Hiện nay, khi nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và nhu cầu sống của con người ngày càng được nâng cao thì vấn đề môi trường cũng trở thành vấn đề đáng quan tâm của toàn thể nhân loại. Nếu như cách đây mấy trăm năm chúng ta được sống trong một bầu không khí trong lành và tận hưởng sự phong phú đa dạng của các loài động thực vật, của nguồn tài nguyên thiên nhiên thì ngày nay chúng đang bị hủy hoại dần bởi bàn tay của chính chúng ta. Môi trường đang lên tiếng kêu cứu và cần sự quan tâm, bảo vệ của toàn thể nhân loại. Môi trường theo nghĩa rộng bao gồm đất, nước, không khí, cảnh quan, và các nguồn tài nguyên phục vụ cho hoạt động sống của con người. Như vậy chính con người cũng là một yếu tố quan trọng của môi trường và có những tác động mạnh mẽ đến nó. Tất cả các nền kinh tế đều phải sử dụng các nguồn tài nguyên tự nhiên và môi trường để đảm bảo cho sự phát triển. Con người tác động đến môi trường tự nhiên để phục vụ cho các nhu cầu của mình và bất kỳ một sự biến đổi nào của môi trường tự nhiên cũng gây tác động ngược trở lại đối với nền kinh tế - xã hội. Đó chính là mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh tế và môi trường tự nhiên. Giải quyết tốt mối quan hệ này con người mới có thể xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững vì theo Barry Field và Naney Olewiler: “Một nền kinh tế bền vững là nền kinh tế trong đó đầu tư vốn xã hội cho phép nền kinh tế tăng trưởng để thế hệ tương lai ít nhất cũng có được mức phúc lợi xã hội như thế hệ hiện tại, trong khi vẫn duy trì được sự lành mạnh của hệ sinh thái.” Như vậy ta có thể thấy môi trường là một yếu tố quan trọng trong hệ thống kinh tế và nền kinh tế sẽ không thể hoạt động bình thường nếu thiếu các yếu tố tài nguyên môi trường. Đó chính là lý do mà con người phải hết sức quan tâm và ngày càng phải quan tâm nhiều hơn nữa đến các hoạt động của mình ảnh hưởng như thế nào đến môi trường và hạn chế tối đa những tác động có hại cho môi trường tự nhiên.
Một trong những vấn đề môi trường đang diễn ra bức xúc hiện nay đó là ô nhiễm không khí đặc biệt là không khí tại các khu đô thị do hoạt động giao thông của con người. Khả năng đi lại và tiếp cận hiệu quả là nền tảng để con người dần tiến đến thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, một sự thật là, khi các đường phố ngày càng bị ách tắc và ô nhiễm, các thành tựu đã đạt được trong phát triển kinh tế càng phải đối mặt với rủi ro. Nhu cầu đi lại và mật độ dân cư ngày càng tăng cao, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nôi, thành phố Hồ Chí Minh khiến cho tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm không khí và tai nạn giao thông trở thành nỗi bức xúc của hầu hết mọi người, làm giảm chất lượng cuộc sống và gây tác hại không nhỏ đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Phương tiện giao thông đang thải ra các chất độc hại là nguyên nhân gây ung thư và bệnh về đường hô hấp cho con người. Không những vậy, nó còn đang dần phá hủy chất lượng môi trường đô thị, năng suất kinh tế và công bằng xã hội. Ở nhiều nước đang phát triển và chuyển đổi, ô nhiễm không khí gây nên chi phí xã hội và kinh tế lớn, thiệt hại của nó chiếm tới 6% thu nhập đô thị trong đó khí thải từ các phương tiện giao thông là tác nhân gây hại lớn nhất. Như vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có cơ cấu thể chế, biện pháp quản lý, các biện pháp kinh tế và công nghệ nhằm giảm lượng khí thải của các phương tiện giao thông thải vào môi trường.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Sử dụng biện pháp thu phí nhằm hạn chế phương tiện giao thông cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội cho mục đích nâng cao chất lượng môi trường”
88 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Sử dụng biện pháp thu phí nhằm hạn chế phương tiện giao thông cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội cho mục đích nâng cao chất lượng môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Tiếng Anh
Tiếng Việt
PTGT
Phương tiện giao thông
GTVT
Giao thông vận tải
PTGTCN
Phương tiện giao thông cá nhân
PTGTCC
Phương tiện giao thông công cộng
TP
Thành phố
GTCC
Giao thông công cộng
ALS
Area Licensing Scheme
ERP
Electronic Road Pricing
IU
In-vehicle Unit
ALMEC
JICA, Tổng công ty tư vấn ALMEC, Viện nghiên cứu Mitsubishi
HAIDEP
Chương trình phát triển đô thị tổng thể Thủ đô Hà Nội
BVMT
Bảo vệ môi trường
TCVN
Tiêu chuẩn Việt Nam
KCN
Khu công nghiệp
XHH
Xã hội học
UBND
Ủy ban Nhân dân
TNMT
Tài nguyên Môi trường
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Hoạt động chi tiêu từ các khoản doanh thu từ phí 21
Bảng 1.2: Phí đăng ký xe mới ở Hà Nội 24
Bảng 2.1: Cơ cấu ngành kinh tế của Hà Nội 29
Bảng 2.2: Chiến lược phát triển kinh tế của Hà Nội giai đoạn 2005 - 2030 30
Bảng 2.3: Nhu cầu giao thông theo phương tiện trong thành phố Hà Nội và các quận tiếp giáp 38
Bảng 2.4: Tỷ lệ hộ gia đình sở hữu phương tiện cá nhân ở Hà Nội 40
Bảng 2.5: Ước tính lượng thải các chất gây ô nhiễm từ các nguồn thải chính của Việt Nam năm 2005 47
Bảng 2.6: Tỷ lệ số lần quan trắc có nồng độ TSP trung bình 1 giờ vượt TCVN ở Hà Nội từ 2002-2006 48
Bảng 2.7 Các bệnh có tỷ lệ người mắc cao nhất trong phạm vi toàn quốc 51
Bảng 2.8 Dự báo số trường hợp bị ảnh hưởng đến sức khỏe liên quan đến ô nhiễm không khí ở Hà Nội 52
Bảng 3.1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu 60
Bảng 3.2: Tỷ lệ sử dụng phương tiện phân chia theo đặc điểm công việc 62
Bảng 3.3: Mức độ sử dụng phương tiện công cộng 63
Bảng 3.4: Số lượng người sử dụng phương tiện ứng với từng mức khoảng cách khác nhau 64
Bảng 3.5: Tỷ lệ sử dụng phương tiện giao thông ứng với từng mức khoảng cách khác nhau 64
Bảng 3.6: Ý kiến về đề xuất thu phí 66
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Lộ trình áp dụng tiêu chuẩn EURO của một số nước trên thế giới cho các phương tiện mới (xe hạng nhẹ) 17
Hình 1.2: Cổng tính phí đường điện tử ở Singapore 20
Hình 2.1: Bản đồ thành phố Hà Nội 28
Hình 2.2: Tốc độ gia tăng dân số Hà Nội qua các năm 31
Hình 2.3: Số lượng phương tiện vận tải chuyên nghiệp của Hà Nội qua các năm 33
Hình 2.4: Số lượng ô tô, xe máy đăng ký của Hà Nội qua các năm 33
Hình 2.5: Bản đồ quy hoạch phát triển GTVT thủ đô Hà Nội đến năm 2020 36
Hình 2.6: Số lượng xe máy trên 1000 dân ở các thành phố lớn của Việt Nam năm 2006 37
Hình 2.7 Số lượng hành khách vận tải bằng phương tiện GTCC tại Hà Nội qua các năm 42
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Hiện nay, khi nền kinh tế phát triển mạnh mẽ và nhu cầu sống của con người ngày càng được nâng cao thì vấn đề môi trường cũng trở thành vấn đề đáng quan tâm của toàn thể nhân loại. Nếu như cách đây mấy trăm năm chúng ta được sống trong một bầu không khí trong lành và tận hưởng sự phong phú đa dạng của các loài động thực vật, của nguồn tài nguyên thiên nhiên thì ngày nay chúng đang bị hủy hoại dần bởi bàn tay của chính chúng ta. Môi trường đang lên tiếng kêu cứu và cần sự quan tâm, bảo vệ của toàn thể nhân loại. Môi trường theo nghĩa rộng bao gồm đất, nước, không khí, cảnh quan,… và các nguồn tài nguyên phục vụ cho hoạt động sống của con người. Như vậy chính con người cũng là một yếu tố quan trọng của môi trường và có những tác động mạnh mẽ đến nó. Tất cả các nền kinh tế đều phải sử dụng các nguồn tài nguyên tự nhiên và môi trường để đảm bảo cho sự phát triển. Con người tác động đến môi trường tự nhiên để phục vụ cho các nhu cầu của mình và bất kỳ một sự biến đổi nào của môi trường tự nhiên cũng gây tác động ngược trở lại đối với nền kinh tế - xã hội. Đó chính là mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh tế và môi trường tự nhiên. Giải quyết tốt mối quan hệ này con người mới có thể xây dựng một nền kinh tế phát triển bền vững vì theo Barry Field và Naney Olewiler: “Một nền kinh tế bền vững là nền kinh tế trong đó đầu tư vốn xã hội cho phép nền kinh tế tăng trưởng để thế hệ tương lai ít nhất cũng có được mức phúc lợi xã hội như thế hệ hiện tại, trong khi vẫn duy trì được sự lành mạnh của hệ sinh thái.” Như vậy ta có thể thấy môi trường là một yếu tố quan trọng trong hệ thống kinh tế và nền kinh tế sẽ không thể hoạt động bình thường nếu thiếu các yếu tố tài nguyên môi trường. Đó chính là lý do mà con người phải hết sức quan tâm và ngày càng phải quan tâm nhiều hơn nữa đến các hoạt động của mình ảnh hưởng như thế nào đến môi trường và hạn chế tối đa những tác động có hại cho môi trường tự nhiên.
Một trong những vấn đề môi trường đang diễn ra bức xúc hiện nay đó là ô nhiễm không khí đặc biệt là không khí tại các khu đô thị do hoạt động giao thông của con người. Khả năng đi lại và tiếp cận hiệu quả là nền tảng để con người dần tiến đến thực hiện mục tiêu phát triển bền vững. Tuy nhiên, một sự thật là, khi các đường phố ngày càng bị ách tắc và ô nhiễm, các thành tựu đã đạt được trong phát triển kinh tế càng phải đối mặt với rủi ro. Nhu cầu đi lại và mật độ dân cư ngày càng tăng cao, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nôi, thành phố Hồ Chí Minh khiến cho tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm không khí và tai nạn giao thông trở thành nỗi bức xúc của hầu hết mọi người, làm giảm chất lượng cuộc sống và gây tác hại không nhỏ đến sự tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững. Phương tiện giao thông đang thải ra các chất độc hại là nguyên nhân gây ung thư và bệnh về đường hô hấp cho con người. Không những vậy, nó còn đang dần phá hủy chất lượng môi trường đô thị, năng suất kinh tế và công bằng xã hội. Ở nhiều nước đang phát triển và chuyển đổi, ô nhiễm không khí gây nên chi phí xã hội và kinh tế lớn, thiệt hại của nó chiếm tới 6% thu nhập đô thị trong đó khí thải từ các phương tiện giao thông là tác nhân gây hại lớn nhất. Như vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có cơ cấu thể chế, biện pháp quản lý, các biện pháp kinh tế và công nghệ nhằm giảm lượng khí thải của các phương tiện giao thông thải vào môi trường.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Sử dụng biện pháp thu phí nhằm hạn chế phương tiện giao thông cá nhân trên địa bàn thành phố Hà Nội cho mục đích nâng cao chất lượng môi trường”
2. Mục tiêu của đề tài:
Căn cứ vào việc tìm hiểu kinh nghiệm quản lý môi trường không khí bằng các công cụ kinh tế tại một số quốc gia trên thế giới để từ đó xác định mức phí đối với phương tiện giao thông cá nhân (PTGTCN), nhằm hạn chế loại hình giao thông này, giảm ô nhiễm môi trường và ách tắc trên địa bàn thành phố Hà Nội. Ngoài ra, chuyên đề còn đưa ra:
Tổng quan cơ sở lý luận về ô nhiễm không khí và các biện pháp kiểm soát khí thải đang được sử dụng thành công tại một số quốc gia Châu Á, và một số quốc gia khác để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Khái quát thực trạng giao thông tại Hà Nội, phân tích những ảnh hưởng của ô nhiễm không khí do PTGT gây ra và một số biện pháp đã và đang được thực hiện.
Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc kiểm soát khí thải đối với PTGTCN trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Phạm vi nghiên cứu:
◘ Về không gian lãnh thổ: Địa bàn thành phố Hà Nội
◘ Về thời gian nghiên cứu: Điều tra, phỏng vấn vào tháng 4/2009, sử dụng số liệu thống kê các năm trước cho đến năm 2007
◘ Về giới hạn khoa học: Phân tích thực trạng giao thông và việc kiểm soát khí thải PTGT trên địa bàn Hà Nội từ đó đưa ra những biện pháp quản lý phù hợp với tình hình thực tế. Biện pháp được chú trọng ở đây là biện pháp kinh tế mà trọng tâm là hình thức thu phí đối với PTGTCN.
4. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng:
Phương pháp thu thập thông tin: Các thông tin và dữ liệu được tổng hợp thứ cấp và phỏng vấn trực tiếp trong thời gian tháng 4/2009 đối với người dân hiện đang sinh sống, học tập và làm việc trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Phương pháp thực địa: Khảo sát tình hình giao thông và thực trạng kiểm soát khí thải do PTGTCN gây ra trên địa bàn Hà Nội.
Phương pháp điều tra xã hội học: Là phương pháp thu thập thông tin về các hiện tượng và quá trình xã hội để từ đó tìm hiểu thêm thông tin phục vụ cho quá trình thực hiện đề tài.
Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của các cán bộ môi trường tại Tổng cục Môi trường.
Phương pháp xử lí số liệu bằng các phần mềm Excel: Nhập các thông tin, số liệu thu thập được từ quá trình điều tra phỏng vấn và sử dụng công cụ SUBTOTAL, SORT, FILTER trong Excel để xử lý số liệu.
5. Cấu trúc nội dung của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung của đề tài được trình bày theo ba chương:
Chương I: Quản lý môi trường bằng biện pháp sử dụng phí nhằm hạn chế PTGTCN
Chương II: Hiện trạng sử dụng PTGTCN trên địa bàn Hà Nội và áp dụng các loại phí
Chương III: Sử dụng biện pháp thu phí nhằm hạn chế PTGTCN trên địa bàn Hà Nội
CHƯƠNG I: QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG BẰNG BIỆN PHÁP SỬ DỤNG PHÍ NHẰM HẠN CHẾ PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG CÁ NHÂN
1.1 Phí môi trường là một loại công cụ kinh tế:
1.1.1 Khái niệm công cụ kinh tế:
Theo Giáo trình Quản lý Môi trường xuất bản năm 2001, một số đặc trưng cơ bản của công cụ kinh tế hay còn gọi là công cụ dựa vào thị trường được phản ánh trong các định nghĩa sau:
Công cụ kinh tế là những công cụ chính sách nhằm thay đổi chi phí và lợi ích của những hành động của hoạt động kinh tế thường xuyên tác động tới môi trường, tăng cường ý thức trách nhiệm trước việc gây ra hủy hoại môi trường.
Công cụ kinh tế sử dụng sức mạnh thị trường để đề ra các quyết định nhằm đạt tới các mục tiêu môi trường, từ đó sẽ có cách ứng xử hiệu quả chi phí cho bảo vệ môi trường.
Công cụ kinh tế đơn giản là con đường mà Chính phủ có thể thay đổi hành vi của của mọi người thông qua việc lựa chọn những phương thức kinh tế khác nhau hoặc giảm thiểu chi phí trên thị trường nhằm mục tiêu môi trường.
Công cụ kinh tế là biện pháp “cung cấp những tín hiệu thị trường để giúp cho những người ra quyết định ghi nhận hậu quả môi trường trong việc lựa chọn của họ”.
Trong tất cả những định nghĩa trên ta có thể rút ra hai điểm cơ bản để làm sáng tỏ thêm nội dung của công cụ kinh tế:
- Công cụ kinh tế hoạt động thông qua giá cả, chúng nâng giá của các hành động làm tổn hại đến môi trường lên hoặc hạ giá của các hành động bảo vệ môi trường xuống.
- Công cụ kinh tế dành khả năng lựa chọn cho các công ty và cá nhân hành động sao cho phù hợp với điều kiện của họ.
* Sự cần thiết của việc sử dụng các công cụ kinh tế:
Hiện nay, vấn đề môi trường đã trở thành vấn đề đáng quan tâm của toàn thể nhân loại. Khi dân số tiếp tục tập trung ngày càng đông vào các khu đô thị thì việc đảm bảo giao thông bền vững càng trở nên cấp bách đối với xã hội, kinh tế và môi trường đòi hỏi cần phải có những công cụ thích hợp và hiệu quả để giải quyết vấn đề này.
Ở Việt Nam, quan niệm công cụ kinh tế như một phương tiện chính sách quản lý môi trường là điều hoàn toàn mới mẻ. Trước thời kỳ đổi mới, quản lý đất nước chủ yếu bằng mệnh lệnh, chỉ huy từ một trung tâm gần giống như “điều hành và kiểm soát” (CAC) ở các nước Tư bản. Từ khi Đảng và Nhà nước bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã có những bước đi mới mẻ, khôn khéo và phù hợp hơn với điều kiện của đất nước. Vấn đề quản lý môi trường bằng các công cụ mệnh lệnh và kiểm soát trước đây cũng bắt đầu bộc lộ nhiều hạn chế và kém hiệu quả như:
• Năng lực quản lý môi trường giảm dần do nguồn ngân sách dành cho môi trường thường xuyên bị cắt giảm, các nhà quản lý không có đủ điều kiện vật chất cũng như kỹ thuật để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của mình.
• Sự quan tâm đến môi trường mang tính cứng nhắc, các phương tiện chính sách thông qua giá cả vốn mềm dẻo và linh hoạt không được chú trọng mà chủ yếu là các “mệnh lệnh và kiểm soát”. Hình thức quản lý này không thể phù hợp và có hiệu quả đối với vấn đề môi trường mang tính nhạy cảm và luôn có sự biến đổi không ngừng.
Những điểm hạn chế trên dẫn đến yêu cầu áp dụng công cụ quản lý thông qua giá có tính mềm ẻo và linh hoạt hơn để cho mọi cá nhân, doanh nghiệp và các công ty có thể hưởng ứng giá mong muốn. Biện pháp quản lý môi trường bằng các công cụ kinh tế có những điểm thuận lợi vượt trội hẳn so với các biện pháp quản lý khác như:
• Tăng hiệu quả chi phí.
• Khuyến khích nhiều hơn cho việc đổi mới.
• Khả năng tiếp cận và xử lý thông tin tốt hơn.
Những nguyên nhân được nêu ra ở trên cho thấy tính thiết yếu của việc sử dụng các công cụ kinh tế trong việc quản lý các vấn đề môi trường. Những thuận lợi của việc áp dụng các công cụ kinh tế không chỉ mang tính chất lý thuyết, mà hiệu quả chi phí còn có thể đạt được khi áp dụng các công cụ kinh tế vào thực tiễn.
* Các loại công cụ kinh tế:
Thuế tài nguyên: Là một khoản thu của Ngân sách Nhà nước đối với doanh nghiệp về việc sử dụng các dạng tài nguyên thiên nhiên trong quá trình sản xuất. Thuế tài nguyên bao gồm một số sắc thuế chủ yếu như thuế sử dụng đất, thuế sử dụng nước, thuế rừng, thuế tiêu thụ năng lượng, thuế khai thác tài nguyên khoáng sản,…
Thuế/phí môi trường: Là công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường vào sản phẩm theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Thuế/phí môi trường nhằm hai mục đích chủ yếu là Khuyến khích người gây ô nhiễm giảm lượng chất ô nhiễm thải ra môi trường và tăng nguồn thu cho ngân sách. Trên thực tế, nó được áp dụng dưới nhiều dạng khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu và đối tượng ô nhiễm như: Thuế/phí đánh vào nguồn ô nhiễm, thuế/phí đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm, phí đánh vào người sử dụng.
Giấy phép và thị trường giấy phép môi trường: Giấy phép môi trường thường được áp dụng cho các tài nguyên môi trường khó có thể quy định quyền sở hữu và vì thế thường bị sử dụng bừa bãi như không khí, đại dương.
Hệ thống đặt cọc - hoàn trả: Là hệ thống được sử dụng trong hoạt động bảo vệ môi trường bằng cách quy định các đối tượng tiêu dùng các sản phẩm có khả năng gây ô nhiễm môi trường phải trả thêm một khoản tiền (đặt cọc) khi mua hàng, nhằm đảm bảo cam kết sau khi tiêu dùng sẽ đem sản phẩm đó (hoặc phần còn lại của sản phẩm đó) trả lại cho các đơn vị thu gom phế thải hoặc tới những địa điểm đã quy định để tái chế, tái sử dụng hoặc tiêu hủy theo cách an toàn đối với môi trường.
Ký quỹ môi trường: Là công cụ kinh tế áp dụng cho các hoạt động kinh tế có tiềm năng gây ô nhiễm và tổn thất môi trường. Nội dung chính là yêu cầu các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh trước khi tiến hành một hoạt động đầu tư phải ký gửi một khoản tiền tại ngân hàng hay tổ chức tín dụng, nhằm đảm bảo sự cam kết về thực hiện các biện pháp để hạn chế ô nhiễm, suy thoái môi trường.
Trợ cấp môi trường: Là công cụ nhằm giúp đỡ các ngành công – nông nghiệp và các ngành khác khắc phục ô nhiễm môi trường trong điều kiện khi tình trạng ô nhiễm quá nặng nề hoặc khả năng tài chính của doanh nghiệp không chịu đựng được đối với việc xử lý ô nhiễm.
Nhãn sinh thái: Là một danh hiệu của Nhà nước cấp cho các sản phẩm không gây ra ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất ra sản phẩm hoặc quá trình sử dụng sản phẩm đó.
Quỹ môi trường: Là một thể chế hoặc một cơ chế được thiết kế để nhận tài trợ vốn từ các nguồn khác nhau, và từ đó phân phối các nguồn tài trợ này để hỗ trợ quá trình thực hiện các dự án hoặc các hoạt động cải thiện chất lượng môi trường.
* Ưu và nhược điểm của công cụ kinh tế:
Ưu điểm:
Người gây ô nhiễm sẽ phải tự điều chỉnh mức phát thải của mình sao cho phù hợp với thuế (hoặc giá).
Khi đã xác định được và cố định mức phí (thuế) phù hợp thì kết quả đạt được từ việc sử dụng mức phí (thuế) này sẽ có chi phí thấp nhất.
Công cụ kinh tế tạo động lực khuyến khích các hành vi “thân thiện với môi trường”
Công cụ kinh tế có tính linh hoạt cao. Tỷ lệ phí có thể thay đổi dễ dàng, điều chỉnh sao cho phù hợp dễ dàng hơn việc thay đổi các quy định, luật pháp.
Khoản tiền thu được từ việc nộp phí (thuế) đóng góp một phần vào ngân sách chung của Nhà nước và tạo thêm nguồn thu dành riêng cho các hoạt động bảo vệ, cải thiện môi trường.
Nhược điểm:
Công cụ kinh tế không thể áp dụng trong những trường hợp ô nhiễm môi trường ở mức độ nghiêm trọng và gây rủi ro về sức khoẻ.
Do là một hình thức quản lý mới nên để có thể sử dụng hiệu quả các công cụ kinh tế trong lĩnh vực môi trường cần thiết phải có một đội ngũ chuyên gia đã được qua đào tạo về mặt chuyên môn và các cơ quan quản lý môi trường có uy tín. Đây là một khó khăn lớn đối với các nước đang phát triển vốn chưa có đầy đủ điều kiện kinh tế, kỹ thuật cũng như kinh nghiệm quản lý.
Trong quá trình thực hiện quản lý bằng các công cụ kinh tế, nếu không có sự đồng thuận của hầu hết các tầng lớp dân cư thì có thể dẫn đến việc không thực hiện được hoặc thực hiện không hiệu quả.
Công cụ kinh tế Trợ cấp đôi khi là vô lý và kém hiệu quả, dễ có khả năng làm tăng ô nhiễm môi trường do trong một vài trường hợp, người gây ô nhiễm lại được nhận tiền trợ cấp.
1.1.2 Phí môi trường
Phí môi trường là công cụ kinh tế nhằm đưa chi phí môi trường vào giá thành sản phẩm theo nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”.
Tùy theo mục đích và đối tượng quản lý, có thế chia phí môi trường thành các dạng khác nhau như: Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm, phí đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm và phí đánh vào người sử dụng.
◘ Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm: Là loại phí đánh vào các chất gây ô nhiễm thải vào nguồn nước, không khí, đất hoặc gây tiếng ồn, ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Người ta xác định mức phí cho nguồn gây ô nhiễm này căn cứ vào khối lượng và hàm lượng các chất gây ô nhiễm.
◘ Phí đánh vào sản phẩm gây ô nhiễm: Là loại phí được áp dụng đối với những loại sản phẩm một khi chúng được sử dụng trong các quá trình sản xuất, tiêu dùng hay hủy bỏ chúng. Loại phí này được áp dụng đối với các loại sản phẩm có chứa chất độc hại cho môi trường như kim loại nặng, PVC, CFCs, xăng pha chì, các nguyên liệu chứa Cac-bon và sulphat, pin/ ắc quy có chứa chì, thủy ngân, các loại vỏ hộp, vỏ chai, giấy bao gói… Phí đánh vào sản phẩm hiện đang được sử dụng rộng rãi ở các nước OECD dưới dạng phí tính vào giá xăng dầu, phân bón, thuốc trừ sâu, bột tẩy giặt…
◘ Phí đánh vào người sử dụng: Là tiền phí phải trả do được sử dụng các hệ thống dịch vụ công cộng xử lý và cải thiện chất lượng môi trường, như phí vệ sinh thành phố, phí thu gom và xử lý rác thải, phí sử dụng nước sạch, phí sử dụng đường và bãi đỗ xe, phí sử dụng danh lam thắng cảnh…
Các khoản thu được từ phí môi trường được sử dụng để xây dựng hệ thống đường sá, cầu cống, xây dựng hệ thống quản lý và kiểm soát ô nhiễm môi trường, xử lý, khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do con người gây ra. Tóm lại, khoản thu từ phí môi trường được sử dụng cho mục tiêu nâng cao chất lượng môi trường. Tuy nhiên, trong thực tế, việc áp dụng phí môi trường gặp phải nhiều khó khăn, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển và còn thiếu kinh nghiệm quản lý trong đó có Việt Nam. Có thể kể đến một số khó khăn như sau:
Thứ nhất, thiếu các tiêu chuẩn thích hợp và các khả năng giám sát và thực thi hữu hiệu. Vì vậy sẽ khó có thể đưa ra lý do buộc các hãng phải báo cáo về mức xả thải của họ và nộp phí. Vấn đề về quy định về đối tượng nộp phí, mức phí, chế độ thu và quản lý việc sử dụng phí bảo vệ môi trường cũng gặp nhiều khó khăn do hệ thống pháp luật nước ta chưa được hoàn thiện (vấn đề này hiện đang được thảo luận trong Nghị định 146).
Thứ hai, trong thực tế, việc đề ra mức phí phải chịu sự phản kháng rất nhiều của người dân.
Thứ ba, chưa có các cưỡng chế thi hành thỏa đáng, mức phí chưa đủ cao để có thể có được tác động lớn đối với hành vi của những người gây ô nhiễm, cho nên chức năng chính của các phí vẫn chỉ là cung cấp, tài trợ cho các chi phí xây dựng và vận hành các phương tiện xử lý ô nhiễm và tiến hành các hoạt động khác của Chính phủ nhằm nâng cao chất lượng môi trường.
1.1.3 Cơ sở xác lập phí môi trường:
Theo Luật Bảo vệ Môi trường năm 2005, việc xác lập mức phí môi trường được căn cứ vào một số cơ sở sau:
◘ Khối lượng chất thải thải ra môi trường, quy mô ảnh hưởng tác động xấu đối với môi trường.
◘ Mức độ độc hại của chất thải, mức độ gây hại đối với môi trường.
◘ Sức chịu tải của môi trường tiếp nhận chất thải.
1.2 Sử dụng phí môi trường trong lĩnh vực hạn chế PTGTCN
Phí môi trường được sử dụng trong lĩnh vực hạn chế PTGTCN là loại phí đánh trực tiếp vào các PTGT mà con người sử dụng. PTGTCN gây ô nhiễm không khí chủ yếu là ô tô và xe máy. Việc áp dụng hình thức thu phí đối với hai loại PTGT này nhằm mục đích giảm thiểu mức độ sử dụng, tránh gây ô nhiễm môi trường và tắc nghẽn giao thông trong những giờ cao điểm tại các khu đô thị dân cư đông đúc nói chung và tại Hà Nội nói riêng.
1.2.1 Phương pháp xác lập mức phí:
Tại Việt Nam, việc sử dụng các công cụ kinh tế để quản lý các vấn đề môi trường vẫn còn là một hình thức hoàn toàn mới mẻ. Đặc biệt là hình thức thu phí đối với PTGTCN hiện vẫn chưa được áp dụng rộng rãi và chưa được nhiều người biết đến. Vậy để có thể quản lý hiệu quả môi trường không khí bằng hình thức này, vấn đề đặt ra trước tiên là phải xác định được một mức phí hợp lý để vẫn đảm bảo được các mục tiêu về xã hội.
Trên thế giới, nhiều nước phát triển đã áp dụng hiệu quả biện pháp này để giải quyết vấn đề tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm không khí cho các thành phố lớn của họ. Việt Nam có thể tham khảo những kinh nghiệm này nhưng không thể áp dụng một cách máy móc mà cần phải có những điều chỉnh sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế cũng như cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của đất nước mình. Tại TP Hồ Chí Minh, bắt đầu từ năm 2007 đã có 3 lần đề xuất thu phí đối với PTGTCN: (1) Tháng 1-2007, Sở Giao thông công chính TP (nay là Sở Giao thông Vận tải) đề xuất thu phí môi trường để hạn chế PTGTCN. Theo đó, xe máy phải đóng 10.000 đồng/tháng, ô tô đóng 200.000 đồng/tháng. (2) Đến tháng 9-2007, Sở Giao thông công chính lại nhắc đến đề xuất này một lần nữa và lúc này, mức phí đã được tăng lên là 5 triệu đồng/năm đối với ô tô đang lưu hành và 10 triệu đồng/năm với ô tô mới, 1-2 triệu đồng/năm đối với xe máy đang lưu hành và 2-4 triệu đồng/năm đối với xe máy mới. (3) Tháng 11-2007, Cục Đường bộ Việt Nam đề xuất thu phí quản lý với các phương tiện lưu thông giờ cao điểm tại TP.HCM và Hà Nội. Các phương tiện lưu thông trong khoảng thời gian từ 6 giờ 30 đến 8 giờ 30 và 16 giờ 30 đến 19 giờ sẽ phải nộp phí 20.000 đồng/ngày đối với ô tô và 10.000 đồng/ngày đối với xe máy. Tuy nhiên, những đề xuất trên bị sự phản đối rất quyết liệt của người dân vì nếu được áp dụng, nó sẽ làm tăng gánh nặng về tài chính cho mỗi hộ gia đình, mà do điều kiện không cho phép, họ vẫn phải sử dụng các PTGTCN để phục vụ cho nhu cầu đi lại hàng ngày. Từ thực tế đó, để đề xuất mức phí cho mình, TP Hà Nội tiếp thu kinh nghiệm của TP.HCM nhưng cần phải điều chỉnh sao cho hợp lý hơn, phù hợp với điều kiện sống, điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông của TP.
Mức phí đề ra được đánh giá là hợp lý khi mức phí này vừa được sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân lại vừa đem lại hiệu quả trong việc quản lý. Như vậy, để xác định được mức phí, trước hết cần có những cuộc điều tra, khảo sát, thăm dò ý kiến của người dân. Tức là cần tiến hành một cuộc điều tra xã hội học để có được thông tin về điều kiện sống, phương tiện đi lại cũng những hiểu biết và mức sẵn lòng chi trả của họ cho mục tiêu bảo vệ môi trường và giải quyết ách tắc giao thông trong những giờ cao điểm. Kết quả thu được từ việc điều tra sẽ là căn cứ cho các nhà quản lý xác lập mức phí. Ngoài ra, việc xác lập mức phí cần phải có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, Ban, Ngành như Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Tài nguyên môi trường…
1.2.2 Những thuận lợi và khó khăn khi sử dụng mức phí:
Thuận lợi:
◘ Điều chỉnh hành vi của con người theo hướng có lợi hơn đối với môi trường. Áp dụng mức phí, người dân sẽ có ý thức được về những hoạt động của mình gây tác hại cho môi trường như thế nào để từ đó có ý thức hạn chế ở mức có thể các hoạt động đó (chỉ đi ra ngoài khi có việc thật cần thiết đặc biệt là vào giờ cao điểm, cố gắng đi làm cùng nhau thay vì hai người đi hai xe, đi bộ hoặc đi xe đạp đi làm trong điều kiện nơi làm việc không xa nơi ở, sử dụng phương tiện giao thông công cộng trong những trường hợp thuận lợi…). Từ đó có thể từng bước giải quyết được vấn đề tắc nghẽn giao thông trong những giờ cao điểm ở khu vực trung tâm của TP.
◘ Tạo thêm một khoản thu đáng kể để phục vụ cho đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, quy hoạch mở rộng đường phố, phát triển hệ thống giao thông công cộng và cải thiện chất lượng môi trường không khí.
◘ Áp dụng phí môi trường đối với PTGTCN, người dân sẽ phải cân nhắc giữa việc sử dụng ô tô, xe máy đi làm hay đi xe đạp hoặc đi xe bus vì mục tiêu kinh tế. Sở dĩ đạt được mục tiêu này là do hiện tồn tại một vấn đề về thói quen đi lại từ lâu đã ăn sâu trong nếp sinh hoạt của người dân đô thị nên họ có thể sử dụng xe máy, ô tô trong khi ở một số khu vực, việc sử dụng xe bus cũng khá thuận tiện và không mất nhiều thời gian.
Nhược điểm:
◘ Phương tiện cá nhân hiện đang phải gánh chịu rất nhiều loại phí như phí phát triển hạ tầng giao thông, phí hỗ trợ xe buýt, phí cho cải thiện môi trường… Vì vậy, nếu áp dụng thêm phí thì sẽ tạo gánh nặng về tài chính cho người d
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111383.doc