Đề tài Sự vận dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam

Trong khi nền kinh tế, chính trị xã hội đất nước không ổn định thì đặt ra yêu cầu nhà nước phảI có chính sách đổi mới cho phù hợp với đIều kiện thực tiễn xã hội. Nước Nga sau khi thoát khỏi chiến tranh tình hình đất nước rất bất ổn. Lê-nin, người lãnh đạo tối cao của nhà nước Xô-Viết đã đề ra chính sách kinh tế mới nhằm giảI quyết tình hình khó khăn của đất nước. Bởi vì kinh tế cộng sản thời chiến không thể duy trì trong cả thời bình. Phương thức phân phối sản phẩm theo chủ nghĩa bình quân không thể tiếp tục duy trì, nó không kích thích được sự phát triển của đất nước. Để giảI quyết những mâu thuân đang phát sinh chính quyền Xô-Viết đã nhanh chóng đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế –không thể chỉ duy trì kinh tế nhà nước là duy nhất.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước nào cũng phải trải qua những khó khăn do đIều kiện kinh tế xã hội chưa thực sự phát triển, thời kỳ quá độ luôn có những đặc thù riêng của nó buộc người lãnh đạo phảI xem xét, phân tích và đưa ra những chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. NgoàI ra mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế luôn gắn liền với nhau đổi mới kinh tế phảI đI đôI với đổi mới chính trị xã hội. Đòi hỏi Đảng và nhà nước phảI nghiên cứu tình hình để dưa ra những chính sách phù hợp nhất Hệ thống chính trị được xây dựng trên nền tảng kinh tế là cơ sở tồn tại của phát triển xã hội một cách toàn diện. Để có thể ổn định chính trị thì trước hết ta phảI ổn định về kinh tế. Trong điều kiện kinh tế nước Nga đang khó khăn : nông nghiệp kém phát triển, nền đại công nghiệp không phát huy tác dụng như trước, chỉ còn là sản xuất nhỏ do thiếu nguyên liệu, thiếu lương thực. Công nhân thất nghiệp tràn lan Đã nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội, tình hình chính trị bất ổn Để giảI quyết tình hình trên việc chính quyền Xô-Viết dưa ra chính sách kinh tế mới là hoàn toàn đúng dắn.

Cũng như nước Nga, Việt Nam sau khi thoát khỏi chiến tranh, “kinh tế thời chiến” – phương thức sản xuất tập trung không còn phù hợp, chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không thể tiếp tục duy trì. Nhà nước ta đã nhanh chóng đổi cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của xã hội. Sự vân dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam là một bước đI đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới. Nhanh chóng phát triển kinh tế đưa đất nước tiến lên Chủ Nghĩa X ã Hội. Nhà nước ta song song vơí quá trình đổi mới kinh tế là đổi mới hệ thống chính trị giảm sự cồng kềnh của bộ máy nhà nước, giảm sự chồng chéo trong lãnh đạo quản lý, hệ thống pháp luật cũng thay đổi nhằm kích thích đầu phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam hiên nay đang thực hiện quá trình đổi mới chính. Trên cơ sở nghiên cứu chính sách kinh tế mới nhà nước ta đã tìm ra những biện pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn xã hội. Chính sách kinh tế mới đã để lại bàI học kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới. Tuy ý nghĩa thời sự của chính sách kinh tế mới không còn nhưng bàI học về phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đó.

 

doc38 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1080 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Sự vận dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. phần mở đầu : giới thiệu đề tài Trong khi nền kinh tế, chính trị xã hội đất nước không ổn định thì đặt ra yêu cầu nhà nước phảI có chính sách đổi mới cho phù hợp với đIều kiện thực tiễn xã hội. Nước Nga sau khi thoát khỏi chiến tranh tình hình đất nước rất bất ổn. Lê-nin, người lãnh đạo tối cao của nhà nước Xô-Viết đã đề ra chính sách kinh tế mới nhằm giảI quyết tình hình khó khăn của đất nước. Bởi vì kinh tế cộng sản thời chiến không thể duy trì trong cả thời bình. Phương thức phân phối sản phẩm theo chủ nghĩa bình quân không thể tiếp tục duy trì, nó không kích thích được sự phát triển của đất nước. Để giảI quyết những mâu thuân đang phát sinh chính quyền Xô-Viết đã nhanh chóng đổi mới phương thức quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế –không thể chỉ duy trì kinh tế nhà nước là duy nhất. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đất nước nào cũng phải trải qua những khó khăn do đIều kiện kinh tế xã hội chưa thực sự phát triển, thời kỳ quá độ luôn có những đặc thù riêng của nó buộc người lãnh đạo phảI xem xét, phân tích và đưa ra những chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. NgoàI ra mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế luôn gắn liền với nhau đổi mới kinh tế phảI đI đôI với đổi mới chính trị xã hội. Đòi hỏi Đảng và nhà nước phảI nghiên cứu tình hình để dưa ra những chính sách phù hợp nhất Hệ thống chính trị được xây dựng trên nền tảng kinh tế là cơ sở tồn tại của phát triển xã hội một cách toàn diện. Để có thể ổn định chính trị thì trước hết ta phảI ổn định về kinh tế. Trong điều kiện kinh tế nước Nga đang khó khăn : nông nghiệp kém phát triển, nền đại công nghiệp không phát huy tác dụng như trước, chỉ còn là sản xuất nhỏ do thiếu nguyên liệu, thiếu lương thực. Công nhân thất nghiệp tràn lan … Đã nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội, tình hình chính trị bất ổn Để giảI quyết tình hình trên việc chính quyền Xô-Viết dưa ra chính sách kinh tế mới là hoàn toàn đúng dắn. Cũng như nước Nga, Việt Nam sau khi thoát khỏi chiến tranh, “kinh tế thời chiến” – phương thức sản xuất tập trung không còn phù hợp, chế độ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp không thể tiếp tục duy trì. Nhà nước ta đã nhanh chóng đổi cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của xã hội. Sự vân dụng chính sách kinh tế mới vào Việt Nam là một bước đI đúng đắn của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới. Nhanh chóng phát triển kinh tế đưa đất nước tiến lên Chủ Nghĩa X ã Hội. Nhà nước ta song song vơí quá trình đổi mới kinh tế là đổi mới hệ thống chính trị giảm sự cồng kềnh của bộ máy nhà nước, giảm sự chồng chéo trong lãnh đạo quản lý, hệ thống pháp luật cũng thay đổi nhằm kích thích đầu phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam hiên nay đang thực hiện quá trình đổi mới chính. Trên cơ sở nghiên cứu chính sách kinh tế mới nhà nước ta đã tìm ra những biện pháp phù hợp với điều kiện thực tiễn xã hội. Chính sách kinh tế mới đã để lại bàI học kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kì đổi mới. Tuy ý nghĩa thời sự của chính sách kinh tế mới không còn nhưng bàI học về phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đó. B. nội dung: CHƯƠNG 1:NHững vấn đề cơ bản về chính sách kinh tế mới của LêNin hoàn cảnh ra đời của chinh sách kinh tế mới * Điều kiện ra đời Cuối năm 1920, nội chiến kết thúc, nước Nga chuyển sang thời kỳ kiến thiết trong hoà bình. Do đó, chính sách “Kinh tế cộng sản thời chiến” đã làm xong vai trò lịch sử bất đắc dĩ của nó, giờ đây không cho phép nó đi xa hơn nữa, vì nông dân nhiều nơi đã tỏ ra bất mãn với chính sách kinh tế cộng sản thời chiến (thể hiện rõ ở cuộc bạo loạn Cron-Xtat gần Lêningrát); khối liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ. Cho nên phải cần thiết phải trở lại thực hiện kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội do Lênin đề ra năm 1918, phải trở lại những quan hệ kinh tế khách quan giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn. 1. Tình hinh kinh tế trước thời kỳ đổi mới a. Về nông nghiệp: Những thành phần kinh tế chủ yếu của kinh tế Xô Viết vẫn như cũ. Nông dân “nghèo ” (vô sản và nửa vô sản ), trong rất nhiều trường hợp đã cảI biến thành tầng lớp trung nông. Điều đó làm cho “thành phần tiểu tư hữu, tiểu tư sản được tăng cường thêm”. Một mặt khác cuộc nội chiến 1918-1920 đã làm tình trạng suy đồi của xứ sở càng thêm trầm trọng ghê gớm, đã làm chậm trễ việc phục hồi các lực lượng sản xuất nhất là nó đã hút hết máu mủ của giai cấp vô sản. thêm vào đó nạn mất mùa 1920, nạn thiếu cỏ cho gia súc, bệnh dịch súc vật, càng kìm hãm thêm việc phục hồi ngành vận tải và công nghiệp. Tình hình chính trị năn 1921 đã đưa đến chỗ buộc phải dùng những biện pháp tức thời, biện pháp đặc biệt nhất để cải thiện đời sống nông dân và phục hồi lực lượng sản xuất của họ trong hoàn canh nước Nga bị tàn phá trong chiến tranh, nền kinh tế đát nươc kiêt quệ. Đây là nguồn nuôi sông nươc Nga (nước Nga lầ một nước nông nghiệp lạc hậu trươc chiến tranh) nhưng tình hình nông nghiệp cũng không mấy khả quan. Diện tích gieo trồng thu hẹp đáng kể. Tổng sản lượng giảm 40% so với năm 1913. Nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ. Chính sách cộng sản thời chiến kéo dài đã làm cho nông nghiệp giảm sút đáng kể. Quá trình chưng thu lương thực thừa tạo cho xã hội một sức ỳ lớn làm cho nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế đất nước nói chung đi vào khủng hoảng. b. Về công nghiệp : Sau chiến tranh công nghiệp nước nga bị tàn phá nặng nề, tài sản quốc gia bị tàn phá hư hỏng rất nhiều. Đại công nghiệp công nghiệp không phát huy vai trò của mình nữa mà chỉ còn lại “tiểu công nghiệp sản xuất nhỏ”. Các nhà máy công xưởng, kho bãi, máy móc bị tàn phá nghiêm trọng, một số chỉ còn là đống phế thải. Tổng sản lượng công nghiệp giảm hơn 4 lần so với năm 1917. Tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế không cao chỉ đạt 25%. Sản xuất đại công nghiệp giảm xuống còn 12. 8%, sản xuất công nghiệp giảm xuống còn 14. 1%. c. Về giao thông vận tải: Cơ sở hạ tầng, đường xá, cầu cống bị tàn phá nghiêm trọng sau chiến tranh. Các phương tiện giao thông vận tải cũng bị thiệt hại nặng nề. Mặt khác, tình trạng thiếu nhiên liệu lại càng làm cho giao thông vận tải bị tê liệt. d. Về tài chính tín dụng: Lạm phát ngày càng cao tới mức không kiểm soát nổi. Ngân hàng nhà nước chưa được thiết lập lại, dự trữ vàng bảo đảm cho lưu thông giảm đi. Ngân sách nhà nước bội liên miên. Hệ thống tài chính-tín dụng lâm vào tình trạng rối loạn. Tóm lại, tình trạng kinh tế nước Nga bây giờ vô cùng yếu kém. Cả sản xuất và lưu thông đều sa sút. Đời sống của nhân dân cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Thu nhập của công nhân và nông dân đều giảm. Cuộc khủng hoảng kinh tế nổ ra đã kéo nền kinh tế nước Nga xuống thấp hơn rất nhiều lần so với trước chiến tranh. e. về thương nghiệp: Kể từ khi thực hiện chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến, thương nghiệp bị xoá bỏ hoàn toàn. Nền kinh tế mang tính chất hiện vật cao. Trao đổi sản phẩm trên thị trường bị cấm. Nhà nước vẫn áp dụng chế độ tem phiếu, trực tiếp phân phối bằng hiện vật cho người tiêu dùng và theo hướng bình quân hoá. Thị trường thiếu hàng hoá, vận động một cách chậm chạp. Tính ỳ của nền kinh tế càng tăng do sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào thương nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. 2. Tình hình chính trị-xã hội : Tình hình kinh tế như trên đã dẫn tới tinh hình chính trị –xã hội không mấy khả quan. Nông dân luôn có tâm trạng bất mãn do những mong đợi về cảI thiện đời sống sau chiến tranh không được đáp ứng. Lòng tin của giai cấp nông dân đối với cách mạng giảm dần. Giai cầp công nhân mất dần bản chất giai cấp do số công nhân thất nghiệp tăng, điều kiện sống của họ không được đảm bảo. Nhà nước Xô-Viết vẫn còn non trẻ, lại vừa phải lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống bọn phản động và đế quốc nên ít nhiều vẫn còn sai sót trong lãnh đạo. Đặc biệt là sự nóng vội trong việc hoạch định đường nối đI lên xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng yếu đi do lòng tin của nhân dân đối với Đảng Cộng sản không còn như trước nữa. Liên minh công nông có nguy cơ tan vỡ do những mối liên hệ kết nối về kinh tế giữa hai giai cấp bị nhà nước làm cho mờ nhạt dần. Bên cạnh đó, xuất hiện tình trạng một số người lợi dụng tình hình khủng hoảng bất ổn để gây rối loạn kinh tế như bọn đầu cơ tích trữ. Nạn trộm cắp, lừa đảo xảy ra ở nhiều nơi khiến cuộc sống của người dân không được yên ổn. An ninh chính trị ngày càng bất ổn định. Tình hình trên đe doạ sự tồn tại của nền chuyên chính vô sản. Với thưc trạng đất nước như vậy khiến cho người dân không thể không đặt ra câu hỏi là liệu chế độ chuyên chính vô sản có đưa nước Nga đạt tới sự phát triển bền vững hay không và có thực sự đem lại dân chủ bình đẳng, tự do hạnh phúc cho đời sống nhân dân hay không? Nhà nước Xô Viết đã phải thực sụ đương dầu với những thử thách vô cùng gay go phức tạp. Việc giải quyết những vấn đề đó không phải là dễ dàng. Giai cấp vô sản đứng lên lãnh đạo chưa lâu chưa có kinh nghiệm quản lý và lãnh đạo, đặc biêt lãnh đạo một đất nước có nhiều giai cấp cùng song song tồn tại một quốc gia đa dân tộc rộng lớn. Mặt khác ban lãnh đạo còn xuất hiện những ý kiến khác nhau, nên khó thống nhất hoạt động trong khi nội chiến chưa kết thúc, tình hình chính tri vô cùng rối ren, trong khi kinh tế đất nước lâm vào khủng hoảng. 3. Ngyên nhân: **. Cơ sở lý luận và sự cần thiết của một chính sách mới: Trong qúa trình chiến đấu và chiến thắng của nhà nước Xô -Viết suốt bảy thập kỷ qua, mùa xuân năm 1921 đã đi vào lịch sử Liên Xô và lịch sử chủ nghĩa xã hội thế giới như một bước ngoặt: Đảng cộng sản và Nhà nước Xô- Viết trẻ tuổi ban hành chính sách “Kinh tế mới”. Cuối năm 1920 tình hình kinh tế bị chi phối bởi một mạng lưới dày đặc các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa. Quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa chủ yếu tồn tại trong nông thôn (dân số nông thôn chiếm 82, 4% dân số, kinh tế nông nghiệp chiếm 51, 4% thu nhập quốc dân) đặc điểm này được Lê-nin rất chú ýphân tích khi Người vạch ra chiến lược tình thế giải quyết cuộc khủng hoảng và chiến lược lâu dài xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặt đúng vị trí của vấn đề nông dân và nông nghiệp trong chiến lược và sách lược của Đảng có ý nghĩa quyết định đến bảo vệ những thành quả của cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trước đây, chính quyền Xô -Viết đứng vững được trong nội chiến và sự can thiệp của nước ngoài là nhờ tinh thần hy sinh của nhân dân, trước hết là giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Nhiệt tình cách mạng của quần chúng là động lực duy nhất trong chiến đấu và chiến thắng. Sau chiến tranh, giai cấp nông dân vẫn là người chủ yếu nuôi sống đất nước, đời sống của họ lại đang thiếu thốn, khó khăn. Nếu Đảng giữ được nhiệt tình cách mạng và lòng tin của họ thì bảo vệ được cách mạng. Ngược lại nếu làm mất lòng tin của họ thì sự nghiệp cách mạng sẽ hết sức nguy hiểm. Giữ được lòng tin lúc này có nghĩa là phải tìm ra động lực của thời kỳ xây dựng. Xuất phát từ sự phân tích đó, Lê- nin đã chỉ ra rằng: Phải bắt đầu từ nông dân và nông nghiệp, phải cải thiện đời sống của người lao động trên cơ sở xây dựng quan hệ kinh tế bình thường giữa nông nghiệp và công nghiệp, củng cố liên minh công nông trên cơ sở kinh tế nhằm lôi cuốn những người sản xuất nhỏ vào việc xây dựng đất nước và đi lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ có một chính sách như vậy mới tạo được tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng của Lê-nin đã đóng vai trò quyết định trong việc đưa lý luận mác-xít về thời kỳ quá độ vào thực tiễn cuộc sống và làm phong phú thêm lý luận đó. Nhờ tư tưởng ấy mà Đảng đã sửa chữa được những sai lầm trong thời kỳ đó. Sau chiến tranh, khi những hy vọng trông chờ vào việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần không không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mãn bắt đầu tăng lên. Đó là điều kiện để bọn phản cách mạng lừa dối quần chúng, tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô-viết non trẻ Những sai lầm chủ quan của người cộng sản cũng là một thực tế phải giải quyết đồng thời với việc giải quết mâu thuẫn khách quan. Trong những năm tháng cần thiết phải áp dụng “chính sách cộng sản thời chiến “ đã hình thành về quan niệm khả năng quá độ trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Những chủ trương chính sách sai lầm bắt nguồn từ quan niệm nôn nóng muốn chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, đã làm cho thành phần kinh tế chủ nghĩa xã hội sa sút. Lực lượng sản xuất hiện có không thể sử dụng và mất mát, hao mòn. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chỉ là hình thức bề ngoài, xơ cứng và khô héo dần. Nhiều chủ trương biện pháp quá đáng ra đời từ quan niệm này là một trong những nguy cơ làm tăng khủng hoảng. Chính sách kinh tế là cả một cơ chế nhằm phục hồi và phát triển kinh tế nước Nga đồng thời củng cố vững chắc nền chuyên chính vô sản. Nền kinh tế có phát triển hay không sẽ qyuết định sự ổn định bền vững của hệ thống chính trị. Chính sách kinh tế mới được thực hiện với mục đích khắc phục tình trạng kiệt quệ của nền kinh tế nước Nga và đưa nó vào quỹ đạo phát triển trong thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là giúp cho chế độ chính trị được ổn định. Một nền kinh tế mạnh là điều kiện kiên quyết để đạt được một chế độ chính trị vững vàng. Khi lợi ích kinh tế của các giai cấp trong xã hội được đáp ứng một cách tương đối công bằng thì mâu thuấn với chính trị sẽ đực giải quyết. Muốn nghiên cứu nội dung của chính sách này, ta phảI đặt chúng trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau. Mối một khâu trong chính sách cần phải thấy rõ ý nghĩa của thếu lương thực một bước đI dúng đắn của nhà nước Nga trong con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thếu lương thực cho phép nông dân có sản phẩm thừa đem trao đổi. Đây hoàn toàn không phải là đi ngược với mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, nước Nga vừa mới trải qua chiến tranh, lương thực thiếu. Nếu tiếp tục thực hiện chính sách lương thực cũ, mà nhà nước độc quyền mua bán lương thực thì chỉ làm cho nông nghiệp thêm sa sút mà thôi bởi chính sách cũ không còn phù hợp trong đIều kiện mới nữa. Chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu hướng tới của cách mạng vô sản như sử dụng biện pháp nào, cách thức nào để từng bước đạt được mục tiêu đó lại còn phụ thuộc hoàn cảnh thực tiễn, không thể ngay một lúc thực hiện phân phối theo phương thức cộng sản chủ nghĩa. Thuế lương thực là bước đấu tiên tạo cơ sở vật chất cho việc tiếp tục thực hiện mục tiêu của cách mạng vô sản. Theo như Lê-nin đã nói: “Thuế lương thự là một trong những hình thức của bước quá độ từ chủ nghĩa cộng sản quân sự - chủ nghĩa cộng sản đặc biệt do tình trang cùng khốn cực độ, tình trạng hoang tàn và chiến tranh buộc chúng ta phải thi hành, để bước sang chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường. Và chế độ này là một hình thức của bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội với những đặc thù do tình trạng tiểu nông chiếm ưu thế trong dân chúng tạo nên, sang chủ nghĩa cộng sản”. Chỉ có chính sách lương thực như thế mới phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chyên chính của mình trong một nước tiểu nông. Nhà nước Xô Viết đã thực sự phải đối mặt với những thử thách vô cùng gay go phức tạp. Viêc giải quyết tất cả những vấn đề đặt ra không phải là dễ dàng. Giai cấp vô sản nắm chinh quyền chưa được bao lâu, ít nhiều còn chưa có kinh nghiệm trong lĩnh đạo và quản lý, đặc biệt là quản lý một đất nước rộng lớn với cơ cấu giai cấp phức tạp như nước Nga. Mặt khác, trong ban lãnh đạo xuất hiện những ý kiến, quan điểm khác nhau nên khó thống nhất hoạt động. Khi nội chiến kết thúc tình hình chính trị rối ren cũng là điều khó tránh khỏi trong bối cảnh một nền kinh tế đang khủng hoảng trầm trọng. Tình hình thực tế trên đây buộc nhà nước Xô-Viết phải xem xét lại đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải chăng những việc làm trước đó của nhà nước là đúng đắn, phù hợp với những lý luận về thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội? Chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến được thi hành kéo dài quá mức gây nên những khủng hoảng là một đIều không thể tránh khỏi. Nó không phải là một giai đoạn tất yếu trong chính sách kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác bản thân nhà nước Xô-Viết cũng nóng vội muốn chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội không thích ứng với tính chất và trình độ cuẩ lực lượng sản xuất thì tất yếu không thể tranh khỏi những thiếu sót và thực tế những thiếu sót đó đã tạo ra những lỗ hổng lớn trong quá trình phát triển kinh tế. Chính vì quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất nên khủng hoảng mới xảy ra. Quyền sở hữu, quản lý và tổ chức sản xuất đều thuộc nhà nước trong khi lưc lượng sản xuất chậm phục hồi, các cơ sở sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật bị chiến tranh tàn phá. Trước chiến tranh nước Nga có nền đại công nghiệp phát triển mạnh nhưng trải qua chiến tranh, đại công nghiệp mạnh đó không còn nữa. Phân phối lại mang nặng chủ nghĩa bình quân, những kích thích về lợi ích kinh tế bị hạn chế tới mức tối thiểu trong toàn bộ nền kinh tế hầu như chỉ tồn tạI hình thức kinh tế nhà nước. Tính năng động của cá nhân không được phát huy. Tính xã hội hoá sản xuất lạI bị cản trở bởi nông nghiệp và công nghiệp tách rời nhau. Hinh thức sở hữu nhà nước cùng với việc tổ chức quản lý kém năng động và phân phối mang chủ nghĩa bình quân không thể phù hợp với lực lượng sản xuất đăng nằm trong giai đoạn chậm phục hồi do bị chiến tranh tàn phá. Nhìn chung, thì tình trạng nước Nga bây giờ chứng tỏ một đIều là những chính sách mà nước Nga đang thực hiện là không hợp thời, không thích ứng với đIều kiện đất nước bây giờ. Chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến đã giúp nước Nga đứng vững trong chiến tranh nhưng điều đó không có nghĩa là nó sẽ tiếp tục đem lạI cho nước Nga sự phục hồi và phát triển trong đIều kiện hoà bình. Thực tế đã chứng minh là việc kéo dài thực hiện chính sách này chỉ làm cho nước Nga càng chìm sâu trong cuộc khủng hoảng kinh tế mà thôi. Nếu muốn tiếp tục thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì tất yếu nhà nước phải xây dựng một chinh sách mơí phù hợp với quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ. Chính sách đó phải khác phục được tính ỳ của nền kinh tế nước Nga phải đưa công nghiệp và nông nhiệp trở lại với mối quan hệ trao đổi qua lại, hỗ trợ lẫn nhau, qua đó củng cố vững chắc khối liên minh công- nông. Khi đã khắc phục được những khó khăn trong kinh tế thì giải quyết vấn đề chính trị sẽ dễ dàng hơn. Năm1918, Lê-nin đã đề ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng việc thực hiện đã bị hoãn lại do chiến tranh. Giờ đây, khi chiến tranh đã qua đi và trước thực trạng đất nước đang trong tình trạng khủng hoảng, kế hoạch đó phải được tiếp tục thực hiện. Có thể nói, đây là giải pháp duy nhất mà nhà nước Xô-Viết có thể tiến hành để đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng và tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội X của Đảng cộng sản Bônsêvic Nga họp tư ngày 8 đến ngày16-3-1921 đã ban hành chính sách kinh tế mới (NEP). II. Nội dung của chính sách kinh tế mới. Chính sách kinh tế mới là cả một cơ chế kinh tế nhằm phục hồi và phát triển kinh tế nước Nga đồng thời củng cố vững chắc nền chuyên chinh vô sản. Nền kinh tế có phát triển hay không sẽ quyết định sự ổn định vững chắc của hệ thống chính trị chính sách kinh tế mới đ ược thực hiện nhằm khắc phục tình trạng kiệt quệ của nền kinh tế nước Nga và đưa nó vào quỹ đ ạo phát triển trong thời kỳ quá đ ộ lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Một nền kinh tế mạnh là điều kiện để đạt được một chế đ ộ chính trị vững vàng. Khi lợi ích kinh tế của các giai cấp được đáp ứng một cách công bằng thì mâu thuẫn chính trị sẽ giảm bớt –đem lại sự ổn định về xã hội. Nghiên cứu chính sách kinh tế này ta phảI đ ặt chúng trong mối quan hệ liên hoàn với nhau Thuế lương thực Thuế lương thực là một trong những hình thức của bước quá độ chủ nghĩa từ chủ nghĩa “ cộng sản quân sự ”, chủ nghĩa cộng sản đặc biệt do tình trạng cùng khốn cực độ tình trạng hoang tàn và chién tranh buộc chúng ta phảI thi hành - để bước sang chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường. Và chế độ này là một trong những hình thức của bước quáđộ từ chủ nghĩa xã hội - với những đặc thù do tình trạng tiểu nông chiếm ưu thế trong dân chúng tạo nên – sang chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa “cộng sản quân sự ” có đIều này đặc biệt là thực tế chúng ta đã lấy ở nông dân tất cả những lương thực của họ và có khi cả những lương thực không phải là thừa mà là một phần cần thiết cho sự sống của họ. Như vậy là để cung cấp cho quân đội và công nhân chúng ta phảI lấy đI một phàn nguồn sông của nông dân. Nếu không thế chúng ta đã không thể thắng được bọn địa chủ vá tư bản trong xứ nông nghiệp tiểu nông suy tàn này và bọn đế đế quốc bên ngoàI. Nhưng cần phải hiểu cho đúng mức độ của thành tích ấy. Chiến tranh và tình trạng hoang tàn buộc chúng ta phảI thi hành chủ chủ nghĩa “cộng sản quân sự ”. Nó không phải là một chính sách phù hợp với nhiêm vụ kinh tế của giai cấp vô sản. Đó là một biện pháp tạm thời. Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một nước tiểu nông thì một chính sách đúng là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì. Chỉ có chính sách ấy mới phù hợp nhiệm vụ của giai cấp vô sản chỉ có chính sách đó mới tăng cường được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và dưa chủ nghĩa xã hội lên chỗ toàn thắng. Vì vậy đặt ra yêu cầu thực hiện “thuế lương thực ” để giảI quyết tình hình thực tế của đất nước. Đây là bước đầu tiên quan trọng trong cơ chế kinh tế của chính sách kinh tế mới. sở dĩ như vậy bời vì trong điều kiện nước Nga bây giờ, đại công nghiệp đã mất đi vị thế kinh tế trước đây của nó, tiểu nông nghiệp tuy khó phat huy vai trò song không phải là ngành tạo ra khối lượng sản phẩm lớn đáp ứng nhu cầu cấp bách của đất nước, thương nghiệp hầu như không tồn tại chỉ có nông nghiệp là nguồn chính chủ yếu “nuôi sống” quốc gia. Mặc dù vậy ngành nông nghiệp cũng đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề, vì vậy để khôI phục nền kinh tế cần tiến hành khôI phục sản xuất nông nghiệp đầu tiên. có khôI phục sản xuất lương thực thì mới cảI thiện đời sống nhân dân, trong điều kiện bây giờ lương thực là nhu cầu cấp thiết đối với nước Nga. Theo như Lênin đã nói:”Muốn cảI thiện đời sống công nhân thì phảI có bánh mì và nhiên liệu. Đứng về phương diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân của chúng ta mà nói thì hiện nay điêù chướng ngại nhất là ở đó. nhưng chúng ta chỉ có thể tăng thêm sức sản xuất và thu hoạch lúa mì tăng thêm sự dự trữ và vân taqỉ nhiên liệu bằng cách cảI thiện đời sống của nông dân- bằn cach nâng cao sức sản xuất của họ ”. Bên cạnh đó thực tế cũng cho they rằng kinh tế nông nghiệp suy sụp một cách nghiêm trọng lực lượng sản xuất nông nghiệp bị lung lay, lòng tin của nông dân đối với chính quyền Xô Viết bị giảm sút, tình trạng đầu cơ tích luỹ tràn lan vì vậy việc chỉnh đốn lại nền sản xuất nông nghiệp là một yêu cầu cấp bách. chính sách kinh tế Cộng sản thời chiến kéo dài, với nội dung trưng thu lương thực thừa đã thủ tiêu nhưng kích thích đối với nông dân, kìm hãm sự phát triển của nông nghiệp. Do đó tất yếu nó phảI được thay thế bằng một chính sách kinh tế mới nhằm sửa chữa nhưng sai sót mà nền kinh tế thời chiến ngây nên cho nông nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Thuế lương thực được thực hiện thống nhất từ tháng 5/1923 với hình thức hỗn hợp bằng hiện vật hoặc bằng tiền tệ (từ năm 1924 bằng hiện vật là chủ yếu). Mức thuế được thu phân biệt đói với các hộ nông dân: Đối với bần nông thì thu thuế bằng 1. 2% thu nhập, với trung nông thu bằng 3. 5% thu nhập, với phú nông thu bằng 5. 6% thu nhập. Ngoài ra người nông dân có thể tự do buôn bán lúa gạo sau khi đã nôp đủ thuế. 2. Khôi phục và phát triển sản xuất trao đổi hàng hoá giữa thành thị và nông thôn giữa công nghiệp và nông nghiệp: Đổi cho tiểu nông tất cả những sản phẩm mà họ cần dùng do nền đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa cung cấp để lấy lúa mì và nguyên liệu. Đó là chính sách hay nhất, hợp lý nhất và đó là chính sách mà ta bắt đầu thi hành. Nhưng chúng ta không thể đổi cho họ tất cả sản phẩm, không thể như thế đựơc và cũng không thể làm sớm như thế được. Vậy chúng ta phảI làm thế nào. Hoặc là tìm cách ngăn cấm, bao vây đến cùng mọi sự phát triển của mậu dịch tư nhân, không phải là của nhà nước nghĩa là mọi sự phát triển của tư bản thương mại bước phát triển tất nhiên phảI xảy ra hàng triệu người sản xuất nhỏ. Chính sách ấy là một hành động dại dột tự sát đối với đảng nào tìm cách áp đặt nó. Dại dột vì về phương diện kinh tế chính sách ấy không thể nào thực hiện được; tự sát vì những đảng nào thực hiện chính sách như thế nhất định sẽ bị “phá sản”. Trong điều kiện hiện nay không thể xoá bỏ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và càng không thể “chỉ có một thị trường tiêu thụ sản phẩm là nông thôn ”. Làm như vậy sẽ kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Vậy chúng ta phải làm thế nào ? Cải thiện đời sống của nhân dân là việc đầu tiên cần nhưng nếu chỉ dựa vào nền nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp, thì không thể cân đối phát triển kinh tế. Thuế lương thực được thi hành đã tạo đIều kiện cho người nông dân hăng hái tham gia sản xuất, tạo ra ngày càng nhiều nông sản nhưng không có trao đổi hàng hoá thì chính sách thuế lương thực sẽ tự đánh mất tác dụng kích thích lợi ích vật chất của nó. Thuế lương thực có nghĩa là tự do bán số lương thực còn thừ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50821.doc
Tài liệu liên quan