Công cuộc đổi mới do Đảng ta phát động đã thu được những thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực đổi mới kinh tế. Để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới kinh tế, Nhà nước ta đã cho ra đời các văn bản pháp lý công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau, đó là: Kinh tế Nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tế tư nhân, Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh ngày nay, các loại hình kinh doanh được khuyến khích phát triển đa dạng và được phát triển ở mọi ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm. Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế, thì xây dựng cơ sở hạ tầng là nhu cầu cần thiết, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển và thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài phục vụ cho phát triển kinh tế. Toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế chỉ có thể được tạo ra thông qua các hoạt động xây dựng cơ bản, từ công trình xây dựng thuộc kết cấu hạ tầng, cơ sở sản xuất, công trình văn hoá - xã hội cho đến nhà ở của dân cư . Do vậy, Nhà nước cần phải có một chế độ quản lý thích hợp đối với lĩnh vực này để mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm nguồn vốn đầu tư cho hoạt động xây dựng cơ bản bằng những phương pháp tối ưu.
Nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý đầu tư và xây dựng, Chính phủ đã ban hành Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng kèm theo Nghị định 42/CP ngày 16/07/1996. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Quy chế Đấu thầu kèm theo Nghị định số 43/CP ngày 16/07/1996 để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng. Quy chế Đấu thầu đã bộc lộ những hạn chế, mặc dù Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 92/CP ngày 23/08/1997 Chính phủ và Quy chế Đấu thầu đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 93/CP ngày 23/08/1997. Chính vì vậy, ngày 08/07/1999 Chính Phủ ban hành Nghị định số 52/1999 NĐ-CP về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng thay thế Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định số 42/CP ngày 16/07/1996 và Nghị định số 92/CP ngày 23/08/1997. Đến ngày 01/09/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 88/1999/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế Đấu thầu thay thế Quy chế Đấu thầu kèm theo Nghị định số 43/Chính phủ ngày 16/07/1996 và Nghị định số 93/CP ngày 23/08/1997 của Chính phủ. Sau đó, ngày 05/05/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2000/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 và ngày 31/01/2003 Chính phủ lại ban hành Nghị định số 07/2003/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng. Ngày 05/05/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2000/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999. Đặc biệt được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/5/2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu. Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ra đời đã điều chỉnh các đối tượng là các dự án đầu tư và xây dựng, dự án đầu tư để mua sắm tài sản, dự án sử dụng ngân sách nhà nước, công trình xây dựng sử dụng vốn nhà nước, và các đối tượng đầu tư và xây dựng không sử dụng vốn nhà nước. Với phạm vi điều chỉnh là các dự án đầu tư của các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, các dự án sử dụng vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước, Còn Quy chế Đấu thầu áp dụng cho các dự án đầu tư thực hiện theo Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng; Các dự án liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc cổ phần có sự tham gia của các tổ chức kinh tế nhà nước; Các dự án sử dụng vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài và các dự án lựa chọn đối tác đầu tư.
Trong một thời gian thực hiện các văn bản nêu trên vẫn còn một số vấn đề còn chưa được áp dụng trong thực tiễn hoạt động của các cộng ty, mặt khác những văn bản pháp luật cũng còn có những tồn tại, hạn chế cần phải được khắc phục. Tuy nhiên, để việc áp dụng các văn bản pháp luật trên tại công ty được dễ dàng và thuận lợi đòi hỏi cán bộ, công nhân viên trong toàn công ty nói chung và các cán bộ làm công tác đấu thầu nói riêng phải được nghiên cứu, học tập các quy định của pháp luật trong lĩnh vự xây dựng, lĩnh vực đấu thầu cũng như các quy định khác của pháp luật.
Mặt khác, trong những năm gần đây việc đấu thầu các công trình xây dựng có nhiều sai sót, nhiều công trình thông qua đấu thầu chất lượng không đảm bảo. Trong đấu thầu thì các nhà thầu thi nhau hạ giá thầu, dư luận gọi đây là "phong trào đại hạ giá" hay còn được gọi là hiện tượng "phá giá trong đấu thầu". Đi cùng với hiện tượng "phá giá" là hiện tượng các nhà thầu liên kết, móc ngoặc với nhau một cách không lành mạnh và sự móc ngoặc giữa các nhà thầu với chủ đầu tư, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát và hội đồng xét thầu. Cùng với các hiện tượng trên là tình trạng mua bán, chuyển nhượng thầu bất hợp pháp. Chính điều này đã tạo ra một "mảnh đất màu mỡ" cho hàng loạt các tiêu cực xẩy ra, gây bất bình và bức xúc trong dư luận xã hội và gây mất lòng tin trong nhân dân và cũng gây khó khăn khốn đốn, trở ngại cho các nhà thầu chân chính.
Xuất phát từ nhận thức đó, đồng thời qua thời gian thực tập tại Công ty 789 – Bộ Quốc phòng, chúng tôi thấy một trong những hoạt động chủ yếu của công ty là đấu thầu xây dựng. Cho nên, chúng tôi chọn đề tài: “Quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Công ty 789 – Bộ Quốc phòng”.
Đề tài tập trung: Phân tích lý luận về đấu thầu và đấu thầu xây lắp; Đồng thời phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động tham gia đấu thầu xây lắp của Công ty 789-BQP để từ đó rút ra một số ý kiến và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý trong đấu thầu xây lắp nói chung và nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu xây lắp tại Công ty 789 nói riêng.
Luận văn tốt nghiệp bao gồm các nội dung sau:
+ Chương 1: Quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp
+Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp tại Công ty 789 –Bộ Quốc phòng
+Chương 3: Hoàn thiện quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu xây lắp tại Công ty 789.
Trong quá trình thực tập, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong Bộ môn Luật Kinh tế, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô Lê Hồng Anh và thầy Nguyễn Hữu Mạnh. Cùng các cô chú , anh chị tại Xí nghiệp 384 - Công ty 789 – Bộ Quốc phòng đã tận tình giúp đỡ về kiến thức và tạo điều kiện thu thập tài liệu bổ ích cho quá trình thực tập.
Dù đã có nhiều cố gắng, song do điều kiện về thời gian cũng như kiến thức nên Luận văn tốt nghiệp này không thể tránh khỏi những thiếu xót. Chúng tôi rất mong nhận được những nhận xét, ý kiến của đóng góp các thầy, cô giáo cùng bạn đọc đối với bản Luận văn tốt nghiệp này.
118 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1148 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Công ty 789 – Bộ Quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Trang
Mục lục ……………………………………….….……….……… 1
Lời nói đầu ………………………………………………..…..…. 4
Chương 1
Quy chế pháp lý chung về đấu thầu xây lắp
I – Khái quát chung về đấu thầu ……………………………… 7
Khái niệm đấu thầu …………………………………..…………...… 7
Phân loại đấu thầu ..…………………………………………….….. 10
Theo nội dung của quá trình tuyển chọn …………………….… 10
Theo hình thức lựa chọn nhà thầu ……………….…………..… 11
Theo phương thức đấu thầu ……………………………….……. 14
Theo phạm vi lãnh thổ ……………………………………..……. 15
Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây lắp ………………..…. 16
Nguyên tắc dữ liệu đầy đủ ………………………………….…… 16
Nguyên tắc bảo lãnh …………………………………………….. 16
Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau ………..……. 16
Nguyên tắc đánh giá công bằng ………………………………… 17
Nguyên tắc trách nhiệm phân minh …………………………….. 17
Nguyên tắc đảm bảo bí mật ………………………………….…… 17
II – Quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp ……………….…… 18
Quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong đấu thầu xây lắp .. .. 18
Quyền và nghĩa vụ của bên mời thầu …………………………… 18
Quyền và nghĩa vụ của nhà thầu ……………………………….. 18
Quyền và nghĩa vụ của nhà tư vấn …………………………….. . 19
Điều kiện thực hiện công tác đấu thầu …………..………………… . 20
Điều kiện đấu thầu trong nước ……………………………..…… 20
Điều kiện đấu thầu quốc tế và ưu đãi nhà thầu ……………….. 21
Quy trình đấu thầu xây lắp …………………………………………. 22
Chuẩn bị đấu thầu …………….………………………………... 22
Mời thầu …………………………………………………….…… 31
Tiếp nhận và quản lý hồ sơ dự thầu ……………………………. 32
Mở thầu …………………………………………..……………… 32
Xét thầu …………………………………………..……………… 34
Trình duyệt, thẩm định, phê duyệt và công bố kết quả đấu thầu.. 38
Thương thảo và hoàn thiện hợp đồng ………………………..…. 42
Vi phạm và xử lý vi phạm trong đấu thầu xây lắp …………..…..… 43
Các hành vi vi phạm chế độ pháp lý về đấu thầu xây lắp ..…….. 43
Xử lý vi phạm trong đấu thầu xây lắp ……………….……….… 43
Chương II
Thực tiễn áp dụng Quy chế Pháp lý về đấu thầu xây lắp tại Công ty 789 – Bộ Quốc Phòng
I - Khái quát chung về Công ty 789 – Bộ Quốc Phòng…….. 44
Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 789 ……………….. 44
Chức năng, nhiệm vụ và ngành nghề kinh doanh của công ty …….. 45
Cơ cấu, tổ chức bộ máy của công ty ………………………………… 47
Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ….……….… 54
II - áp dụng Quy chế Pháp lý về đấu thầu xây lắp tại
công ty 789 – Bộ Quốc Phòng ………………………………….. 60
Thực tiễn hoạt động tham gia đấu thầu xây lắp tại Công ty 789….. 60
Tình hình tham gia đấu thầu xây lắp tại công ty …….…..…….. 60
Những vấn đề nảy sinh trong quá tình tham gia đấu thầu ……... 63
Quy trình tham gia đấu thầu xây lắp tại Công ty 789 ………..…… 65
Đăng ký mua hồ sơ dự thầu …………………………………….. 65
Mua hồ sơ mời thầu …………………………………………….. 66
Lập hồ sơ dự thầu ……………………………………………..…. 66
Gửi hồ sơ dự thầu ………………………………………………... 77
Tham dự lế mở thầu …………………………………………..…. 77
Thương thảo và hoàn thiện hợp đồng giao nhận thầu xây dựng... 77
Chương III
Hoàn thiện quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu xây lắp tại Công ty 789 –Bộ Quốc Phòng
I - Thuận lợi và khó khăn trong thực tiễn áp dụng Quy
chế pháp lý về đấu thầu xây lắp của Công ty 789 ……. 79
Thuận lợi của công ty khi áp dụng quy chế pháp lý về đấu thầu
xây lắp .………………………………………………………………… 79
Những khó khăn, hạn chế của công ty khi áp dụng quy chế pháp
lý về đấu thầu xây lắp ….……………………………………………… 82
II - Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy chế pháp lý
Về Đấu thầu xây lắp và các biện pháp nâng cao hiệu
quả công tác đấu thầu xây lắp tại Côngty 789 …….. 92
Kiến nghị đối với nhà nước …………………………………….……. 92
Kiến nghị đối với Công ty 789 ………………………………………. 99
Kết Luận ……………………………………………………..…... 105
Danh mục tài liệu tham khảo ……………………..……. 106
Phụ Lục …………………………………..……………………..…. 113
Lời nói đầu
Công cuộc đổi mới do Đảng ta phát động đã thu được những thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh vực đổi mới kinh tế. Để phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong sự nghiệp đổi mới kinh tế, Nhà nước ta đã cho ra đời các văn bản pháp lý công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau, đó là: Kinh tế Nhà nước, Kinh tế tập thể, Kinh tế tư nhân, Kinh tế tư bản nhà nước, Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, trong hoạt động kinh doanh ngày nay, các loại hình kinh doanh được khuyến khích phát triển đa dạng và được phát triển ở mọi ngành, nghề kinh doanh mà pháp luật không cấm. Cùng với công cuộc đổi mới nền kinh tế, thì xây dựng cơ sở hạ tầng là nhu cầu cần thiết, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển và thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài phục vụ cho phát triển kinh tế. Toàn bộ cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế chỉ có thể được tạo ra thông qua các hoạt động xây dựng cơ bản, từ công trình xây dựng thuộc kết cấu hạ tầng, cơ sở sản xuất, công trình văn hoá - xã hội cho đến nhà ở của dân cư ... Do vậy, Nhà nước cần phải có một chế độ quản lý thích hợp đối với lĩnh vực này để mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm nguồn vốn đầu tư cho hoạt động xây dựng cơ bản bằng những phương pháp tối ưu.
Nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý đầu tư và xây dựng, Chính phủ đã ban hành Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng kèm theo Nghị định 42/CP ngày 16/07/1996. Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Quy chế Đấu thầu kèm theo Nghị định số 43/CP ngày 16/07/1996 để tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu thầu. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng. Quy chế Đấu thầu đã bộc lộ những hạn chế, mặc dù Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 92/CP ngày 23/08/1997 Chính phủ và Quy chế Đấu thầu đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 93/CP ngày 23/08/1997. Chính vì vậy, ngày 08/07/1999 Chính Phủ ban hành Nghị định số 52/1999 NĐ-CP về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng thay thế Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định số 42/CP ngày 16/07/1996 và Nghị định số 92/CP ngày 23/08/1997. Đến ngày 01/09/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 88/1999/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế Đấu thầu thay thế Quy chế Đấu thầu kèm theo Nghị định số 43/Chính phủ ngày 16/07/1996 và Nghị định số 93/CP ngày 23/08/1997 của Chính phủ. Sau đó, ngày 05/05/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2000/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/07/1999 và ngày 31/01/2003 Chính phủ lại ban hành Nghị định số 07/2003/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng. Ngày 05/05/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 14/2000/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999. Đặc biệt được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/5/2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu. Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ra đời đã điều chỉnh các đối tượng là các dự án đầu tư và xây dựng, dự án đầu tư để mua sắm tài sản, dự án sử dụng ngân sách nhà nước, công trình xây dựng sử dụng vốn nhà nước, và các đối tượng đầu tư và xây dựng không sử dụng vốn nhà nước. Với phạm vi điều chỉnh là các dự án đầu tư của các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, các dự án sử dụng vốn tín dụng do nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư của nhà nước,…Còn Quy chế Đấu thầu áp dụng cho các dự án đầu tư thực hiện theo Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng; Các dự án liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc cổ phần có sự tham gia của các tổ chức kinh tế nhà nước; Các dự án sử dụng vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài và các dự án lựa chọn đối tác đầu tư.
Trong một thời gian thực hiện các văn bản nêu trên vẫn còn một số vấn đề còn chưa được áp dụng trong thực tiễn hoạt động của các cộng ty, mặt khác những văn bản pháp luật cũng còn có những tồn tại, hạn chế cần phải được khắc phục. Tuy nhiên, để việc áp dụng các văn bản pháp luật trên tại công ty được dễ dàng và thuận lợi đòi hỏi cán bộ, công nhân viên trong toàn công ty nói chung và các cán bộ làm công tác đấu thầu nói riêng phải được nghiên cứu, học tập các quy định của pháp luật trong lĩnh vự xây dựng, lĩnh vực đấu thầu cũng như các quy định khác của pháp luật.
Mặt khác, trong những năm gần đây việc đấu thầu các công trình xây dựng có nhiều sai sót, nhiều công trình thông qua đấu thầu chất lượng không đảm bảo. Trong đấu thầu thì các nhà thầu thi nhau hạ giá thầu, dư luận gọi đây là "phong trào đại hạ giá" hay còn được gọi là hiện tượng "phá giá trong đấu thầu". Đi cùng với hiện tượng "phá giá" là hiện tượng các nhà thầu liên kết, móc ngoặc với nhau một cách không lành mạnh và sự móc ngoặc giữa các nhà thầu với chủ đầu tư, tư vấn thiết kế, tư vấn giám sát và hội đồng xét thầu. Cùng với các hiện tượng trên là tình trạng mua bán, chuyển nhượng thầu bất hợp pháp... Chính điều này đã tạo ra một "mảnh đất màu mỡ" cho hàng loạt các tiêu cực xẩy ra, gây bất bình và bức xúc trong dư luận xã hội và gây mất lòng tin trong nhân dân và cũng gây khó khăn khốn đốn, trở ngại cho các nhà thầu chân chính.
Xuất phát từ nhận thức đó, đồng thời qua thời gian thực tập tại Công ty 789 – Bộ Quốc phòng, chúng tôi thấy một trong những hoạt động chủ yếu của công ty là đấu thầu xây dựng. Cho nên, chúng tôi chọn đề tài: “Quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Công ty 789 – Bộ Quốc phòng”.
Đề tài tập trung: Phân tích lý luận về đấu thầu và đấu thầu xây lắp; Đồng thời phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động tham gia đấu thầu xây lắp của Công ty 789-BQP để từ đó rút ra một số ý kiến và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ pháp lý trong đấu thầu xây lắp nói chung và nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu xây lắp tại Công ty 789 nói riêng.
Luận văn tốt nghiệp bao gồm các nội dung sau:
+ Chương 1: Quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp
+Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp tại Công ty 789 –Bộ Quốc phòng
+Chương 3: Hoàn thiện quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp và các biện pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu xây lắp tại Công ty 789.
Trong quá trình thực tập, chúng tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong Bộ môn Luật Kinh tế, đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của cô Lê Hồng Anh và thầy Nguyễn Hữu Mạnh. Cùng các cô chú , anh chị tại Xí nghiệp 384 - Công ty 789 – Bộ Quốc phòng đã tận tình giúp đỡ về kiến thức và tạo điều kiện thu thập tài liệu bổ ích cho quá trình thực tập.
Dù đã có nhiều cố gắng, song do điều kiện về thời gian cũng như kiến thức nên Luận văn tốt nghiệp này không thể tránh khỏi những thiếu xót. Chúng tôi rất mong nhận được những nhận xét, ý kiến của đóng góp các thầy, cô giáo cùng bạn đọc đối với bản Luận văn tốt nghiệp này.
Chương 1
Quy chế pháp lý về đấu thầu xây lắp
I. Khái quát chung về đấu thầu
Khái niệm đấu thầu
Trên thế giới, khái niệm đấu thầu đã có từ rất lâu. Nhưng đối với Việt Nam, khái niệm này còn nhiều mới mẻ, xâm nhập vào nước ta từ cuối những năm 80. Xuất phát từ nền kinh tế thị trường, mọi việc mua bán đều có sự cạnh tranh mạnh mẽ, thuật ngữ “đấu giá” được chúng ta biết đến nhiều hơn. "Đấu giá được hiểu là một hình thức có một người bán và nhiều người mua". Trên cơ sở người bán đưa ra một mức giá khởi điểm (giá ban đầu), sau đó để cho người mua cạnh tranh với nhau trả giá và người bán sẽ quyết định giá bán cho người mua nào trả giá cao nhất. Trong khi đó “đấu thầu lại là hình thức có một người mua và nhiều người bán cạnh tranh nhau". Người mua sẽ chọn người bán nào có điều kiện tối ưu nhất đáp ứng được yêu cầu ban đầu người bán đặt ra. Theo khoản 1 Điều 3 – Quy chế Đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 01/9/1999 (gọi tắt là Quy chế Đấu thầu): “Đấu thầu là một quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu". Để có thể hiểu rõ hơn về khái niệm đấu thầu, cũng để nghiên cứu tiếp các phần sau, chúng tôi xin làm rõ một số khái niệm có mối quan hệ chặt chẽ trong hoạt động đấu thầu, các khái niệm đó là:
Nhà thầu: Theo khoản 10 Điều 3 – Quy chế Đấu thầu thì "Nhà thầu" là tổ chức kinh tế có đủ tư cách pháp nhân tham gia đấu thầu. Trong trường hợp đối với tuyển chọn tư vấn, nhà thầu có thể là cá nhân. Nhà thầu là nhà xây dựng trong đấu thầu xây lắp; là nhà cung cấp trong đấu thầu mua sắm hàng hoá; là nhà tư vấn trong đấu thầu tuyển chọn tư vấn; là nhà đầu tư trong đấu thầu lựa chọn đối tác đầu tư. Nhà thầu trong nước là nhà thầu có tư cách pháp nhân Việt Nam và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.
Bên mời thầu: Theo khoản 7 Điều 3 – Quy chế Đấu thầu thì "Bên mời thầu" là chủ dự án, chủ đầu tư - tức là cá nhân, hoặc tổ chức có tư cách pháp nhân được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, sử dụng vốn đầu tư theo quy định của pháp luật - hoặc có thể là đại diện chủ dự án, chủ đầu tư, được giao trách nhiệm thực hiện công việc đấu thầu. Như vậy, xét về bản chất bên mời thầu là bên mua, tiến hành tổ chức ra quá trình đấu thầu để lựa chọn người cung ứng.
Tư vấn: Theo khoản 13 Điều 3 – Quy chế Đấu thầu thì "Tư vấn" là hoạt động đáp ứng được các yêu cầu về kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn cho bên mời thầu trong việc xem xét, quyết định, kiểm tra quá trình chuẩn bị và thực hiện dự án.
Nói đến đấu thầu là nói đến một quá trình lựa chọn, tức là việc tiến hành đấu thầu phải tuân theo trình tự, thủ tục nhất định. Điều này đã tạo ra cho đấu thầu sự khác biệt hẳn so với các hình thức lựa chọn đối tác khác.
Vậy, đấu thầu được hiểu là một quá trình bao gồm những trình tự nhất định được tiến hành để lựa chọn nhà thầu đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà thầu.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các đơn vị kinh tế thực hiện nhiệm vụ và ký hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh. Công việc của họ là do Nhà nước giao cho và họ phải thực hiện. Cơ chế này gọi là cơ chế “giao - nhận”, còn gọi là cơ chế "xin – cho". Các đơn vị kinh tế không có quyền tìm kiếm công việc, không thể tồn tại được chế độ đấu thầu. Vì nếu có thì nó mâu thuẫn với nguyên tắc chung của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Đầu thập niên 90, nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thì đấu thầu là một hoạt động tất yếu. Bởi vì, trong cơ chế tự do kinh doanh, tự do tìm kiếm, thỏa thuận công việc, tự do giao kết các hợp đồng kinh tế theo chế độ hợp đồng kinh tế hiện hành thì có sự cạnh tranh giữa bên bán hàng (bên mời thầu) và những người mua hàng (các nhà thầu) để có tự do lựa chọn bạn hàng phù hợp nhất của mình đã đáp ứng đúng yêu cầu của nền kinh tế.
Từ sự cần thiết của nền kinh tế, đồng thời để quản lý các hoạt động này, Chính phủ đã ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh các hoạt động quản lý đầu tư xây dựng và hoạt động đấu thầu. Nhưng, các văn bản này chưa nêu rõ ra được các vấn đề pháp lý về đấu thầu xây lắp mà thực tiễn đòi hỏi. Vì vậy, Nghị định 43/CP ngày 16/7/1996 của Chính phủ ban hành Quy chế đấu thầu đã ra đời, trên cơ sở Nghị định này Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Bộ Xây dựng, Bộ Thương mại đã ban hành Thông tư Liên bộ số 02/TTLB ngày 25/02/1997 để hướng dẫn chung một số nội dung trong Quy chế Đấu thầu để các Bộ, ngành, địa phương và cơ sở thống nhất thực hiện.
Sau một thời gian thực hiện, đã nảy sinh nhiều vấn đề không phù hợp trong hoạt động đấu thầu, gây khó khăn cho nhà thầu, thậm chí xảy ra nhiều tiêu cực làm cho hoạt động đấu thầu diễn ra không đạt được mục tiêu mong muốn là cạnh tranh công bằng, lành mạnh và hiệu quả. Từ những bức xúc ấy, sau nhiều lần bổ sung Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng và Quy chế Đấu thầu ngày 08/7/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 52/1999/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng thay thế Nghị định số 42/CP. Ngày 01/9/1999 Chính phủ ban hành Nghị định số 88/1999/NĐCP về việc ban hành Quy chế Đấu thầu, thay thế Quy chế Đấu thầu đã ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định số 93/CP ngày 23/8/1997. Trong quá trình thực hiện, ngày 05/5/2000 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2000/NĐ-CP và Nghị định số 14/2000/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung 2 Nghị định trên. Ngày 26/5/2000 Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã ban hành Thông tư số 04/2000/TT-BKH hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 và Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 của Chính phủ. Đến ngày 30/01/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 07/2003/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Quản lý đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 và Nghị định số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000. Có thể nói, các văn bản pháp luật mới đã bổ sung những thiếu sót và hạn chế của những văn bản pháp luật cũ. Tạo ra được môi trường pháp lý lành mạnh, công bằng và thuận lợi cho các hoạt động quản lý đầu tư và xây dựng và cũng như đấu thầu xây dựng.
Hiện nay, chúng ta đang xây dựng dự thảo Pháp lệnh Đấu thầu và dự thảo Luật Xây dựng. Như vậy, trong trời gian ngắn nữa khi Pháp lệnh Đấu thầu và Luật Xây dựng ra đời thì cơ sở pháp lý cho hoạt động xây dựng nói chung và hoạt động đấu thầu xây lắp nói riêng sẽ được nâng cao và hoàn thiện hơn.
Chính phủ ban hành Quy chế Đấu thầu là một thành công lớn, tạo ra tính hiệu quả, năng động để đưa nước ta từng bước hòa nhập vào xu hướng chung của thế giới. Chúng ta có thể coi đây là một bước tiến mới của hệ thống pháp luật về đấu thầu thể hiện ở một số điểm sau:
Thứ nhất, việc ban hành Quy chế Đấu thầu đã tạo ra cơ sở để tiến hành hoạt động đấu thầu cũng là nguồn luật để điều chỉnh hoạt động đấu thầu. Là một hình thức mới nên dựa vào các quy định của pháp luật về đấu thầu, các doanh nghiệp có thể tổ chức việc đấu thầu một cách thuận lợi. Đối với các doanh nghiệp tổ chức đấu thầu mua sắm thiết bị, đấu thầu xây lắp… thì đây là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi của họ trong hoạt động tham gia đấu thầu.
Thứ hai, dựa trên việc ban hành Quy chế Đấu thầu, nhà nước có thể tiến hành quản lý chặt chẽ được với hoạt động đấu thầu, hoạt động đầu tư và nhất là các nguồn vốn của Nhà nước hay nguồn vốn viện trợ quốc tế. Quy chế Đấu thầu quy định rõ ràng cách thức tiến hành, từng khâu từng bước và quy định rõ trách nhiệm hai bên: bên mời thầu, bên dự thầu và cả với cấp quản lý liên quan. Như vậy, việc kiểm tra, giám sát đối với hoạt động đấu thầu được thuận lợi, dễ dàng và nhanh chóng.
Thứ ba, việc sử dụng hình thức đấu thầu còn tạo ra cơ hội cho nhà thầu quốc tế xâm nhập vào thị trường Việt Nam, tạo điều kiện thúc đẩy đầu tư nước ngoài. Đây chính là cách để Việt Nam tiếp cận được trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại khi các nhà thầu nước ngoài trúng thầu.
Thứ tư, sử dụng đấu thầu trong xây dựng cơ bản đã tạo ra hiệu quả kinh tế, kỹ thuật, pháp lý cao. Do xuất phát từ bản chất đấu thầu là việc lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu mức tốt nhất, phù hợp nhất với bên mời thầu. Thông qua cạnh tranh công khai, lành mạnh khiến cho việc lựa chọn đạt kết quả tốt mà vẫn đảm bảo được các yêu cầu khác. Vì có sự cạnh tranh giữa các nhà thầu nên nó đã thúc đẩy nâng cao chất lượng công trình xây lắp, tiến độ thực hiện nhanh hơn. Chính vì vậy đã tiết kiệm được những khoản chi phí không cần thiết, không đáng có và làm tăng lợi ích xã hội.
Phân loại đấu thầu
Đấu thầu có thể được xem xét và phân chia thành các loại khác nhau. Thông thường, đấu thầu có thể được phân chia theo các tiêu chí sau:
Theo nội dung của quá trình tuyển chọn
Đấu thầu tuyển chọn tư vấn: Là quá trình lựa chọn chuyên gia hay tổ chức tư vấn đáp ứng được yêu cầu tư vấn về các loại công việc theo yêu cầu của bên mời thầu. Các loại công việc đó là:
+ Chuẩn bị dự án;
+ Thực hiện dự án;
+ Các tư vấn khác.
Nhà tư vấn không được tham gia đánh giá kết quả công việc do mình thực hiện và không được tham gia đấu thầu thực hiện các gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp do mình làm tư vấn (trừ các gói thầu theo loại hợp đồng chìa khoá trao tay).
Đấu thầu mua sắm hàng hoá: Là quá trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hoá đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu và các điều kiện hành chính, pháp lý, kỹ thuật và thương mại, tài chính của hàng hoá. Trên cơ sở hồ sơ dự thầu, bên mời thầu sẽ đánh giá và cho điểm đối với chỉ tiêu về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu, về kỹ thuật, khả năng tài chính, giá cả và thời gian thực hiện dự án phù hợp với hồ sơ mời thầu.
Đấu thầu xây lắp: Là quá trình lựa chọn nhà thầu xây dựng có khả năng đáp ứng được yêu cầu của bên mời thầu về các chỉ tiêu của lĩnh vực xây dựng. Nhà thầu trúng thầu là nhà thầu xây dựng có khả năng cao nhất, thỏa mãn tốt nhất các điều kiện của công trình. Đồng thời thỏa mãn các điều kiện do bên mời thầu đặt ra.
Đấu thầu với gói thầu quy mô nhỏ: Là quá trình lựa chọn nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của bên mời thầu đối với các gói thầu quy mô nhỏ.
+ Gói thầu quy mô nhỏ là gói thầu có giá trị dưới 2 tỷ đồng với mua sắm hàng hoá hoặc xây lắp.
+ Trên cơ sở hồ sơ dự thầu, bên mời thầu sẽ đánh giá về mặt kỹ thuật phù hợp với hồ sơ mời thầu.
Đấu thầu lựa chọn đối tác để thực hiện dự án: Là một loại đấu thầu đặc biệt, được áp dụng nếu dự án có từ hai đối tác trở lên quan tâm thực hiện thì phải tiến hành đấu thầu để người có thẩm quyền có cơ sở xem xét, lựa chọn đối tác để thực hiện dự án dưới dạng: Dự án là lý tưởng; Dự án có báo cáo nghiên cứu tiền khả thi hoặc khả thi được duyệt; Yêu cầu về một số nội dung công việc.
Theo hình thức lựa chọn nhà thầu
Theo Điều 4 – Quy chế Đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 thì có các hình thức lựa chọn nhà thầu sau:
Đấu thầu rộng rãi: là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đây là hình thức được áp dụng chủ yếu trong đấu thầu.
Đấu thầu hạn chế: là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối thiểu là 5) có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. Hình thức này chỉ được xem xét, áp dụng khi có một trong các điều kiện sau:
+ Chỉ có một số nhà thầu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của gói thầu.
+ Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải đấu thầu hạn chế.
+ Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế.
Chỉ định thầu: Theo khoản 2 Điều 1 - Nghị định số 14/2000/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế Đấu thầu thì chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Chỉ định thầu chỉ được áp dụng trong các trường hợp đặc biệt sau đây:
+ Trường hợp bất khả kháng do thiên tai, dịch họa, sự cố cần khắc phục ngay thì chủ dự án (người được người có thẩm quyền giao trách nhiệm quản lý và thực hiện dự án) được phép chỉ định ngay đơn vị có đủ năng lực thực hiện công việc kịp thời. Trong thời gian 10 ngày kể từ ngày quyết định chỉ định thầu, chủ dự án phải báo cáo người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền về nội dung chỉ định thầu; người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền nếu phát hiện việc chỉ định thầu là sai với quy định phải kịp thời xử lý.
+ Gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm, bí mật quốc gia, bí mật an ninh, bí mật quốc phòng do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
+ Gói thầu có giá trị dưới 1 tỷ đồng đối với mua sắm hàng hóa, xây lắp; dưới 500 triệu đồng đối với tư vấn.
Các gói thầu được chỉ định thầu thuộc dự án nhóm A, Thủ tướng Chính phủ phân cấp cho Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng quản trị tổng công ty nhà nước do Thủ tướng Chính phủ thành lập (Tổng công ty 91), Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có dự án quyết định.
Khi chỉ định thầu các gói thầu nêu trên thì người có thẩm quyền quyết định chỉ định thầu phải chịu trác nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
Trường hợp thấy không cần thiết chỉ định thầu thì tổ chức đấu thầu theo quy định. Nghiêm cấm việc tùy tiện chia dự án thành nhiều gói nhỏ để chỉ định thầu.
+ Gói thầu có tính chất đặc biệt do yêu cầu của cơ quan tài trợ, do tính phức tạp về kỹ thuật và công nghệ hoặc do yêu cầu đột xuất của dự án, do người có thẩm quyền quyết định đầu tư quyết định chỉ định thầu trên cơ sở báo cáo thẩm định của Bộ Kế hoạch - Đầu tư, ý kiến bằng văn bản của các cơ quan tài trợ vốn và các cơ quan lên quan.
+ Phần vốn ngân sách dành cho dự án của các cơ quan sự nghiệp để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu về quy hoạch phát triển kinh tế, quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch chung xây dựng đô thị và nông thôn, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao nhiệm vụ thực hiện thì không phải đấu thầu, nhưng phải có hợp đồng cụ thể và giao nộp sản phẩm theo đúng quy định.
+ Gói thầu tư vấn lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, khả thi của dự án đầu tư thì không phải đấu thầu, nhưng chủ đầu tư phải chọn nhà tư vấn phù hợp với yêu cầu của dự án.
Trong trường hợp chỉ định thầu theo các nội dung trên thì phải xác định rõ 3 nội dung sau:
+ Lý do chỉ định thầu;
+ Kinh nghiệm và năng lực về mặt kỹ thuật, tài chính của nhà thầu được đề nghị chỉ định thầu;
+ Giá trị khối lượn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100714.doc