Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới nổi lên những đặc điểm mới tác động một cách sâu sắc đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và chính sách đối với các nước láng giềng nói riêng.
Trước hết, những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh làm thay đổi so sánh lực lượng và phương thức tập hợp lực lượng trên thế giới. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô tạo ra những thay đối căn bản trong cục diện thế giới và quan hệ quốc tế đương đại. Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu sắc, toàn diện. Sau gần nửa thế kỷ tồn tại kể từ sau chiến tranh thế giới II, trật tự thế giới hai cực trong tư cách là hình thái biểu hiện của cuộc đối đầu Đông - Tây đã chấm dứt. Cơ cấu địa - chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn, tương quan lực lượng thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, bất lợi đối với chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
Quá trình hình thành trật tự thế giới mới chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đoán định, trong đó nổi lên hai khuynh hướng đối nghịch nhau: Mỹ tham vọng “lãnh đạo” thế giới, chủ trương một thế giới đơn cực, trong khi các trung tâm quyền lực khác như Nga, Trung Quốc, các nước lớn thuộc Liên minh châu Âu (EU) đấu tranh cho một trật tự thế giới đa cực. Càng về những năm gần đây, cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng “đơn cực” và “đa cực”, “đơn phương” và “đa phương” diễn ra càng gay gắt với ưu thế rõ nét của khuynh hướng “đa cực”, “đa phương”. Biểu hiện của cuộc đấu tranh này có thể thấy qua việc các nước lớn Nga, Pháp, Đức kiên quyết chống lại hành động của Mỹ phát động chiến tranh Irắc (3/2003) và những căng thẳng trong quan hệ Nga - Mỹ xung quanh vấn đề NATO mở rộng sang hướng Đông và việc Mỹ triển khai hệ thống tên lửa phòng thủ ở Đông Âu, cũng như cuộc xung đột ở Nam Ôxetia (8/2008).
Để đối phó trước khuynh hướng hình thành cục diện đa cực hoá, Mỹ ra sức lợi dụng ưu thế tương đối trong so sánh lực lượng, mưu toan thiết lập “trật tự mới”, thực chất là trật tự thế giới “đơn cực” do Mỹ khống chế. Trong nhiều thời điểm sau chiến tranh lạnh, chính quyền Mỹ đã thực thi chính sách đơn phương mang nặng tính vị kỷ trong quan hệ quốc tế, bất chấp sự phản đối của nhiều nước lớn và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, do những khó khăn, hạn chế về nhiều mặt, đặc biệt là sự sa lầy trong cuộc chiến ở Apganistan và Irắc cùng với cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng từ năm 2008, nên sức mạnh Mỹ lại càng trượt sâu vào suy giảm tương đối. Mỹ không dễ dàng có thể áp đặt một trật tự thế giới “đơn cực”, trong đó đáng chú ý là mâu thuẫn giữa âm mưu và hành động của Mỹ với lợi ích của các nước lớn, với lợi ích của hoà bình, độc lập và phát triển của các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Sau chiến tranh lạnh, tính chất và nội dung trong giao lưu quốc tế đã thay đổi một cách cơ bản với vị trí ưu tiên hàng đầu thuộc về yếu tố kinh tế. Phương thức tập hợp lực lượng trên thế giới cũng thay đổi mạnh và được quy định trước hết và chủ yếu từ lợi ích kinh tế - chính trị của các quốc gia, nhân tố ý thức hệ không còn vai trò như thời kỳ chiến tranh lạnh. Sự tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế ngày càng trở nên rất cơ động, linh hoạt, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh và theo từng vấn đề cụ thể. Sự tập trung quyền lực và sự hình thành các trung tâm quyền lực trên thế giới dựa trên cơ sở tập trung sức mạnh kinh tế- chính trị và hình thành các trung tâm kinh tế- chính trị hùng mạnh. Việc mở rộng không gian, tăng cường về lực lượng của các trung tâm đó làm cho cuộc cạnh tranh quyền lực trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt. Đây là một tiền đề thúc đẩy khuynh hướng hình thành thế đa cực trong quan hệ quốc tế hiện đại.
38 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Quan hệ với các nước láng giềng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ năm 1991 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần thứ nhất:
Cơ sở hoạch định chính sách của việt Nam
đối với các nước láng giềng
sau chiến tranh lạnh
I. Tình hình thế giới và khu vực
1. Những đặc điểm và xu thế chủ yếu của thế giới sau chiến tranh lạnh
1.1. Đặc điểm
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình thế giới nổi lên những đặc điểm mới tác động một cách sâu sắc đến việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam nói chung và chính sách đối với các nước láng giềng nói riêng.
Trước hết, những diễn biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh làm thay đổi so sánh lực lượng và phương thức tập hợp lực lượng trên thế giới. Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô tạo ra những thay đối căn bản trong cục diện thế giới và quan hệ quốc tế đương đại. Chủ nghĩa xã hội hiện thực lâm vào thoái trào, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu sắc, toàn diện. Sau gần nửa thế kỷ tồn tại kể từ sau chiến tranh thế giới II, trật tự thế giới hai cực trong tư cách là hình thái biểu hiện của cuộc đối đầu Đông - Tây đã chấm dứt. Cơ cấu địa - chính trị và sự phân bố quyền lực toàn cầu bị đảo lộn, tương quan lực lượng thế giới nghiêng về phía có lợi cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc, bất lợi đối với chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới.
Quá trình hình thành trật tự thế giới mới chứa đựng nhiều yếu tố bất trắc, khó đoán định, trong đó nổi lên hai khuynh hướng đối nghịch nhau: Mỹ tham vọng “lãnh đạo” thế giới, chủ trương một thế giới đơn cực, trong khi các trung tâm quyền lực khác như Nga, Trung Quốc, các nước lớn thuộc Liên minh châu Âu (EU) đấu tranh cho một trật tự thế giới đa cực. Càng về những năm gần đây, cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng “đơn cực” và “đa cực”, “đơn phương” và “đa phương” diễn ra càng gay gắt với ưu thế rõ nét của khuynh hướng “đa cực”, “đa phương”. Biểu hiện của cuộc đấu tranh này có thể thấy qua việc các nước lớn Nga, Pháp, Đức kiên quyết chống lại hành động của Mỹ phát động chiến tranh Irắc (3/2003) và những căng thẳng trong quan hệ Nga - Mỹ xung quanh vấn đề NATO mở rộng sang hướng Đông và việc Mỹ triển khai hệ thống tên lửa phòng thủ ở Đông Âu, cũng như cuộc xung đột ở Nam Ôxetia (8/2008)...
Để đối phó trước khuynh hướng hình thành cục diện đa cực hoá, Mỹ ra sức lợi dụng ưu thế tương đối trong so sánh lực lượng, mưu toan thiết lập “trật tự mới”, thực chất là trật tự thế giới “đơn cực” do Mỹ khống chế. Trong nhiều thời điểm sau chiến tranh lạnh, chính quyền Mỹ đã thực thi chính sách đơn phương mang nặng tính vị kỷ trong quan hệ quốc tế, bất chấp sự phản đối của nhiều nước lớn và cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, do những khó khăn, hạn chế về nhiều mặt, đặc biệt là sự sa lầy trong cuộc chiến ở Apganistan và Irắc cùng với cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng từ năm 2008, nên sức mạnh Mỹ lại càng trượt sâu vào suy giảm tương đối. Mỹ không dễ dàng có thể áp đặt một trật tự thế giới “đơn cực”, trong đó đáng chú ý là mâu thuẫn giữa âm mưu và hành động của Mỹ với lợi ích của các nước lớn, với lợi ích của hoà bình, độc lập và phát triển của các quốc gia dân tộc trên thế giới.
Sau chiến tranh lạnh, tính chất và nội dung trong giao lưu quốc tế đã thay đổi một cách cơ bản với vị trí ưu tiên hàng đầu thuộc về yếu tố kinh tế. Phương thức tập hợp lực lượng trên thế giới cũng thay đổi mạnh và được quy định trước hết và chủ yếu từ lợi ích kinh tế - chính trị của các quốc gia, nhân tố ý thức hệ không còn vai trò như thời kỳ chiến tranh lạnh. Sự tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế ngày càng trở nên rất cơ động, linh hoạt, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh và theo từng vấn đề cụ thể. Sự tập trung quyền lực và sự hình thành các trung tâm quyền lực trên thế giới dựa trên cơ sở tập trung sức mạnh kinh tế- chính trị và hình thành các trung tâm kinh tế- chính trị hùng mạnh. Việc mở rộng không gian, tăng cường về lực lượng của các trung tâm đó làm cho cuộc cạnh tranh quyền lực trên thế giới ngày càng trở nên gay gắt. Đây là một tiền đề thúc đẩy khuynh hướng hình thành thế đa cực trong quan hệ quốc tế hiện đại.
Cách mạng khoa học và công nghệ cùng với quá trình toàn cầu hóa có những bước phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc tình hình kinh tế, chính trị xã hội và quan hệ quốc tế. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của thế giới trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại thúc đẩy lực lượng sản xuất của thế giới phát triển chưa từng thấy, đồng thời đưa đến sự phát triển, biến đổi theo chiều sâu các lĩnh vực đời sống xã hội quốc tế. Tuy nhiên, những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ lại chủ yếu thuộc về các nước phát triển do họ có thực lực kinh tế, tiềm lực khoa học hùng mạnh cùng với mạng lưới công ty xuyên quốc gia vươn rộng khắp hành tinh. Các nước đang phát triển do những hạn chế về nhiều mặt nên không dễ dàng có thể tiếp cận những thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến, thậm chí đứng trước nguy cơ trở thành nơi thu nhận những công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường được chuyển giao từ các nước phát triển.
Cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra bước ngoặt mang ý nghĩa lịch sử với sự hình thành nền kinh tế tri thức. Trong xu hướng phát triển kinh tế tri thức hiện nay, thông tin tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ và quản lý ngày càng đóng vai trò chủ đạo. Vì lẽ đó, bất kỳ quốc gia nào nếu không thực sự chú trọng lĩnh vực này, tất yếu bị đẩy tới trước thách thức nghiệt ngã của nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về mọi phương diện. Xu thế phát triển kinh tế tri thức đang ngày càng lôi cuốn và tác động mạnh mẽ đến đến tất cả các quốc gia, dân tộc tạo ra những thay đổi căn bản không chỉ trong đời sống kinh tế - xã hội, mà cả trong so sánh lực lượng cũng như ngôi vị của mỗi quốc gia trên trường quốc tế.
Toàn cầu hoá trước hết về kinh tế là một xu thế khách quan lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia. Tuy nhiên, xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Toàn cầu hoá không chỉ tạo ra những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, mà còn thúc đẩy mối quan hệ liên quốc gia gia tăng cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Tự do hóa kinh tế và cải cách thị trường trên toàn cầu diễn ra phổ biến. Các nền kinh tế dựa vào nhau, liên kết với nhau, xâm nhập lẫn nhau, khiến cho tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng. Toàn cầu hoá thúc đẩy hợp tác, phân công lao động quốc tế sâu rộng, kích thích tăng trưởng kinh tế. Các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế trở nên nhiều vẻ và rất phong phú về nội dung. Toàn cầu hóa tạo điều kiện phát tiển giao lưu văn hoá và tri thức quốc tế, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và tình hữu nghị giữa các dân tộc, đồng thời tạo điều kiện cho các nước, các lực lượng chính trị bày tỏ chính kiến, bảo vệ lợi ích, tập hợp lực lượng..., nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược của mình.
Mặt khác, những lợi ích và bất lợi do toàn cầu hoá tạo ra không được chia sẻ một cách đồng đều, làm trầm trọng thêm sự chênh lệch khoảng cách phát triển giữa các quốc gia và trong từng quốc gia. Toàn cầu hoá là một quá trình đầy mâu thuẫn, đó là mâu thuẫn giữa một bên là lợi ích của các thế lực tư bản, đế quốc bá quyền với một bên là độc lập chủ quyền của các quốc gia dân tộc; giữa tăng trưởng kinh tế với bất công xã hội; giữa áp lực của tư bản độc quyền xuyên quốc gia với sự lựa chọn con đường phát triển của các nước đang phát triển; giữa các lực lượng lợi dụng toàn cầu hóa để mở rộng sự bóc lột về kinh tế, áp đặt về chính trị với các lực lượng đấu tranh chống toàn cầu hóa phi nhân bản vì tiến bộ xã hội. Do đó, toàn cầu hóa không chỉ thuần tuý là một quá trình kinh tế - kỹ thuật, mà còn là cuộc đấu tranh kinh tế - xã hội, kinh tế - chính trị và văn hoá- tư tưởng rất gay gắt với thời cơ và thách thức đan xen nhau đối với nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển. Mặc dù vậy, trong tư cách một xu thế lịch sử, toàn cầu hoá lôi cuốn tất cả các nước tham gia và mỗi nước cần xác định cho mình đường lối hội nhập quốc tế một cách thích hợp.
Sau chiến tranh lạnh, đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc vẫn tiếp tục diễn ra gay go, quyết liệt với những biểu hiện mới, hình thức mới và tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Lợi dụng sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, chủ nghĩa đế quốc càng ráo riết chống phá phong trào cách mạng thế giới nhằm xác lập sự thống trị toàn cầu của tư bản độc quyền quốc tế. Các thế lực đế quốc gia tăng “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại. Các thế lực này bằng nhiều thủ đoạn như bao vây cấm vận kinh tế, gây bạo loạn, lật đổ hoặc trực tiếp phát động chiến tranh xâm lược, áp đặt sự lệ thuộc đối với các nước đang phát triển, đồng thời tìm cách dập tắt các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và lao động ở các nước tư bản phát triển. Sau sự kiện 11/9/2001, lợi dụng chiêu bài chống khủng bố, “thúc đẩy tự do, dân chủ, nhân quyền”, chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh chống phá các lực lượng cách mạng, các phong trào độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ, trực tiếp hoặc gián tiếp can thiệp vào khắp nơi trên thế giới.
Trong bố cảnh nêu trên, các quốc gia dân tộc vẫn đang triển khai hàng loạt cuộc đấu tranh với hình thức và nội dung phong phú. Đấu tranh giai cấp và dân tộc có những biểu hiện mới. Cùng với cuộc đấu tranh do các nước XHCN tiến hành chống “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc, thì tại nhiều nước đã diễn ra cuộc đấu tranh chống âm mưu can thiệp, lật đổ thông qua “cách mạng màu sắc”. Phong trào đấu tranh chống các chính sách của chủ nghĩa tự do mới, chống mặt trái của toàn cầu hóa trên thế giới cũng diễn ra sôi nổi, lôi cuốn hàng triệu người tham gia.
Trật tự thế giới hai cực mất đi làm giảm các cuộc xung đột bắt nguồn từ cuộc đối đầu Xô - Mỹ trước đó, thì đồng thời nó cũng làm mất đi cái giới hạn kiềm chế đối với các xung đột khác, hoặc làm bộc lộ rõ nét và ngày càng gay gắt thêm một số mâu thuẫn vốn tiềm ẩn. Điều đó lý giải vì sao trong lúc không ít cuộc nội chiến, xung đột kéo dài đã đi đến giải pháp chính trị, thì hàng loạt cuộc xung đột mới lại bùng lên dữ dội. Môi trường an ninh toàn cầu sau chiến tranh lạnh vẫn tiếp tục trở nên không chắc chắn. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, những bất ổn do mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp về lãnh thổ và tài nguyên thiên nhiên xảy ra ở nhiều nơi, nhất là tại khu vực các nước đang phát triển.
Sự vận động của thế giới sau chiến tranh lạnh, nhất là trong những năm đầu thế kỷ XXI còn cho thấy một đặc điểm nổi lên là các nước lớn và quan hệ giữa các nước lớn trở thành nhân tố rất quan trọng tác động đến sự phát triển thế giới. Trong số hơn 200 quốc gia, một số cường quốc có sức chi phối lớn đối với nền chính trị, kinh tế thế giới và quan hệ quốc tế hiện nay, trong đó Mỹ có ưu thế khá nổi trội và tỏ rõ tham vọng "lãnh đạo thế giới". Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hoá, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nước lớn, các trung tâm tư bản quốc tế đang làm thu hẹp đáng kể khoảng cách chênh lệch về thực lực kinh tế giữa các nước lớn và các trung tâm đó. Mặt khác, các nước lớn không phải một khối thống nhất, mà là một tập hợp đầy mâu thuẫn. Sau chiến tranh lạnh, các nước đều điều chỉnh chính sách để duy trì, mở rộng ảnh hưởng, giành giật lợi ích về nhiều mặt. Quan hệ giữa các nước lớn rất đa dạng về cấp độ: đồng minh, đối tác chiến lược, đối tác xây dựng, đối thoại chiến lược, đối thủ trực tiếp, đối thủ tiềm tàng... Đồng thời, cấp độ và mức độ quan hệ luôn thay đổi, chuyển hoá hết sức phức tạp, khó lường. Quan hệ giữa các nước lớn, tuy có sự khác biệt về quyền lợi quốc gia, nhưng không đối đầu trực diện với nhau, mà vừa đấu tranh quyết liệt kiềm chế lẫn nhau, lại vừa có khả năng thỏa hiệp và hợp tác với nhau. Vì lợi ích của mình, nhìn chung các nước lớn đều tránh đối đầu với Mỹ. Các nước Nga, Trung Quốc, Pháp, Đức mặc dù có những thoả hiệp với Mỹ về nhiều vấn đề, song đều có xu hướng đấu tranh với Mỹ nhằm thiết lập một trật tự thế giới đa cực, tạo lợi thế trong cục diện cạnh tranh chiến lược.
Trong giai đoạn hiện nay, nhân loại ngày càng đứng trước nhiều vấn đề toàn cầu hết sức bức xúc mà không một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết được nếu không có sự hợp tác đa phương. Đây là một đặc điểm quan trọng chi phối đến tập hợp lực lượng quốc tế và quan hệ quốc tế hiện nay. Những vấn đề toàn cầu cấp bách nhất đe dọa đến sự sống và sự phát triển bền vững của nhân loại trước hết là tình trạng ô nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số, những bệnh dịch hiểm nghèo, tội phạm quốc tế... Những nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế nhiều năm qua đã đưa lại một số kết quả trong việc làm giảm thiểu hiệu ứng nhà kính, xử lý nguồn nước và rác thải, chữa trị các bệnh lây nhiễm HIV/AIDS, SARS, dịch cúm gia cầm.... Nhưng, tính chất nghiêm trọng và phức tạp của những vấn đề toàn cầu rõ ràng đang đòi hỏi các nước, nhất là các nước phát triển cần đóng góp tích cực hơn nữa trong sự phối hợp, hợp tác hành động một cách hiệu quả thiết thực.
1.2. Những xu thế vận động chủ yếu của thế giới
Hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển là xu thế lớn trên thế giới: Hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia trên thế giới. Các nước đều dành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp của mỗi nước; đồng thời tạo sự ổn định chính trị và mở rộng hợp tác quốc tế. Chính sách đối ngoại của mỗi nước được hoạch định và triển khai thực hiện nhằm phục vụ đường lối, chính sách phát triển kinh tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ khai thác nguồn lực bên ngoài phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Các nước đều đặc biệt coi trọng việc cải thiện quan hệ với láng giềng và khu vực nhằm duy trì môi trường hòa bình xung quanh biên giới quốc gia để phát triển kinh tế- xã hội.
Hợp tác ngày càng tăng, nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt: Các quốc gia lớn, nhỏ đều tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Hợp tác ngày càng tăng, nhưng cạnh tranh cũng rất gay gắt. Trong điều kiện cách mạng khoa học công nghệ và toàn cầu hóa, mỗi nước không thể sống biệt lập, mà phải có chính sách liên kết, hợp tác để phát triển. Cùng với việc mở rộng quan hệ chính trị đối ngoại với các nước trên thế giới và khu vực, nhằm duy trì và củng cố hoà bình, ổn định, các nước còn thực hiện liên kết kinh tế, giao lưu văn hoá, giáo dục, y tế, thông tin... tạo điều kiện đẩy mạnh tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng với khu vực và thế giới. Hội nhập quốc tế tạo điều kiện giúp các nước đứng vững trong cạnh tranh và phát triển.
Các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá dân tộc. Trong quan hệ quốc tế hiện đại, để giành vị trí có lợi, các quốc gia dân tộc đều điều chỉnh chính sách, tạo cơ hội tận dụng, tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, vốn đầu tư và những kinh nghiệm quản lý tiên tiến để phát triển kinh tế- xã hội. Đối với các nước đang phát triển, do sự phụ thuộc vào các nước tư bản phát triển về khoa học, công nghệ, vốn đầu tư…, nên họ đang đứng trước những thách thức lớn. Trong bối cảnh đó, việc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đấu tranh chống sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài là một xu thế nổi bật trước tác động của quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, tiến bộ trên thế giới kiên trì đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, dù phải đương đầu với nhiều khó khăn, nhưng các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng tiến bộ trên thế giới vẫn kiên trì đấu tranh vì những mục tiêu chiến lược của mình. Phong trào cộng sản quốc tế đang có những dấu hiệu phục hồi rõ nét và vẫn là một lực lượng chính trị to lớn trong thời đại ngày nay. Các đảng cộng sản cầm quyền đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt nhất, tiếp tục lãnh đạo công cuộc xây dựng CNXH trong cải cách và đổi mới. Các đảng cộng sản chưa cầm quyền cũng đã có những điều chỉnh về đường lối chiến lược và sách lược, tìm kiếm cách thức hoạt động, đấu tranh bằng nhiều hình thức đa dạng, đổi mới tập hợp lực lượng, cải thiện dần vai trò, vị trí trong đời sống chính trị đất nước. Sự củng cố, lớn mạnh của các đảng cộng sản cầm quyền và sự phục hồi nhất định của các đảng cộng sản ở các nước tư bản phát triển, các nước đang phát triển, đặc biệt là sự phát triển của trào lưu cánh tả Mỹ Latinh mở ra triển vọng mới cho phong trào cộng sản, công nhân quốc tế trong thế kỷ XXI.
Các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt của quan hệ quốc tế, đang chi phối phương thức quan hệ giữa các nước. Hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau là nguyên tắc, là phương pháp xử lý các vấn đề trong quan hệ quốc tế hiện nay. Khi nhu cầu hội nhập quốc tế càng trở nên bức xúc đối với các quốc gia dân tộc, thì môi trường hoà bình, ổn định và phát triển của mỗi nước là điều kiện để hội nhập tốt hơn, hiệu quả hơn.
2. Tình hình khu vực
Từ đầu thập niên 90 thế kỷ XX đến nay, khu vực châu á-Thái Bình Dương và Đông Nam á tiếp tục có sự phát triển năng động. Quá trình hợp tác khu vực vốn diễn ra chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế, song gần đây đã mở rộng ra các lĩnh vực chống khủng bố và an ninh. Bên cạnh sự hợp tác trong các nhóm nước có chung lợi ích, thì sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn cũng rất quyết liệt và mức độ kiềm chế lẫn nhau ngày càng sâu sắc hơn. Cùng với quá trình hợp tác trong khuôn khổ APEC, sự hợp tác giữa các nhóm nước ở châu á-Thái Bình Dương ngày càng gia tăng. ASEAN đẩy mạnh liên kết sâu rộng và toàn diện, với hàng loạt chương trình hợp tác đã được triển khai, nhằm hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ cột chính là Cộng đồng chính trị- an ninh, Cộng đồng kinh tế và Cộng đồng văn hoá- xã hội. Tuy nhiên, ở CA-TBD và Đông Nam á cũng tiềm ẩn không ít nhân tố gây mất ổn định như: tranh chấp về ảnh hưởng và quyền lực, về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, tài nguyên giữa các nước, cùng với những bất ổn về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số nước.
Tại Đông Nam á sau chiến tranh lạnh, quá trình hợp tác liên kết ASEAN có bước phát triển mới, tác động trực tiếp đến chính sách với các nước láng giềng của Việt Nam. ASEAN từ 5 nước thành viên sáng lập ban đầu, sau 4 lần mở rộng, ngày nay đã quy tụ sự tham gia của 10 quốc gia Đông Nam á. Sau hơn 40 năm, ASEAN từ Hiệp hội của những nước nghèo, chậm phát triển đã vươn lên trở thành khu vực phát triển kinh tế năng động với dân số hơn 500 triệu người, diện tích 4,5 triệu km2, quy mô GDP hiện nay đạt trên 800 tỷ USD và tổng giá trị thương mại khoảng 780 tỷ USD. Thành tựu ấn tượng này đưa ASEAN trở thành một đối tác quan trọng của nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, một trong những tổ chức hợp tác khu vực thành công nhất, một thực thể chính trị - kinh tế có vai trò nổi bật ở CA-TBD cũng như trên thế giới. Việt Nam đặt cao vị trí của ASEAN trong chính sách đối ngoại, và sau gần 15 năm (1995-2010) gia nhập ASEAN đã có những đóng góp xứng đáng vào sự phát triển chung của Hiệp hội, đồng thời đang chủ động và tích cực tham gia quá trình liên kết của ASEAN trên tất cả các lĩnh vực.
Trên lĩnh vực chính trị và an ninh sau chiến tranh lạnh, một trong những thành tựu dễ nhận thấy nhất của ASEAN là quá trình cải thiện quan hệ giữa các nước ASEAN với các nước Đông Dương và Mianma. Các nước này đều tích cực chuẩn bị gia nhập ASEAN, coi đây là hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mình và trên thực tế, sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN (1995), các nước Lào, Mianma (1997) và Campuchia (1999) đều lần lượt gia nhập ASEAN. Đây là kết quả của những nỗ lực hợp tác chính trị quan trọng nhất mà ASEAN đạt được trong thập niên đầu tiên từ khi chiến tranh lạnh kết thúc.
Một thành tựu nổi bật khác trong hợp tác, liên kết ASEAN là bằng nỗ lực tập thể, ASEAN đã khởi tiến những bước đi đầu tiên trong việc tạo lập cơ chế hợp tác góp phần củng cố an ninh khu vực. Sau chiến tranh lạnh, các nước CA-TBD nói chung, Đông Nam á nói riêng đứng trước những thách thức mới phức tạp về an ninh, chính trị nhưng tại đây lại chưa có một cơ chế an ninh được thể chế hoá nhằm xử lý các tình huống tranh chấp, xung đột có thể xảy ra. Đồng thời, an ninh Đông Nam á lại phụ thuộc rất chặt chẽ vào các yếu tố bên ngoài, nhất là vào các nước lớn. Trong tình hình đó, các nước ASEAN đã chủ động đề xuất một khuôn khổ hợp tác để bàn thảo về các vấn đề an ninh thông qua việc tổ chức Hội nghị sau hội nghị Bộ trưởng của ASEAN (PMC). Theo hướng này, PMC đầu tiên được tổ chức nhân Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (AMM) lần thứ 25 (Philippin, 7/1992). Song, PMC chỉ mới là nơi đối thoại giữa ASEAN với các bên đối tác đầy đủ của Hiệp hội, cho nên chưa có sự tham gia của một số đối tác rất quan trọng liên quan đến an ninh khu vực như Trung Quốc, Việt Nam,… Do đó, AMM lần thứ 26 (Singapo, 7/1993) đã quyết định thành lập Diễn đàn an ninh ASEAN (ARF).
Hội nghị lần thứ nhất Diễn đàn an ninh khu vực (ARF-1) được tổ chức tại Bangkok (7/1994) với sự tham gia của 18 bộ trưởng ngoại giao các nước Đông Nam á và các nước hữu quan chủ chốt như Mỹ, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, EU, Ôxtrâylia,... Diễn đàn là nơi các nước tham gia trình bày quan điểm về hoà bình và an ninh khu vực. Những ý kiến khác biệt nhau được trao đổi để có thể giảm bớt khác biệt, nhờ vậy giảm bớt mối đe doạ đối với an ninh khu vực. Cho đến nay, ARF đã có sự tham gia của 27 nước thành viên và diễn ra 16 kỳ hội nghị. Điều kiện tham gia ARF là chấp nhận những mục tiêu, nguyên tắc của Hiệp ước Than thiện và Hợp tác như là phương chân ứng xử giữa các quốc gia và là phương tiện để xây dựng lòng tin, ngoại giao phòng ngừa, hợp tác chính trị và an ninh khu vực. Hiện nay, ARF đang cố gắng chuyển từ giai đoạn ngoại giao phòng ngừa sang tiếp cận và xử lý các xung đột. Từ năm 2007, các nước thành viên đã nhất trí thành lập một nhóm phản ứng nhanh nhằm kịp thời ứng phó với các trường hợp khẩn cấp liên quan đến khủng bố với tên gọi “Những người bạn của Ban điều hành ARF”, đồng thời thông qua một khuôn khổ hợp tác chống khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia, bao gồm 11 lĩnh vực từ an toàn giao thông, trao đổi thông tin, xử lý các hậu quả của khủng bố… Mặc dù, do ARF trong quy mô bao hàm các nước có lợi ích hết sức đa dạng, trình độ phát triển và lịch sử - văn hoá khác biệt, cho nên không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế. Song, vai trò của ARF ngày càng trở nên quan trọng trong đời sống chính trị khu vực, trở thành nơi hội tụ những nỗ lực tiến tới xây dựng ở Đông Nam á và mở rộng ra CA-TBD một cơ chế an ninh chung có hiệu quả.
Trên lĩnh vực về kinh tế, các nước Đông Nam á nhận thức rõ cần phải sớm tìm kiếm những hình thức hợp tác mới có hiệu quả để đối phó với các thách thức kinh tế mới xuất hiện, đồng thời khắc phục những hạn chế về hiệu quả và tính mất cân đối giữa hợp tác trên lĩnh vực chính trị - an ninh với lĩnh vực kinh tế. Theo hướng này, Hội nghị Cấp cao ASEEN lần thứ IV (Singapo - 1992) đã quyết định xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), sử dụng Thoả thuận ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) làm công cụ chính để thực hiện.
Các nước ASEAN cam kết hoàn thành AFTA trong vòng 15 năm (từ 1/1/1993 đến 1/1/2008), theo đó mức thuế quan ưu đãi chỉ được áp dụng cho buôn bán nội bộ ASEAN và mức thuế quan này sẽ giảm dần xuống còn từ 0 - 5% cho đến khi thực hiện xong AFTA. Tuy nhiên, đến Hội nghị các Bộ trưởng kinh tế ASEAN tại Chiengmai tháng 9/1994, ASEAN đã nhất trí thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu nêu trong AFTA vào năm 2003, tức là sớm hơn so với kế hoạch ban đầu 5 năm. Quyết định thực hiện AFTA phản ánh sự cố gắng lớn, nhằm thúc đẩy hợp tác kinh tế và đây là chương trình hợp tác kinh tế lớn nhất từ trước đến nay của ASEAN. Hiện nay, các nước ASEAN-6 đã có 98,99% dòng thuế ở mức 0 - 5% và đang tiếp tục lộ trình giảm thuế để tiến tới thuế suất 0% đối với 98,45% dòng thuế theo CEPT; còn các nước ASEAN- 4 đã có 81,35% dòng thuế ở mức 0 - 5% và đang phấn đấu có 86,91% dòng thuế ở mức 0% theo CEPT. Việc thực hiện CEPT/AFTA đã thúc đẩy thương mại nội khối, đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng kinh tế của các nước trong Hiệp hội.
Hợp tác về đầu của ASEAN trong nhiều năm qua được quan tâm và có nhiều bước khởi sắc. Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ VI (Hà Nội, 1998) thông qua Hiệp định Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) nhằm hình thành khu vực đầu tư ASEAN có tính cạnh tranh vào năm 2020. ASEAN đã xúc tiến một số biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả của Hiệp định AIA như rút ngắn thời gian thực hiện AIA từ năm 2020 xuống 2010 đối với ASEAN-6, năm 2015 đối với ASEAN-4. Các biện pháp trên nhằm đẩy mạnh hợp tác kinh tế, trong đó thu hút đầu tư, tự do hóa dịch vụ là các lĩnh vực rất được chú trọng.
Một trong những nội dung hợp tác l