạch và 28% mức thuế trong hạn ngạch không tính theo phần trăm. Hơn nữa, mức hạn ngạch lại được áp dụng khác nhau giữa các năm và tùy vào mặt hàng nhập khẩu. Tuy Hoa Kỳ phải thực hiện các cam kết về tự do hóa thương mại, mở cửa thị trường, hạn ngạch của Hoa Kỳ tăng dần qua các năm nhưng công cụ bảo hộ chính của Hoa Kỳ hiện nay vẫn là hạn ngạch thuế quan.
1.1.2.3. Hàng rào phi thuế quan áp đối với nông sản
Theo kết quả của vòng đàm phán Urugoay thì các nước cam kết phải thuế hóa các biện pháp phi thuế khác. Vì thế chỉ còn rất ít các mặt hàng nông sản chịu sự kiểm soát về hạn ngạch khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Trong đó, hạn ngạch tuyệt đối được áp dụng với các mặt hàng: Cồn ethyl; sữa và kem đặc và khô; các chất thay thế bơ (có trên 45% bơ); thức ăn động vật có sữa hoặc chất dẫn xuất từ sữa; bơ tổng hợp có trên 5,5% nhưng không quá 45% thành phần là bơ; các loại kẹo bọc sôcôla và các kẹo tương tự có trên 5,5% trọng lượng là bơ; sữa khô có tối đa 5,5% là bơ; lạc bóc hoặc chưa bóc, tẩy trắng hoặc đã được gia công hay bảo quản (trừ bơ lạc); một số loại pho mát cứng; một số loại đường trộn,...(Theo: Tạp chí Thương mại số 27/2005).
1.1.2.4. Những nông sản không được nhập khẩu vào Hoa Kỳ
Đối với các mặt hàng nông sản như cà chua, bưởi, tiêu, nho khô, cam, hành, chà là, mận, táo, kiwi, dưa chuột,... nếu không đáp ứng các yêu cầu về kích cỡ, chất lượng, cấp loại sẽ bị cấm nhập khẩu theo điều khoản 8e của Luât điều chỉnh Nông nghiệp Hoa Kỳ. Các yêu cầu này dựa trên tiêu chuẩn sản phẩm mà Hoa Kỳ sản xuất, đáp ứng theo nhu cầu tại Hoa Kỳ.
1.1.2.5. Các quy định của Hoa Kỳ về tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ đối với hàng nông sản nhập khẩu
Các quy định này chịu sự kiểm soái của các Cơ quan: Cục thực phẩm và dược phẩm (Food and Drug Administration viết tắt là FDA) và Cục vệ sinh dịch tễ Hoa Kỳ thuộc Bộ Y tế và Dịch vụ nhân đạo Hoa Kỳ, Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ với các cơ quan: Cục dịch vụ nông nghiệp nước ngoài quy định về vệ sinh dịch tễ hàng nông sản, Cục quản lý kiểm định đóng gói và lưu kho hạt ngũ cốc (Grain Inspection, Packers and Stockyards Administration, viết tắt là GIPSA), Cục kiểm định hạt Liên bang (Federal Grain Inspection Service viết tắt là FGIS), Cục tiếp thị nông sản (Agricultural Marketing Service viết tắt là AMS), Cơ quan Bảo vệ môi trường (Environmental Protection Agency viết tắt là EPA) chịu trách nhiệm đưa ra các quy đinh về tiêu chuẩn thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ, diệt nấm. Cơ sở pháp lý của các quy định này là dựa trên Luật Nông nghiệp của Hoa Kỳ và Luật thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm của Hoa Kỳ.
Luật Nông nghiệp của Hoa Kỳ quy định trực tiếp đối với các sản phẩm nông sản các tiêu chuẩn về quy trình sản xuất, về chất lượng sản phẩm, về nhãn mác để đảm bảo sự an toàn cho người sử dụng.
Luật thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm của Hoa Kỳ quy định cụ thể các tiêu chuẩn đối với nhóm các sản phẩm thực phẩm, dược phẩm và mỹ phẩm tiêu thụ tại thị trường Hoa Kỳ.
1.1.2.6. Quy định về an toàn thực phẩm đối với rau, quả, củ, hạt đưa vào thị trường Hoa Kỳ
Các sản phẩm Nông nghiệp như cà chua, cam, dâu, chanh, ớt, khoai tây, dưa chuột,... phải đáp ứng các yêu cầu về kích cỡ, loại hình, độ chín của cây và những sản phẩm này phải được Cục kiểm tra cấp giấy Chứng nhận hàng hóa đã qua kiểm tra và tuân thủ các quy định về hàng nhập khẩu.
1.1.2.7. Quy định nhập khẩu các loại quả và hạt nhập khẩu và thị trường Hoa Kỳ.
Các loại quả như cà chua, quả bơ, cam, nho, mận, ôliu,... và các loại hạt như tiêu, điều, cà phê,...phải đảm bảo các yêu cầu về chủng loại, kích cỡ, chất lượng và phải được Cục kiểm tra và an toàn thực phẩm (Food Safety Inspectation Service) thuộc Bô Nông nghiệp Hoa Kỳ cấp giấy chứng nhận giám định. Ngoài ra còn có thể chịu sự kiểm soát của Cơ quan giám định thực động vật Hoa Kỳ (APHIS) theo Đạo luật kiểm dịch thực vật, theo Cục thực phẩm và dược phẩm FDA.
Việc cấp giấy phép nhập khẩu cho các sản phẩm quả và hạt cũng phải tuân theo các quy định nghiêm ngặt giống như các loại rau quả tươi.
1.1.2.8. Quy định về kiểm soát các loại thịt và sản phẩm từ thịt đưa vào thị trường Hoa Kỳ
Thịt và các sản phẩm từ thịt nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ trước khi được thông quan thì phải chịu sự kiểm tra của APHIS và Cục kiểm tra và an toàn thực phẩm Hoa Kỳ, đồng thời phải đáp ứng được các quy định của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ đối với sản phẩm nông sản nhập khẩu.
1.1.2.9. Quy định về kiểm soát các loại gia cầm và sản phẩm từ gia cầm đưa vào Hoa Kỳ
Các loại gia cầm và trứng gia cầm (còn sống, đã qua chế biến hoặc đóng hộp) đều phải tuân thủ các quy định của APHIS và Cục kiểm tra và an toàn thực phẩm Hoa Kỳ. Các sản phẩm phải được cấp giấy phép, có ký mã hiệu và dán nhãn đặc biệt. Trong một số trường hợp phải có giấy chứng nhận kiểm tra của nước ngoài.
1.1.2.10. Qui định dán nhãn xuất xứ đối với một số sản phẩm nông nghiệp
Luật ghi nhãn xuất xứ (Country of Origin Labeling viết tắt là COOL) được ban hành từ ngày 30/9/2008 bắt đầu được thực hiện từ ngày 16/3/2009. Theo Cơ quan Dịch vụ kiểm tra và an toàn thực phẩm (Food Safety and Inspection Service viết tắt là FSIS) thuộc Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, các sản phẩm yêu cầu phải dán nhãn xuất xứ bao gồm: thịt bò (kể cả bê), cừu, gà, dê, heo ở dạng cắt và xay, rau quả tươi và đông lạnh, các loại hạt được bán trong các cửa hàng bán lẻ, quả hồ đào (pecan), sâm và lạc.
Ngoài ra các sản phẩm nhập khẩu vào Hoa Kỳ còn chịu sự kiểm soát của các quy định như Hệ thống tiêu chuẩn HACCP (Hazard Analysis Critical Controls Points)- Phân tích mối nguy cơ xác nhận điểm kiểm soát tới hạn thuộc Quy chế kiểm dịch động thực vật của FDA, là hệ thống kiểm soát chất lượng sản phẩm dựa trên phân tích và xác định các tiêu chuẩn thực phẩm nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng; Quy định về thực hành sản xuất tốt (Good Manufacturing Practices viết tắt là GMP) đưa ra các quy định về an toàn trong quá trình sản xuất sản phẩm, chất lượng sản phẩm để đảm bảo an toàn với người sử dụng; Quy định về trách nhiệm của nhà sản xuất trong việc bảo vệ môi trường.
1.2. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
1.2.1. Quá trình hình thành Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ
Từ tháng 9 năm 1996, Việt Nam và Hoa Kỳ bắt đầu đàm phán về Hiệp định Thương mại. Sau 4 năm với 11 vòng đàm phán, ngày 13 tháng 7 năm 2000, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (viết tắt là BTA) được ký kết tại Washington. Dưới đây là quá trình của 11 vòng đám phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ :
Vòng 1: từ ngày 21 đến ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại Hà Nội
Vòng 2: từ ngày 9 đến ngày 11 tháng 12 năm 1996 tại Hà Nội
Vòng 3: từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 4 năm 1997 tại Hà Nội. Phía Hoa Kỳ giao cho Việt nam dự thảo Hiệp định
Vòng 4: từ ngày 6 đến ngày 11 tháng 10 năm 1997 tại Washington.
Vòng 5: từ ngày 16 đến ngày 22 tháng 5 năm 1998 tại Washington
Vòng 6: từ ngày 15 đến ngày 22 tháng 9 năm 1998 tại Hà Nội
Vòng 7: từ ngày 15 đến ngày 19 tháng 3 năm 1999 tại Hà Nội
Vòng 8 : từ ngày 14 đến ngày 18 tháng 6 năm 1999 tại Washington
Vòng 9: từ ngày 23 đến ngày 25 tháng 7 năm 1999 tại Hà Nội
Vòng 10: từ ngày 28 tháng 8 đến ngày 2 tháng 9 năm 1999 tại Washington
Vòng 11: từ ngày 3 đến ngày 13 tháng 7 năm 2000 tại Washington. Hiệp định được ký kết vào ngày 13 tháng 7 năm 2000.
1.2.2. Nội dung chính của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
1.2.2.1. Nội dung chính của Hiệp định
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ gồm 7 chương với 72 điều và 9 phụ lục.
Chương 1. Thương mại hàng hóa: Gồm 9 điều khoản
Chương 2. Các quyền sở hữu trí tuệ: Gồm 18 điều khoản
Chương 3. Thương mại dịch vụ: Gồm 11 điều khoản
Chương 4. Phát triển các quan hệ đầu tư: Gồm 15 điều khoản
Chương 5: Tạo thuận lợi cho kinh doanh: Gồm 3 điều khoản
Chương 6: Các quy định liên quan tới tính minh bạch, công khai và quyền khiếu kiện: Gồm 8 điều khoản
Chương 7: Những điều khoản chung: Gồm 8 điều khoản
1.2.2.2. Nội dung Hiệp định liên quan đến hàng nông sản
Phía Việt Nam cam kết đối với hàng nông sản nhập khẩu từ Hoa Kỳ về lịch trình hạn chế số lượng nhập khẩu từ 3 đến 10 năm (kể từ ngày 10 tháng 12 năm 2001) bao gồm 69 mặt hàng: 6 mặt hàng có lộ trình 3 năm, 44 mặt hàng có lộ trình 4 năm, 14 mặt hàng có lộ trình 5 năm, 5 mặt hàng có lộ trình 10 năm. Và đối với hàng xuất khẩu, có 2 mặt hàng hạn chế số lượng xuất khẩu được ghi trong hiệp định là gạo và tấm nhưng chưa đưa vào lộ trình cam kết cắt giảm.
Việt Nam còn cam kết lịch trình loại bỏ hạn chế về quyền kinh doanh và quyền phân phối hàng nông sản như sau: Về quyền kinh doanh, bao gồm 41 mặt hàng, trong đó: 1 mặt hàng có lộ trình 4 năm, 14 mặt hàng có lộ trình 3 năm, 15 mặt hàng có lộ trình 5 năm, 1 mặt hàng có lộ trình 6 năm; Về quyền phân phối: 1 mặt hàng có lộ trình 3 năm, 25 mặt hàng có lộ trình 5 năm, 16 mặt hàng loại bỏ.
Theo cam kết, tới năm 2005 mức thuế trung bình đối với hàng hóa nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam giảm xuống 10 đến 29% từ mức 30 đến 40% trước Hiệp định. Đối với hàng nông lâm thủy sản giảm 195 dòng thuế, từ mức 35,5% xuống còn 25,7%. Ngoài ra, Việt Nam còn cam kết mở cửa thị trường đối với một số mặt hàng nông sản mà Hoa Kỳ có thế mạnh như: bột mỳ, sữa và các sản phẩm từ sữa, ngô, hoa quả tươi,...
Đối với hàng hóa Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ, bên phía Hoa Kỳ cam kết giảm thuế nhập khẩu từ 40 đến 70% xuống còn 3 đến 7% và phía Hoa Kỳ phải thực hiện cắt giảm ngay theo quy định của Hiệp định song phương. Riêng mặt hàng rau quả tươi được giảm thuế từ 10 đến 50% xuống còn 3 đến 21%. Một số mặt hàng như cà phê, hạt điều, hạt tiêu,... là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh vẫn giữ mức thuế bằng 0 hoặc có chênh lệch không đáng kể về thuế giữa thuế MFN và non-MFN. Dưới đây là bảng thuế MFN vào non-MFN đối với một sản phẩm nông sản và mức chênh lệch giữa hai biểu thuế.
Bảng 1.2. Biểu thuế MFN và non-MFN của một số sản phẩm Nông sản và mức chênh lệch giữa hai biểu thuế
Mặt hàng
MFN
Non-MFN
Chênh lệch
Rau tươi (thân, lá, củ, rễ)
3% - 21%
10% - 50%
7% - 39%
Rau quả chế biến
Riêng đậu phộng chế biến
0% - 25,7%
135,7%
20% - 67%
155%
20% - 41,3%
19,3%
Nấm
1,8%
45%
43,2%
Đào lộn hột
3,2%
35%
31,8%
(Nguồn: Hải quan Hoa Kỳ)
Ngoài ra, hai nước cùng cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn của WTO về vệ sinh an toàn thực phẩm, về kỹ thuật, các thước đo về chất lượng, vệ sinh được áp dụng trên cơ sở đối xử quốc gia và trong chừng mực cần thiết với những mục đích chính đáng như bảo vệ con người, cuộc sống động thực vật.
Về việc cấp giấy phép nhập khẩu, phía Việt Nam cam kết loại bỏ các thủ tục cấp giấy phép tùy ý, thực hiện theo quy định của WTO. Còn phía Hoa Kỳ cam kết cung cấp giấy phép cho các công ty Việt Nam khi có yêu cầu, phù hợp với Luật thương mại Hoa Kỳ.
1.3. Thực trạng xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ
1.3.1. Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung
Với nhiều lợi thế về điều kiện tự nhiên nhân lực cùng với truyền thống, kinh nghiệm làm nông nghiệp, hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã có những bước phát triển lớn như mở rộng thị trường ra khoảng 50 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Đông Âu, các nước ASEAN.... với mức tăng trưởng về kim ngạch cũng như mặt hàng xuất khẩu ra thị thị trường thế giới. Trong tỷ trọng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam ra thị trường thế giới thì xuất khẩu hàng nông sản vẫn chiếm một tỷ trọng lớn, thể hiện được tầm quan trọng của ngành sản xuất và xuất khẩu nông sản đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, còn nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam chưa thực sự có chỗ đứng trên thị trường thế giới, chưa tạo được tác động chi phối tới thị trường thế giới và còn gặp nhiều khó khăn khi xâm nhập các thị trường lớn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản,... do còn có nhiều hạn chế trong việc chế biến, bảo quản và khả năng đáp ứng các yêu cầu, quy định của các quốc gia nhập khẩu. Bên cạnh đó, hàng nông sản của Việt Nam còn gặp phải những sự canh tranh gay gắt từ các quốc gia khác như Thái Lan, Philippines, Brazil, Trung Quốc,...
1.3.1.1.Kim ngạch xuất khẩu
a. Giai đoạn từ năm 1996 tới năm 2000
Giai đoạn này, hàng nông sản xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam. Thời kỳ 1995 - 2000 kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản bình quân chiếm khoảng 70% và hàng thủy sản chiếm khoảng 25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản. Trong đó, xuất khẩu gạo chiếm tỷ trọng cao nhất (khoảng 23,8%), thứ hai là cà phê (13,5%), tiếp đến hạt điều (4,4%) và cao su (3,2%), còn rau quả thì chiếm tỷ trọng rất nhỏ (chỉ từ 0,5 đến 1,4%), chưa tương xứng với tiềm năng của ngành. Nhưng nếu xét về tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu thì rau đứng thứ nhất, kim ngạch năm 1998 mới chỉ đạt được 53,4 triệu USD thì năm 1999 đã là 104,9 triệu USD và năm 2000 là 204,5 triệu USD, tăng gần gấp 2 lần so với năm 1999.
Biểu đồ 1.1. Kim ngạch xuất khẩu rau quả giai đoạn 1996 - 2000
Đơn vị: Triệu USD
Đứng thứ hai là hạt tiêu với chỉ số tăng là 51%, tuy có sự suy giảm vào năm 1998 so với năm 1997 là 67,23 triệu USD xuống 64,5 triệu USD nhưng đến năm 1999 và 2000 thì lại có sự tăng mạnh về sản lượng cũng như giá trị xuất khẩu với giá trị xuất khẩu năm 1999 là 137,26 triệu USD và năm 2000 là 145,93 triệu USD, rồi đến cà phê là 28% và cao su là 22%. Các mặt hà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 112279.doc