Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia.Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế.Sự tổng hòa mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển.
Nói cách khác quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế.
Do vậy,nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho mỗi sinh viên chúng ta,đặc biệt là sinh viên khối kinh tế,có thêm những hiểu biết ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới;hiểu được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật đó trong xây dựng kinh tế ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và sự vận dụng quy luật đó trong xây dựng kinh tế ở Việt nam
A.TỔNG LUẬN
B.NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Phương thức sản xuất,hai bộ phận cấu thành phương thức sản xuất
2.Qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
II.THỰC TRẠNG VẬN DỤNG QUI LUẬT PHÙ HỢP CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG XÂY DỰNG KINH TẾ
Ở NƯỚC TA
1.Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xây dựng kinh tế ở Việt Nam khi tiến hành đổi mới2.Thực trạng vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong xây dựng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 1986 đến nay
III.MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM DỰA TRÊN QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
C.KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Triết học Mác-Lê nin
2.Tạp chí cộng sản
3.Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin
4.Hỏi đáp về triết học Mác-Lênin
5.Tạp chí Triết Học
6.Tạp chí nghiên cứu Văn,Sử,Địa
A.TỔNG LUẬN
1)Lý do chọn đề tài:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến trong công cuộc xây dựng đất nước của mỗi quốc gia.Sự mâu thuẫn hay phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đều có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế.Sự tổng hòa mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tạo nên một nền kinh tế có lực lượng sản xuất kéo theo một quan hệ sản xuất phát triển.
Nói cách khác quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là một điều kiện tất yếu để phát triển một nền kinh tế.
Do vậy,nghiên cứu về quy luật này sẽ giúp cho mỗi sinh viên chúng ta,đặc biệt là sinh viên khối kinh tế,có thêm những hiểu biết ban đầu và sâu sắc hơn về sự phát triển của nước ta cũng như trên thế giới;hiểu được quy luật vận động của nền kinh tế từ đó có thể góp một phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng nước nhà sau này.
2)Tình hình nghiên cứu của đề tài.
Sự tất thắng của chủ nghĩa cộng sản,sự thay thế xã hội chủ nghĩa bằng xã hội cộng sản chủ nghĩa trong tiến trình lịch sử của nhân loại là một quy luật khách quan.Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ quá độ ,chúng ta đã bỏ qua giai đoạn tư đoạn tư bản chủ nghĩa,tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.Vì vậy trong quá trình phát triển,luôn luôn nảy sinh những vấn đề cần giải quyết.Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chính phủ,chúng ta đã có những chiến lược và sách lược đúng đắn.
Trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa Mác-Lênin,đặc biệt là lý luận triết học Mác-Lênin,chúng ta đã vạch rõ được con đường phát triển kinh tế đúng đắn đó là:”Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để đưa xã hội chuyển sang phương thức sản xuất mới cao hơn”.Từ năm 1986 chúng ta đã tổng kết được những bài học kinh nghiệm quý báu để đổi mới và cải cách kinh tế.Những quan điểm đổi mới,tiến bộ đó là sự tôn trọng hoàn toàn những lý luận quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chi phối nền kinh tế.
Đứng trên quan điểm triết học Mác-Lênin,ta càng có cơ sở để khẳng định những khởi sắc trong mười năm đổi mới cho đến nay từ sau Đại Hội Đảng lần thứ VI là những thành công mang tính tất yếu do chúng ta đã vận dụng đúng đắn quy luật phù hợp QHSX-LLSX vào thực tiễn.
3/Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Luôn luôn trau dồi kiến thức,rèn luyện đạo đức để phát triển lực lượng sản xuất nước nhà thông qua sự hiểu biết sâu rộng quy luật là một phương châm hạnh động của sinh viên thời đại mới.Nghiên cứu quy luật sự phù hợp LLSX-QHSX trong mối liên quan với phát triển kinh tế xã hội.
Muốn phát triển kinh tế vững mạnh thì phải đặt nó trong mối quan hệ với những khoa học khác,đặc biệt là triết học.Sự thành công hay thất bại,phát triển hay lạc hậu của bất kỳ nền kinh tế nào là do có lập trường triết học đúng đắn.Bởi vì xuất phát từ một lập trường triết học đúng đắn,con người có thể có được cách giải quyết phù hợp với những vấn đề do cuộc sống đặt ra.Còn ngược lại,xuất phát từ một lập trường triết học sai lầm,con người khó có thể tránh khỏi hành động sai lầm.Trong hoạt động kinh tế,một lập trường triết học đúng đắn là tối cần thiết.Chỉ có triết học Mác-Lênin mới có được tính ưu việt này.
4/Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Tập trung phân tích vấn đề phương thức sản xuất và quy luật sự phù hợp QHSX-LLSX,hoạt động xây dựng kinh tế,đổi mới kinh tế những năm gần đây và mối liên hệ của nó với quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất và các quy luật trung tâm là nội dung của đề tài này.
5/Phương pháp nghiên cứu:
Trong đề tài này tôi đã sử dụng phương pháp phân tích,tổng hợp và khảo sát.
B.NỘI DUNG
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử phương thức sản xuất biểu thị cách con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người.Dưới sự vận động của lịch sử loài người,cũng như sự vận động của mỗi xã hội cụ thể,sự thay đổi về phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có tính chất cách mạng.Trong sự thay đổi đó,các quá trình kinh tế,xã hội được chuyển sang một chất mới.Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau.Mà phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.Đó cũng chính là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Do vậy,quy luật trên trước hết là quy luật kinh tế nhưng hơn thế nữa nó còn là quy luật cơ bản nhất của toàn bộ đời sống xã hội của lịch sử nhân loại bởi vì nó là quy luật của bản thân phương thức sản xuất.Sự tác động của quy luật này tới sự thay đổi của phương thức sản xuất và kéo theo sự thay đổi của toàn bộ đời sống xã hội.
Vì các lý do trên,quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có ý nghĩa hết sức to lớn.Tuy nhiên,việc nắm bắt quy luật này lại không phải là điều đơn giản,nhận biết được QHSX có phù hợp vơi tính chất và trình độ phát triển của LLSX hay không hoàn toàn phải phụ thuộc vào thực tiễn cảu sản xuất và kinh nghiệm bản thân.Với những chính sách,đường lối và chủ trương đúng đắn,nắm bắt tốt quy luật của Đảng và Nhà nước,nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đã phát triển mạnh mẽ,đưa đất nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu phát triển thành nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến ;góp phần đẩy nhanh nền kinh tế nước nhà đi sang một hướng khác,sánh vai cùng các nước trong khu vực và trên thế giới.
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Phương thức sản xuất,hai bộ phận cấu thành phương thức sản xuất
a)Phương thức sản xuất
Sơ đồ:Phương thức sản xuất
-Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người,theo cách đó,con người có quan hệ nhất định với tự nhiên và với nhau trong sản xuất.
-Nói cách khác,phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng.
-Lịch sử xã hội loài người đã và đang trải qua 5 phương thức sản xuất khác nhau:Phương thức sản xuất công xã nguyên thủy,phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ,phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Hai bộ phận cấu thành của phương thức sản xuất là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
b)Lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định,ở một thời kỳ nhất định
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ việc con người chinh phục tự nhiên bằng tất cả sức mạnh hiện thực của mình trong quá trình thực hiện nền sản xuất xã hội,là biểu hiện trình độ sản xuất của con người,là năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội.
Lực lượng sản xuất được tạo thành do sự kết hợp giữa lao động với tư liệu sản xuất mà trước hết là với công cụ lao động.Lao động trước hết là con người,người lao động với tính xã hội,các quan hệ xã hội trong đời sống xã hội hiện thực.Là một thành tố của lực lượng sản xuất,con người vừa là chủ thể-chủ thể sáng tạo và “tiêu dùng” sản phẩm của sản xuất,vừa là nguồn lực đặc biệt của sản xuất.
Sức mạnh vốn có của kỹ năng lao động cơ bắp của người lao động được nhân lên gấp bội nhờ kết hợp với công cụ lao động do con người tạo ra trong sản xuất.Điều chủ yếu nhất ở người lao động là lao động có trí tuệ.
Công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất,đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất.Công cụ lao động là khí quan của bộ óc con người,là sức mạnh tri thức đã được vật thể hóa để làm tăng sức mạnh trí tuệ của con người.Ngày nay,công cụ lao động đã đạt đến trình độ cao,được tin học hóa,tự động hóa…nên nó trở thành lực lượng hết sức to lớn và đáng kể.Ở mọi thời đại,công cụ lao động luôn luôn biến đổi,là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất.Việc thay đổi,hoàn thiện công cụ sản xuất do con người thực hiện không ngừng thường xuyên gây ra những biến đổi sâu sắc toàn bộ tư liệu sản xuất và cũng là nguyên nhân sâu sa của mọi biến đổi xã hội.
c)Quan hệ sản xuất:
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm:
-Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất chủ yếu.
-Quan hệ trong tổ chức,quản lý sản xuất.
-Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất,không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất,giữa ba mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong ba mặt của quan hệ sản xuất,quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát,quan hệ cơ bản,đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội.Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất,quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ xã hội khác.
2.Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sơ đồ:Mối quan hệ giữa LLSX và QHSX
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phụ thuộc và tác động lẫn nhau một cách biện chứng và biểu hiện thành một trong những quy luật cơ bản nhất của sự vận động của đời sống xã hội.
Sự biến đổi của sản xuất luôn luôn theo chiều tiến bộ và xét cho cùng,bao giờ cũng bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất,trước hết là công cụ lao dộng.Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất,quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Đương nhiên,khi trình độ của lực lượng sản xuất phát triển thì tính chất của nó cũng thay đổi theo. Với mỗi giai đoạn lịch sử đều được đặc trưng bởi một phương thức sản xuất và bao giờ cũng là sự thống nhất giữa hai mặt lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.Trong đó,lực lượng sản xuất là nội dung vật chất trong quá trình sản xuất còn quan hệ sản xuất là hình thức sản xuất của lực lượng sản xuất.Chính nhờ quan hệ sản xuất mà sản xuất vật chất mới được tiến hành.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất,biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động,trình độ kinh nghiệm về kỹ năng của con người,trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội.Trình độ lực lượng sản xuất là trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử xã hội.
Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của quá trình sản xuất ra sản phẩm.Lịch sử phát triển của lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội hóa.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phản ánh khả năng chinh phục tự nhiên của con người,khả năng này chưa đạt tới đỉnh cao khi quan hệ sản xuất chưa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái trong đó các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất tạo địa bàn đầy đủ cho lực lượng sản xuất phát triển.Chỉ khi nào cả ba mặt của quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,tạo điều kiện tốt nhất cho việc sử dụng và kết hợp giữa lao động và tư liệu sản xuất thì sẽ tạo ra cơ sở phát triển hết khả năng của lực lượng sản xuất.
*)Sự vận động,phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.
-Lực lượng sản xuất luôn luôn vận động,biến đổi,phát triển không ngừng:sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất được bắt nguồn trước hết từ công cụ sản xuất(con người luôn cải tiến và áp dụng công cụ sản xuất trong quá trình sản xuất). -Lực lượng sản xuất luôn vận động và phát triển nhờ người lao động với trình độ,kỹ năng,kỹ xảo ngày càng được nâng cao.
-Khoa học,kỹ thuật,công nghệ ra đời,con người áp dụng thành tựu khoa học,công nghệ vào quá trình sản xuất.
-Khi một quan hệ sản xuất mới ra đời,khi đó có sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ mới với tính chất xã hội hóa ở mức cao hơn sẽ xuất hiện mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất sẽ chuyển thành không phù hợp,Mâu thuẫn càng trở nên gay gắt tất yếu sẽ dẫn đến việc xã hội phải xóa bỏ bằng cách thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất đã thay đổi,mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.Điều này dẫn đến sự diệt vong của phương thức sản xuất cũ và sự ra đời của phương thức sản xuất mới.
Như vậy,lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của quan hệ sản xuất,một khi lực lượng sản xuất đã biến đổi thì sớm hay muộn quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi cho phù hợp.
*)Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động ngược trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
-Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất,quy định mục đích xã hội của sản xuất,tác động đến khuynh hướng phát triển của khoa học,công nghệ.Trên cơ sở đó hình thành một hệ thống những yếu tố thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.Khi quan hệ sản xuất phù hợp,phát triển hợp lý và đồng bộ với lực lượng sản xuất thì thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất.Trong trường hợp ngược lại,quan hệ sản xuất sẽ kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển.Nếu quan hệ sản xuất lạc hậu hoạc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo cũng sẽ làm cho lực lượng sản xuất không phát triển.Khi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã trở nên gay gắt,đòi hỏi phải được giải quyết mà con người không phát hiện ra,hay khi đã phát hiện được mà không giải quyết hoặc giải quyết một cách sai lầm…thì không thể phát triển được lực lượng sản xuất thậm chí là phá hoại lực lượng sản xuất.
II.THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VẬN DỤNG QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG XÂY DỰNG KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
1/Giai đoạn trước khi tiến hành đổi mới.
Năm 1960 Đại hội Đảng đã đề ra đường lối công nghiệp hóa và coi đây là trọng tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ.Tuy nhiên,do phải đương đầu với cuộc chiến kéo dài,lại có xuất phát điểm kinh tế chậm phát triển,nông nghiệp là chính nhưng mang tính chất tự túc tự cấp,cơ sở hạ tầng lạc hậu…Bên cạnh đó,chúng ta duy trì quá lâu mô hình tập trung,quan liêu,cơ cấu kinh tế mang tính chất khép kín,trong đó quá coi trọng công nghiệp nặng mà không chú ý đúng mức công nghiệp nhẹ và nông nghiệp,quan hệ đối ngoại không được chú ý.Tiêu dùng xã hội thực hiện theo phân phối định lượng bằng tem phiếu,thang bậc,dẫn đến không kích thích được người lao động,làm nản lòng người lao động trong sản xuất.Sau 5 năm,từ 1976 đến 1980,tổng sản phẩm xã hội mỗi năm trung bình chỉ tăng 1,18%,giá trị sản phẩm nông nghiệp chỉ tăng 0,4% trong khi dân số tăng 2,28%/năm.
Có thể thấy tư tưởng của Đảng trong thời kỳ này là nôn nóng muốn đưa nước ta tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn quốc.Trong khi chúng ta vừa thoát khỏi cuộc chiến tranh,tàn dư chế độ phong kiến còn tồn tại và hậu quả của chiến tranh rất nặng nề,cơ sở vật chất nghèo nàn,lạc hậu,trình độ dân trí thấp,khả năng quản lý kinh tế còn yếu, lực lượng sản xuất hết sức thấp kém.Chúng ta ồ ạt xây dựng một quan hệ sản xuất không tương xứng,cụ thể trong nông nghiệp xây dựng HTX cấp cao,tồn tai duy chỉ hai hình thức sở hữu là sở hữu tập thể và Nhà nước,thực hiện sở hữu toàn dân…Do đó làm cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất,không khuyến khích được người lao động và không huy động được nguồn lực trong xã hội.Nhìn chung thời kỳ này quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,do đó sản xuất không phát triển,nền kinh tế lâm vào khủng hoảng trì trệ kéo dài:sản xuất trì trệ,lưu thông phân phối ách tắc,ngân sách nhà nước thâm hụt lớn,lạm phát cao,đời sống rất khó khăn,lòng dân không yên.Cả nước phấn đấu hết sức mình cũng không đủ ăn,thu không đủ chi,xuất không đủ nhập.Nước ta vừa có hòa bình,vừa có nguy cơ phải đối đầu với cuộc chiến tranh mới,lại bị bao vây và cấm vận ngặt nghèo.Việc nhận thức tiến hành xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ trước rồi mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển là một sai lầm không tưởng,trái quy luật.
2)Giai đoạn từ sau đổi mới đến nay
Trong quá trình lãnh đạo xã hội đẩy mạnh phát triển kinh tế,Đảng ta đang vận dụng quy luật sao cho quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất,trên thực tế Đảng và Nhà nước ta đang từng bước điều chỉnh mối quan hệ sản xuất cả tầm vĩ mô và vi mô,đồng thời coi trọng việc đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất.Tuy nhiên kết quả thu được vẫn tồn tại một số hạn chế sau:
Lực lượng sản xuất:
-về lực lượng lao động:dân số lớn,lực lượng lao động tăng nhanh,trong đó chủ yếu là lao động nông thôn với trình độ lao động thấp,chủ yếu là lao động giản đơn,tỷ lệ thất nghiệp cao là vấn đề nhức nhối ở nước ta.
Những năm gần đây tình hình đã ngày càng được cải thiện rất tích cực cùng với sự dịch chuyển lao động từ khu vực kinh tế nhà nước sang làm cho các công ty liên doanh nước ngoài.Đây là quá trình chảy máu chất xám trong
-Tư liệu sản xuất:Công nghệ ở nước ta vào loại trung bình kém,công nghệ lạc hậu khoảng từ 2-5 thế hệ so với khu vực.
Quan hệ sản xuất:
-Cơ cấu sở hữu:Hiện nay ở nước ta bao gồm các loại hình sở hữu:sở hữu tư nhân,sở hữu nhà nước,sở hữu hợp tác,sở hữu hỗn hợp,sở hữu cá thể tiểu chủ.Tính đa dạng trong các hình thức sở hữu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước.
-Quan hệ quản lý còn khá nhiều bất cập:
+Chưa thực sự xây dựng được đồng bộ các yếu tố thị trường.
+Thực hiện quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường bất động sản,tuy nhiên còn tồn tại nhiều kẽ hở,vi phạm tràn lan.
+Quản lý xã hội thông qua pháp luật nhưng hệ thống pháp lý còn thiếu và kém khả thi do ý thức pháp luật của người dân chưa cao.
-Quan hệ phân phối thu nhập:Nhìn chung việc phân phối thu nhập trong khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác còn nhiều bất cập,khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp,các khu vực trong xã hội ngày càng tăng.
Hiện nay Đảng đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa,hiện đại hóa,xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.Muốn làm tốt trọng trách này,thì phải tạo điều kiện cho bản thân nền kinh tế trong đó thành phần kinh tế tư nhân là một thành phần rất năng động,hiệu quả.Có điều kiện này thì Đảng mới có thể có thêm kiến thức và kỹ năng nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo thành công mục tiêu tăng trưởng kinh tế đó chính là làm cho lực lượng sản xuất phát triển.
Trong tiến trình lãnh đạo và quản lý đất nước của Đảng và Nhà nước ta trong suốt mấy chục năm qua thực tiễn đã cho thấy những mặt được cũng như những mặt còn hạn chế trong quá trình nắm bắt và vận dụng các quy luật kinh tế cũng như quy luật quan hệ sản xuất-lực lượng sản xuất vào thực tiễn ở nước ta.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay,phát triển kinh tế tập trung ở hai lực lượng chính:lực lượng sản xuất của doanh nghiệp nhà nước(thường được gọi là quốc doanh,thuộc thành phần kinh tế nhà nước);lực lượng sản xuất ngoài quốc doanh(thường được gọi là dân doanh,thuộc kinh tế tư nhân).
III.GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM DỰA TRÊN QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT-LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT.
Ông bà ta thường nói:Muốn biết bơi phải nhảy xuống nước.Còn Lênin,trong tác phẩm “chính sách kinh tế mới và những nhiệm vụ của các Ban giáo dục chính trị”,đã viết: “Hoặc là tất cả những thành tựu về mặt chính trị của chính quyền Xô Viết sẽ tiêu tan,hoặc là phải làm cho những thành tựu ấy đứng vững trên một cơ sở kinh tế.Cơ sở này hiện nay chưa có.Đó chính là công việc mà chúng ta cần bắt tay vào làm đúng theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Con người không thể tự ý lựa chọn quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng một cách chủ quan duy ý chí. Sở hữu vừa là kết quả vừa là điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, là hình thức xã hội có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất. Chính vì vậy, mỗi loại hình, hình thức sở hữu chưa thể mất đi khi chúng còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, và cũng không thể tùy tiện dựng lên, hay thủ tiêu chúng khi lực lượng sản xuất không đòi hỏi. Do vậy, khi quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải tính đến sự biến đổi phức tạp từ quan hệ sản xuất, trong đó trực tiếp là chế độ sở hữu.
Quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa, cũng như quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề luôn thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu lý luận, song ở đây, vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.
Chúng ta đều biết, khi nghiên cứu xã hội tư bản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phát hiện ra mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn đó là cơ sở sâu xa làm nảy sinh các mâu thuẫn khác và quy định sự vận động phát triển của xã hội tư bản. Từ đó, các ông đi đến dự báo về sự thay thế chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa bằng chế độ công hữu. Việc thay thế chế độ tư hữu bằng chế độ công hữu, theo quan điểm của các ông, không thể tiến hành ngay một lúc, mà phải là một quá trình lâu dài. Tuy nhiên, vào giai đoạn lịch sứ đó, các ông chưa chỉ ra mô hình cụ thể về chế độ công hữu.
Kiểu quan hệ sản xuất - quan hệ sở hữu này hay kiểu quan hệ sản xuất - quan hệ sở hữu khác tuỳ thuộc vào tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Ở nước ta hiện nay trình độ lực lượng sản xuất còn thấp lại không đồng đều giữa các ngành, các vùng. Có những vùng, miền mà người dân vẫn dùng cái cuốc, con trâu để lao động nhưng cũng có nơi lao động trong phòng thí nghiệm, trong khu công nghệ cao.
Do vậy, tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xoá ngay mọi hình thức bóc lột. Chỉ đến khi trình độ xã hội hóa sản xuất phát triển cao mâu thuẫn với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì khi ấy mới có điều kiện chín muồi thực hiện cuộc cách mạng xây dựng xã hội không còn bóc lột. Chúng ta không thể thủ tiêu chế độ sở hữu ngay lập tức được mà chỉ có thể thực hiện dần dần, và chỉ khi nào đã tạo được một lực lượng sản xuất hiện đại, xã hội hóa cao độ với năng suất lao động rất cao thì khi đó mới xoá bỏ được chế độ tư hữu.
Đất nước chúng ta đang thực hiện nhất quán nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, mục đích là phải sản xuất ra thêm nhiều giá trị thặng dư. Vấn đề bóc lột hay không bóc lột thể hiện trong quan hệ phân phối. Bình đẳng trong phân phối được thực hiện dưới những hình thức cụ thể như thế nào là tùy thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với đất nước của chúng ta, đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường hợp với xu thế của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta. Tuy nhiên, chúng ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nên phải trải qua nhiều khâu trung gian (thời kỳ quá độ).
Điểm nổi lên là kinh tế của chúng ta còn quá nghèo nàn, lạc hậu … vì vậy khâu trọng yếu mà chúng ta phải xây dựng đó là phát triển lực lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời phải xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần (nhiều hình thức sở hữu đan xen nhau) là phù hợp với yêu cầu phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay.
Đồng thời không ngừng đổi mới chính trị, củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng đời sống văn hóa, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân, đẩy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111236.doc