Đề tài Quan điểm thân dân

Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Về thực chất, đây cũng chính là tư tưởng thân dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết, là thân dân.

Vậy thì vì sao ta phải “Thân dân”? Hồ Chí Minh giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy

 

doc26 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Quan điểm thân dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Tiếp nhận dòng chảy văn hóa truyền thống của dân tộc và thời đại,Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân dân. Không chỉ dừng lại ở đó, Người còn luôn luôn tôn trọng, tin tưởng và đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Chính vì vậy, cả cuộc đời của Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Về thực chất, đây cũng chính là tư tưởng thân dân. Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, của Đảng lên trên hết, là thân dân. Vậy thì vì sao ta phải “Thân dân”? Hồ Chí Minh giải thích: dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Nhân dân đã cung cấp cho Đảng những người con ưu tú nhất. Lực lượng của Đảng có lớn mạnh được hay không là do dân. Nhân dân là người xây dựng, đồng thời cũng là người bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng. Dân như nước, cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát triển được nếu như không có nước. Nhân dân là lực lượng biến chủ trương, đường lối của Đảng thành hiện thực. Do vậy, nếu không có dân, sự tồn tại của Đảng cũng chẳng có ý nghĩa gì. Đối với Chính phủ và các tổ chức quần chúng cũng vậy NỘI DUNG Thế nào là tư tưởng “ thân dân”. Quan niêm vể “ thân dân” trong nho giáo chính là tư tưởng lấy dân làm gốc. Điều này được thể hiện rõ trong Quan điểm của Khổng Tử và các thế hệ học trò về sau qua câu nói: "Quân vi khinh, xã tắc thứ chi, dân vi bản", nghĩa là: vua không quan trọng, xã tắc cũng chỉ là thứ yếu, quan trọng và cơ bản là dân. Vận dụng tư tưởng Nho gia Nguyễn Trãi đã cùng với Lê Lợi xây dựng lên đỉnh cao của các triều đại Phong kiến việt Nam và ông đã từng phát biểu: "Có lật thuyền mới biết sức dân như nước". Và trong thời đại ngày nay tư tưởng gần dân vẫn vẹn nguyên giá trị. Chẳng vậy mà tư tưởng Mác - Lênin đã khẳng định luận đề: người sáng tạo ra lịch sử là nhân dân đó thôi. Vậy là tư tưởng “ thân dân” hay “ lấy dân làm gôc” đã được coi trọng tư thời các bâc tiền bối, cả Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại của chúng ta cung luôn luôn coi đó là điều côt lõi của dân tộc. Cũng Tư tưởng “ thân dân” của các bậc tiền bối. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, "Lấy dân làm gốc" là truyền thống văn hoá chính trị của các nhà lãnh đạo, cầm quyền một lòng vì dân, vì nước. Nó thể hiện nhất quán tư tưởng : dân là nước, còn dân thì còn nước. Đất nước có tạm thời bị giặc ngoại xâm chiếm đóng, nhưng làng không mất, dân không mất (mất nước, mất làng) thì nhân dân sẽ đứng lên đấu tranh, đất nước nhất định sẽ được khôi phục trong độc lập, tự do. Các triều đại phong kiến Việt Nam độc lập trong lịch sử đều "Lấy dân làm gốc" trong việc ban hành các chủ trương, chính sách, từ kinh tế, xã hội, văn hoá, luật pháp đến an ninh, quốc phòng, ngoại giao... Triều Khúc Thừa Dụ có chính sách "Khoan, giản, an, lạc"; triều Lý có chính sách "Ngụ binh ư nông"; triều Trần có "Khoan, thư sức dân" , "Chúng chí thành thành" và nổi tiếng với Hội nghị Diên Hồng; triều Lê quan niệm "Dân như nước có thể đẩy thuyền, lật thuyền", nên vai trò, vị trí người dân được luật hoá trong Bộ luật Hồng Đức. Căn cứ vào thực tiễn lịch sử, nhà sử học Ngô Sĩ Liên (thời Lê) tổng luận, các triều đại đó đã "Lấy nghĩa mà duy trì, lấy nhân để cố kết, lấy trí để trông coi, lấy tín để ngăn phòng. Có đặt dân lên chốn chiếu êm mới làm cho thế nước vững như núi Thái Sơn, bàn thạch. Chăm lo cho nước trở nên văn minh, dân đến chỗ giàu thịnh là mưu hay trị dân, giữ nước; là kế xa sửa nước, chăn dân". Trong tập "Nước Việt Nam từ cội nguồn xa xưa đến ngày nay" của Giáo sư, Tiến sĩ Pi-e Ri-sa Fe-ray, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và sưu tầm về Á Đông ngày nay (CERAC) của nước Pháp, trong chương I nhan đề " Nước Việt Nam cổ xưa hay sự chinh phục của tính cách Việt Nam" có một đoạn viết khá hấp dẫn về nhà Lê và nhà văn hoá Nguyễn Trãi:" Triều đại nhà Lê (Lê sơ, 1428 -1527) do một chủ đất bình thường là Lê Lợi sáng lập. Ông trở thành Hoàng đế dưới danh hiệu Lê Thái Tổ (1428-1433), được một nhà nho, nhà văn, nhà chiến lược, nhà chính khách tài ba là Nguyễn Trãi giúp đỡ. Lê Lợi đã điều hành một cuộc chiến tranh giải phóng quốc gia thật mẫu mực, cho đến ngày nay, triều đại ông lập nên vẫn còn là một trong những triều đại được hâm mộ và có tiếng tăm lừng lẫy nhất. Nhưng các vua Lê còn làm được những việc hơn thế nữa, bằng Bộ luật Hồng Đức do vua Lê Thánh Tông (1470 - 1497) soạn thảo, các vua Lê đã thể nghiệm và xác định được vị trí "con người Việt" trong tổng thể các mối quan hệ xã hội". Cụ thể, Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện sâu sắc tư tưởng "Lấy dân làm gốc" của dân tộc ta, trong "Điều 294: Trong kinh thành và phường ngõ, làng xóm có kẻ ốm đau mà không ai nuôi, nằm ở đường xá, cầu điếm, chùa quán thì xã quan ở đó phải dựng lều lên mà chăm sóc họ cơm cháo, thuốc men, cốt sao cứu sống họ. Nếu không may mà họ chết thì phải trình quan trên và tổ chức chôn cất, không được để lộ thi hài. Nếu phạm tội này thì quan làng xã bị tội biếm hay bãi chức". Tính chất nhân đạo - "Lấy dân làm gốc" được nêu trong điều này của Bộ luật Hồng Đức chỉ xuất hiện ở châu Âu mấy thế kỷ sau đó, khi nổ ra cách mạng tư sản . Vào năm 1010, trong "Chiếu Dời Đô" khi truyền dời Kinh Đô Hoa Lư của nhà Đinh về Đại La và đổi tên Đại La thành Thăng Long vì nhà vua thấy rồng vàng hiện ra tại vùng này, Lý Công Uẩn đã viết: "Ngày xưa nhà Thương đến Bàn Canh là 5 lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương là 3 lần dời đô, há phải là các vị vua thời tam đại ấy tự dời đô theo ý thích riêng đâu, mà là mưu chọn chỗ ở trung tâm, giữ mối giềng muôn đời cho con cháu, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ thích hợp thì dời đổi.  Bởi thế ngôi truyền dài lâu, xã tắc hưng thịnh..." Nhà Vua làm điều gì, nhất là những đổi thay có thể ảnh hưởng đến tương lai của giống nòi, đều cân nhắc chín chắn và quyết định thay đổi vì lợi ích chung của dân tộc.  Thời nhà Trần, Trần Quốc Tuấn đã trông cậy vào sức của toàn dân mà thắng được giặc Nguyên.  Tư tưởng của người được cô đọng thành một câu: "Dựa vào sức dân để làm kế sâu gốc bền rễ, đó là thượng sách để giữ nước."  Trước thế mạnh của quân Nguyên mà gót chân của đạo quân thiện chiến này từng đạp đổ thành trì bao nhiêu nước từ Á sang Âu, Trần Quốc Tuấn đã tự tin vào tài thao lược của tướng sĩ nhà Nam và dựa vào sức mạnh đoàn kết của dân tộc để ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông.  Lòng tự tin của các tướng được thể hiện qua những câu nói bất hủ của Trần Thủ Độ:  "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo," của Trần Quốc Tuấn: "Nếu bệ hạ muốn hàng thì xin chém đầu thần trước đã" và sau đó lời thề sông Hóa: "Trận này không phá được giặc, ta thề chẳng trở về khúc sông này nữa."  Trước một quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc, nhà Vua cùng các cấp lãnh đạo chẳng tự ý định đoạt mà triệu tập Hội Nghị Diên Hồng và Hội Nghị Bình Than hỏi ý kiến muôn dân từ bậc bô lão đến người niên thiếu để thống nhất ý chí toàn dân "quyết chiến."  Đến thời Hậu Lê, Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh đến việc coi trọng nhân nghĩa đối với quốc dân trong Bình Ngô Đại Cáo: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; Quân điếu phạt chỉ vì khử bạo."  Bậc lãnh đạo quốc gia chỉ thật sự cần thiết mới khởi động can qua, chinh chiến vì biết rằng trước "mũi tên hòn đạn" sinh mạng sĩ tốt chẳng biết đâu mà ngờ.  Hơn thế, bất cứ một mất mát nào cũng đều gây khổ não cho nhiều thân nhân liên hệ.  Chưa kể đến sự thiệt hại về tài sản dân chúng và quốc gia cũng như cuộc chiến có thể xô đẩy dân tộc vào một tương lai vô cùng tăm tối, khó khăn về kinh tế, xáo trộn về xã hội mà phải mất thời gian lâu dài mới phục hồi lại được.  Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng nói: "Cổ lai quốc dĩ dân vi bản Đắc quốc ưng tri tại đắc dân." Từ xưa đến nay, nước luôn lấy dân làm gốc Được nước, nên biết là nhờ được lòng dân (Thơ Hán: Cảm Hứng) Quan điểm “ thân dân” của Hồ Chí Minh 3.1 So sánh quan điểm “thân dân” của Hồ Chí Minh với quan điểm “ thân dân” của Nho giáo. Tìm hiểu quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta thấy có những điểm tương tự với quan điểm của Nho gia. Điều đó cũng dễ hiểu, vì Người được tiếp thu một nền giáo dục Nho học từ người cha, một nhà nho có khí phách là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (1863-1929). Nhưng so với tư tưởng của Nho gia thì quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhiều điểm khác về căn bản. Trước hết nói về những điểm gặp nhau giữa Nho gia và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan điểm “lấy dân làm gốc”. Điểm thứ nhất là thái độ quý trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của dân. Về điều này, Mạnh Tử đã có câu nói lịch sử: “Dân là quý, sau mới đến xã tắc, vua thì xem nhẹ” (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Tuân Tử cũng có câu nói rất nổi tiếng: “Vua là thuyền, dân là nước, nước chở thuyền, nước cũng lật thuyền” (Quân giả chu dã, thứ dân giả thủy dã, thủy tắc tải chu, thủy tắc phúc chu). Từ đó, Nho gia thấy được một điểm hết sức quan trọng là: “Dân là gốc nước, gốc vững, nước yên” (Dân duy bang bản, bản cố, bang ninh). Điều đó được nói trong sách Kinh Thi. Hoặc: “Đường lối được dân chúng thì được nước, mất dân chúng thì mất nước” (Đạo đắc chúng tắc đắc quốc, thất chúng tắc thất quốc )Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có quan điểm tương tự như Nho gia, khi Người nói: “Trong bầu trời không có gì quý hơn bằng nhân dân. Trong thế gian không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” . Điểm thứ hai: quan tâm đến đời sống của dân. Nho gia yêu cầu các bậc trị quốc phải bảo đảm cho người dân có đời sống tối thiểu để họ: “ngẩng lên đủ để phụng dưỡng cha mẹ, cúi xuống đủ để nuôi sống vợ con” (sử ngưỡng túc dĩ sự phụ mẫu, phủ cập, dĩ sức thê tử) . Muốn vậy, người dân phải có “thu nhập ổn định” (hằng sản) đủ để sống. Nếu trên nét mặt người dân có sắc đói là trách nhiệm của kẻ cầm quyền. Đó là quan điểm tiến bộ của Mạnh Tử. Đây cũng là quan điểm cơ bản trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi người xác định trách nhiệm của Đảng và Chính phủ trong việc đề ra và thực hiện các chính sách: “Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm, Đảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”. Điểm thứ ba: phải gần dân, đối xử đúng mức với dân. Kinh Thư viết: “Đối với dân nên gần, không nên coi là thấp hèn” (dân khả cận, bất khả hạ). Khổng Tử nhắc nhở những người cầm quyền: “Sai khiến dân phải cẩn thận như điều hành một cuộc tế lễ lớn” (Sử dân như thừa đại lễ). Tác phong gần gũi nhân dân là nét tính cách tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác hay đi thăm hỏi đồng bào, tìm hiểu đời sống của nhân dân ở nhiều địa phương. Tác phong gần dân của Bác còn thể hiện ở cuộc sống giản dị của Người. Là Chủ tịch nước, nhưng từ chỗ ở đến cách ăn mặc và sinh hoạt hằng ngày của Người không có sự khác biệt bao nhiêu so với người dân bình thường. Bác luôn giáo dục cán bộ, đảng viên không được có tác phong quan liêu, cuộc sống quan cách xa rời nhân dân. Điểm thứ tư: lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc). Đây là một phương châm sống cao thượng của những nhà nho chân chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện quan điểm này trong toàn bộ hoạt động cũng như đời sống của Người. Bác chăm lo cho tất cả mọi người nhưng không bao giờ đòi hỏi đãi ngộ cho riêng mình. Làm việc gì, sống như thế nào, bao giờ Bác cũng nghĩ đến dân trước hết. Trên đây là điểm chung giữa Nho gia và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quan điểm “lấy dân làm gốc”. Sau đây xin đề cập đến những điểm khác nhau. Điểm thứ nhất: thái độ đối với người dân, nhất là người lao động chân tay và cách sống gần dân. Nho gia miệt thị người dân lao động. Về trí tuệ, họ xếp con người thành hai loại: thượng trí và hạ ngu. Thượng trí là bọn cầm quyền, bọn “quân tử”. Hạ ngu là người dân lao động. Họ cho rằng hai loại người này do số phận an bài nên không bao giờ thay đổi (Duy thượng trí hạ ngu bất di). Trong xã hội, họ phân biệt nghề sang, nghề hèn. Họ đề cao lao động trí óc bằng quan điểm: “Vạn cái nghề đều thấp hèn, duy chỉ có đọc sách là cao cả” (vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao). Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất tôn trọng nhân dân. Người thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải luôn luôn học hỏi nhân dân, học tập kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, coi nhân dân là người thầy của mình. Người tôn trọng tất cả mọi người, tất cả các nghề trong xã hội. Người nói: “Người nấu bếp, người quét rác cũng như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm tròn trách nhiệm cũng vẻ vang như nhau”. Nho gia khuyên những người cầm quyền “nới nhẹ sức dân”, “thương dân”. Điều đó có thể là tích cực, nhưng vẫn thuộc cử chỉ của người trên, của người “chăn dân”, của những ông “quan phụ mẫu”. Về điều này, sách Kinh Thi viết: “Vui thay bậc quân tử là cha mẹ dân” (Lạc chi quân tử, dân chi phụ mẫu). Sách Đại Học viết: “Dân thích điều gì, người thích điều ấy; dân ghét điều gì, người ghét điều ấy, thế mới là cha mẹ dân” (Dân chi sở hiếu, hiếu chi; dân chi sở ố, ố chi, thử chi vị dân chi phụ mẫu) . Sách Trung Dung cũng cho rằng: “Thương dân như con thì khuyến khích được trăm họ” (Tử thứ dân tắc bách tính khuyến) . Ngược lại với quan điểm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại cho rằng, những người cầm quyền trong xã hội là “người đầy tớ của nhân dân”. Người nói: “Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là sự phân công làm đầy tớ cho dân. Đó là vinh dự cao nhất” . Trong Di chúc, Người viết: “Phải gìn giữ Đảng ta thật trong sạch, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Người còn cho rằng: cán bộ, đảng viên thương dân chưa đủ mà còn phải hiếu với dân, như con cái giữ tròn chữ hiếu đối với cha mẹ. Về cách sống “gần dân”, Nho gia nói “dân khả cận”. Nhưng vua chúa, quan lại phong kiến sống trong lầu son gác tía, mấy khi người dân đen thấy “mặt rồng”, mặt “quan phụ mẫu”. Chúng sống một cuộc đời vương giả đầy nhung lụa và yến tiệc. Trong khi đó người dân sống trong bần hàn, cơ cực. Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với mọi người như người cha, người bác, người anh gần gũi. Bác ở trong căn nhà sàn giản dị, Bác cũng dùng món ăn dân dã trong bữa cơm, Bác đi dép cao su như mọi người dân lúc đó. Bác thường mặc bộ ka ki bạc màu khi đi công tác, kể cả đi nước ngoài, mặc áo nâu như một lão nông khi ở nhà. Có lúc Bác mặc áo vá. Một lần, mấy cán bộ gần Bác băn khoăn về chuyện này, Bác nói: “Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước mà mặc áo vá vai như thế này là cái phúc của dân đấy. Đừng bỏ cái phúc ấy đi” . Câu nói thật sâu sắc và cảm động. Không biết hiện nay “cái phúc ấy” còn bao nhiêu cán bộ lãnh đạo giữ lại được để cho dân nhờ? Tất nhiên, hiện nay đời sống của nhân dân đã được cải thiện nhiều thì cán bộ không nhất thiết cứ phải mặc áo vá. Điều Bác muốn nói là: cán bộ lãnh đạo mà biết sống giản dị, tiết kiệm, trong sạch, biết nghĩ đến dân và vì dân mà sống thì đó là cái phúc của dân. Điểm thứ hai: mục đích “lấy dân làm gốc”. Mục đích của Nho gia là để làm dịu mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và tầng lớp bị trị, nhất là ở thời đại nhà Chu mâu thuẫn giữa dân và giai cấp quý tộc rất gay gắt. Giai cấp thống trị mong muốn, nếu người dân được “bề trên” “quan tâm” thì yên bề ở vị trí nô lệ của mình, không đụng chạm đến quyền lợi, địa vị của chúng. Ngược lại, mục đích thực hiện quan điểm “lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là để giải phóng người dân thoát khỏi tình trạng bị nô lệ về chính trị, bị kiệt quệ về kinh tế, bị tối tăm về tinh thần, tư tưởng, văn hóa, giáo dục do xã hội cũ gây nên. Người nói: “Tôi chỉ có ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” Điểm thứ ba: sự hiện thực hóa quan điểm “lấy dân làm gốc”. Quan điểm của Nho gia chủ yếu có ý nghĩa trên diễn đàn, học thuật, không được giới cầm quyền đương thời thi hành, vì đụng chạm đến quyền lợi của chúng. Về mặt vật chất, người dân vẫn sống trong bần hàn, đói rách, vì bị bóc lột thậm tệ. Họ đâu có được “hằng sản” (thu nhập ổn định) đủ để sống, như Mạnh Tử mong muốn. Về tinh thần, tuyệt đại bộ phận người dân sống trong ngu dốt. Hưởng thụ văn hóa, giáo dục là đặc quyền, đặc lợi của giai cấp thống trị. Đâu có như Khổng Tử mong muốn là “hữu giáo vô loại” (có một nền giáo dục không phân biệt đẳng cấp). Ngược lại, quan điểm “lấy dân làm gốc” hay lý tưởng sống vì dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thể hiện bằng chính hoạt động của Người. Người không chỉ nói mà còn làm. Người suốt đời phấn đấu không ngừng cho lý tưởng đó. Người đã tổ chức, lãnh đạo nhằm phát huy sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân trong các giai đoạn của cách mạng và đã đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đời sống chính trị cũng như đời sống kinh tế và văn hóa - giáo dục của nhân dân ta không ngừng được cải thiện và nâng cao. Trên đây là mấy nét về sự giống và khác nhau giữa quan điểm “lấy dân làm gốc” của Nho gia và quan điểm “lấy dân làm gốc”của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sở dĩ có sự giống nhau là vì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa những yếu tố tích cực trong tư tưởng của Nho gia. Còn có sự khác nhau mà khác là căn bản, vì những lý do sau đây: Nho gia đứng trên lập trường của giai cấp bóc lột. Tư tưởng cũng như những triết luận của họ có tính chất an dân, nhằm điều hòa mâu thuẫn giai cấp, bênh vực quyền lợi và địa vị bọn thống trị. Người dân an tâm với những thu nhập “ổn định” (hằng sản) không tưởng và do đó cũng an tâm (hằng tâm) ở địa vị nô lệ của mình. Ngược lại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng trên lập trường của giai cấp công nhân. Người bênh vực cho quyền lợi của nhân dân lao động. Cơ sở tư tưởng của Người là chủ nghĩa Mác – Lênin, học thuyết về cách mạng, xóa bỏ áp bức giai cấp, đưa người dân từ địa vị nô lệ, bị áp bức bóc lột thành chủ nhân của xã hội mới. Một xã hội được xây dựng trên cơ sở bình đẳng giữa người với người và mục tiêu lý tưởng của xã hội đó là mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho tất cả mọi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiên quan điểm lấy dân làm gôc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nước lấy dân làm gốc; Gốc có vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói dân gian: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu hiện trước hết của dân là gốc là phải tin ở dân, gần gũi dân, và biết dựa vào dân; Phải có ý thức rõ “dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng”. Muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn biến đường lối chủ trương của Đảng thành phong trào quần chúng, thành sức mạnh cách mạng thì Đảng phải có đường lối đúng đắn; cán bộ đảng viên “phải liên lạc mật thiết với dân chúng, xa rời dân chúng là cô độc. Cô độc thì nhất định thất bại”. Cán bộ đảng viên còn phải học hỏi dân, “nếu không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân”, mà “muốn hiểu biết, học hỏi dân thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm”. Theo Hồ Chí Minh phải thực hiện dân chủ với dân để phát huy tinh thần làm chủ của dân là cốt lõi của vấn đề dân là gốc. Người thường nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân làm chủ”. Vậy quyền hạn, nghĩa vụ của người làm chủ phải thế nào? Câu trả lời của Người là: “Nếu Chính phủ sai thì phải phê bình, phê bình nhưng không phải là chửi”. Và người yêu cầu: người làm chủ trước hết phải làm tròn bổn phận công dân, tức là phải tuân theo pháp luật Nhà nước; tuân theo kỷ luật lao động; giữ gìn trật tự chung; nộp thuế đúng kỳ, bảo vệ tài sản công cộng; bảo vệ Tổ Quốc. “Phải chăm lo việc nước như việc nhà”, “phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ”; “làm chủ sao cho ra làm chủ, không phải làm chủ là muốn ăn bao nhiêu thì ăn, làm bao nhiêu thì làm”. Theo Hồ Chí Minh, thiết thực nhất của việc bồi dưỡng “cái gốc” là phải thường xuyên chăm lo đời sống cho dân, chăm lo lợi ích chính đáng của dân. Người thường nhắc tới những câu của người xưa “có thực với vực được đạo”, “dân dĩ thực vi thiên”. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: “Đối với nhân dân không thể lý luận suông”. Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm lo đời sống của dân: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm dân là gốc là quan điểm khoa học, toàn diện. Đó là sự kế thừa những tinh hoa dân tộc, là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ thực tiễn cuộc sống, Hồ Chí Minh lưu ý: “Bất kỳ nơi nào có quần chúng, thì nhất định có ba hạng người: hạng hăng hái, hạng vừa vừa và hạng kém… Người lãnh đạo phải dùng hạng hăng hái làm trung kiên cho sự lãnh đạo, do hạng hăng hái đó mà nâng cao hạng vừa vừa và kéo hạng kém lên. Phải học hỏi dân chúng, nhưng “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”; phải “tìm ra mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau, xem cái nào đúng, cái nào sai” để vận dụng. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết hợp tính nhân văn của chủ nghĩa cộng sản với tinh hoa truyền thống "Lấy dân làm gốc" của dân tộc, đưa nhân dân lên vị trí làm chủ trong tiến trình cách mạng. Từ chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm đến chống các tệ nạn "làm quan cách mạng", bệnh quan liêu, quân phiệt, tham nhũng, tư túi, bè cánh, xa rời quần chúng... Đặc biệt, truyền thống "Lấy dân làm gốc" được xác định là cơ sở của tư tưởng cách mạng và là nền tảng tư tưởng quân sự, quốc phòng của Hồ Chí Minh và Đảng ta. Trong những bài giảng để đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam ( xuất bản năm 1927 thành tập "Đường cách mệnh"), so sánh với nhữngcuộc cách mạng đã nổ ra trên thế giới, Hồ Chí Minh nhấn mạnh yêu cầu "Làcách mệnh đến nơi", "Cách mệnh rồi thì giao cho quần chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người... tức là dân chúng được hưởng cái tự do, bình đẳng thật". Trong những vấn đề then chốt nhất của cách mạng, Người khẳng định "Phải theo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải có Đảng vững bền và phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc" và "Cách mệnh là việc chung của dân chúng chứ không phải việc của một, hai người... Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống nổi". Khi đã giành được chính quyền, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bảo vệ chính quyền cách mạng, chẳng những đã kế thừa được truyền thống "Lấy dân làm gốc" của dân tộc mà còn tạo mọi điều kiện để thực sự đưa nhân dân lao động lên vị trí làm chủ đất nước: "Anh em phải làm sao cho dân yêu, mến. Phải nhớ rằng dân là chủ. Dân như nước, mình như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết..." và "Nước lấy dân làm gốc. Trong cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân. Gốc có vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Sau kháng chiến chống Pháp thành công, cách mạng Việt Nam tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng CNXH trên miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ý thức làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và coi phục vụ nhân dân là tốt đẹp, vẻ vang nhất: "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân... Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ nhân dân". Tin tưởng vô bờ vào sức mạnh của nhân dân, không ngừng động viên, giáo dục, tổ chức nhân dân làm cách mạng để đem lại độc lập, tự do cho đất nước, hạnh phúc cho toàn dân là sự nghiệp cao cả mà Chủ tịch Hồ Chí Minh suốt đời theo đuổi, đã đem lại cho đất nước, cho dân tộc những thành qủa chưa từng có trong lịch sử. Một sự kiện được nhiều người nhắc tới là tháng 10/1949 khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai đoạn quyết liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận. Người diễn đạt rất khái quát: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Quan điểm của Người thật rõ ràng: Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Điều mà cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh nung nấu trăn trở là vấn đề thực hiện dân chủvới dân; làm thế nào để nhân dân “biết dùng quyền dân chủ” và “hưởng quyền dân chủ”. “Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người  muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử, hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu  cử... Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân". Sau khi  nước nhà giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã  đặc biệt quan tâm đến vấn đề trọng dụng, chiêu mộ nhân tài ra

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10134.doc
Tài liệu liên quan