Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam(tháng 12 – 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI là một cuộc đánh dấu bước chuyển quan trọng nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam xuất phát điểm là một nước nghèo,kinh tế - kỹ thuật lạc hậu,trình độ xã hội còn thấp,lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam,là khát vọng ngàn đơì thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Thực tế sau những năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng,kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả,từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận,nhất là tư duy kinh tế,vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được cũng còn những vấn đề hạn chế bất cập. Chính vì thế chúng ta phải luôn đổi mới,nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế,phải vận dụng chính sách một cách linh hoạt cho phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ,trong sự vận động,phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác – Lênin vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết. Vì vậy,trong bài viết tiểu luận triết học của mình,tôi đã chọn đề tài: “Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
15 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1401 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam(tháng 12 – 1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội VI là một cuộc đánh dấu bước chuyển quan trọng nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Việt Nam xuất phát điểm là một nước nghèo,kinh tế - kỹ thuật lạc hậu,trình độ xã hội còn thấp,lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam,là khát vọng ngàn đơì thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Thực tế sau những năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng,kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả,từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận,nhất là tư duy kinh tế,vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được cũng còn những vấn đề hạn chế bất cập. Chính vì thế chúng ta phải luôn đổi mới,nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế,phải vận dụng chính sách một cách linh hoạt cho phù hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ,trong sự vận động,phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác – Lênin vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết. Vì vậy,trong bài viết tiểu luận triết học của mình,tôi đã chọn đề tài: “Quan điểm lịch sử cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”.
NỘI DUNG
1. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.
Tính tất yếu khách quan phát triển KTTT ở Việt Nam
1.1.1 Khái niệm KTTT
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Trong đó,toàn bộ các yếu tố “đầu ra”của sản xuất đều thông qua thị trường KTHH và KTTT không đồng nhất với nhau,chúng khác nhau về trình độ phát triển và về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
Kinh tế thị trường được hiểu là một kiểu kinh tế - xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường,tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá - tiền tệ,với quan hệ cung - cầu. Trong nên KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hoá hay ít nhất cũng phải sử dụng nó như là một khâu trung gian.
Hiện tại Việt Nam đã hội tụ đầy đủ những yếu tố cần thiết khách quan cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá,cao hơn nữa là KTTT,cụ thể là:
Phân công lao động xã hội, điều kiện giữ vai trò là cơ sở của sản xuất và trao đổi hàng hoá ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Nền kinh tế đang tồn tại nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau,có nhiều chủ thể kinh tế. Các chủ thể này độc lập,tách biệt nhau,mặc dù đều nằm trong hệ thống phân công lao đông chung của xã hội. Do vậy trong sản xuất kinh doanh họ vừa cạnh tranh với nhau,quan hệ kinh tế giữa các chủ thể chỉ có thể được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi hàng hoá. Mặt khác cũng chính sự phát triển của quan hệ hàng hoá sẽ tạo ra cơ chế để khai thác có hiệu quả những tiềm năng của các thành phần kinh tế.
1.1.2 Tác dụng to lớn của sự phát triển KTTT.
Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá buộc mọi chủ thể sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí sản xuất đến mức tối thiểu,nhờ đó có thế cạnh tranh được về giá cả, đứng vững trên thị trường. Qúa trình đó giúp thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển,nâng cao năng suất lao động xã hội.
Trong nền KTHH,người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng,của thị trường quyết định sản xuất sản phẩm gì,với khối lượng bao nhiêu,chất lượng như thế nào. Do đó KTHH kích thích tính năng động sáng tạo của chủ thể kinh tế,kích thích việc nâng cao chất lượng,cải tiến mẫu mã,cũng như tăng khối lượng hàng và dịch vụ.
Kinh tế hàng hoá còn thúc đẩy sự phân công lao động và xã hội và chuyên môn hoá sản xuất.Vì thế phát huy được tiềm năng lợi thế của từng vùng,cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Sự phát triển của KTTT sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất,do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn,có tính xã hôi hoá cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi,hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Như vậy,phát triển KTTT là một tất yếu kinh tế đối với nước ta,một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại,hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế.
Thực tế những năm đổi mới đã chứng minh rằng,việc chuyển sang nền kinh KTTT nhiểu thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển nền KTHH nhiều thành phần,chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn,kỹ thuật,công nghệ của nước ngoài,giải phóng được năng lực sản xuất,góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Nước ta đang thực hiện chuyển đổi nền kinh tế,chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang KTHH. Mô hình kinh tế Việt Nam xác định là nền kinh tế KTHH nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng XHCN.
Thực tế sau 20 năm đổi mới Việt Nam đã đạt được những thành tựu không thể phủ nhận trong quá trình chuyển sang KTTT mà không gây biến động lớn trong đời sống chính trị. Như vậy mô hình KTTT là mô hình đã được kiểm nghiệm qua thực tế,nó đã chứng tỏ được những ưu thế của nó so với mô hình kinh tế chỉ huy và cuộc sống đã lựa chọn nó. Vì vậy chúng ta chủ trương chuyển sang KTTT là phù hợp với xu thế phát triển khách quan của xã hội và của lịch sử. 1.2.KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam.
1.2.1.Khái niệm KTTT định hướng XHCN.
Thực chất,nền KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế quá độ, đang trong quá trình chuyển biến cách mạng lên nấc thang mới. Đó là kiểu tổ chức nền kinh tế - xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của KTTT,vừa dựa trên những nguyên tắc và cơ sở kinh tế của CNXH thể hiện trên cả 3 mặt: sở hữu,tổ chức quản lý và phân phối.
KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế kiểu mới,có tổ chức,có kế hoạch, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của Nhà nước XHCN. Nó hoạt động trên cơ sở kết hợp giữa sự nhận thức tính tất yếu khách quan với phát huy vai trò năng động sáng tạo của chủ thể,nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá và phát triển rút ngắn, đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế thế giới và trở thành quốc gia phát triển. Nền kinh tế này thể hiện sâu sắc việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể Đảng và Nhà nước ta trong xây dựng kinh tế trước tình hình thực tiễn của Việt Nam và thế giới.
1.2.2. Bản chất và đặc trưng nền KTTT định hướng XHCN.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là sự gán ghép chủ quan kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội,mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Cũng có thể nói kinh tế thị trường là “cái phổ biến,còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là “cái đặc thù”của Việt Nam,phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa đây không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa,cũng không phải là kinh tế bao câp,quản lý theo kiểu tập trung quan liêu,và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,bởi vì như trên đã nói,Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,vừa có vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội.
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại,phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc thúc đẩy phát triển sức sản xuất,xã hội hoá lao đông,cải tiến kỹ thuật – công nghệ,nâng cao chất lượng sản phẩm,tạo ra nhiều của cải,góp phần làm giàu cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Đại hộ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dực trên cơ sở và được dẫn dắt,chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội,thể hiện trên cả ba mặt:sở hữư,tổ chức quản lý,và phân phối
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất,phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới,tiên tiến.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu,nhiều thành phần kinh tế,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế bằng chiến lược,quy hoạch,kế hoạch,chính sách,pháp luật và bằng cả sức mạnh vật chất của lực lượng kinh tế nhà nước, đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất,giải phóng sức sản xuất,phát huy mặt tích cực,hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường,bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động,của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn là các nguồn lực khác vào sản xuất,kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục,xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản săc dân tộc,nâng cao dân trí,giáo dục và đào tạo con người,xây dựng và phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Cũng có thế nói,kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới chế độ xã hội mới – xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế thị trường có tổ chức,có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, được định hướng cao về mặt xã hội,hạn chế tối đa những khuyết tật của tính tự phát thị trường,nhằm phục vụ tốt nhất lợi ích của đại đa số nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy,quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải đơn giản là sự trở về với phương thức chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp,mà điều quan trọng có ý nghĩa quyết định là phải chuyển sang nền kinh tế hiện đại,văn minh nhằm mục tiêu từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn phù hợp với các quy luật phát triển và các điều kiện lịch sử cụ thể của thời đại và của những nước đi sau,cho phép các nước này giảm thiểu được những đau khổ và rút ngắn được con đường đi của mình tới chủ nghĩa xã hội trên cơ sở sử dụng được ưu thế cũng như hạn chế được những khuyết điểm của hai cơ chế: kế hoạch và thị trường.
2.THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐINH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA.
2.1. Sự cần thiết phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn chậm phát triển,chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp với hệ thống sản xuất còn yếu kém,bộ máy quản lý cồng kềnh và mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền KTTT đầy tính năng động tự chủ sáng tạo,do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm vào đó xuất phát điểm của chúng ta là quá thấp so với các nước trên thế giơi và khu vực. Chính vì thế chúng ta là quá thấp so với các nước trên thế giới và khu vực.
Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác – Lênin vào quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam là rất cần thiết. Quan điểm này, đặc biệt trong giai đoạn thúc đẩy đổi mới nhiều và liên tục như hiện nay, đã trở thành lý luận hữu hiệu để đòi hỏi có những thay đổi thích hợp hơn. Với sự biến đổi và tác động đa dạng của nhiều yếu tố nên phát triển kinh tế phải căn cứ vào những điều kiện cụ thể của bản thân nền kinh tế và đặt trong bối cảnh không gian và thời gian là yếu tố thời đại và xu hướng phát triển kinh tế thế giới.
2.2.Thực trạng nền kinh tế Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến quá trình xây dựng và phát triển KTTT định hướng XHCN.
2.2.1.Thực trạng nền kinh tế đất nước.
Nền kinh tế nước ta trước khi đổi mới vẫn đang là nền KTTT ở giai đoạn sơ khai,chưa đạt đến một nền KTTT đầy đủ và hiện đại, điều này thể hiện ở những điểm sau:
- Kinh tế hàng hoá kém phát triển,nền kinh tế còn mang nặng tính tự cung tự cấp.Cụ thể:
+ Trình độ cơ sở vật chất kỹ thuật còn thấp kém.
+ Hệ thống kết cấu hạ tầng,dịch vụ sản xuất và dịch vụ xã hội chưa đủ để đáp ứng yêu cầu kinh tế thị trường trong nước cũng như để giao lưu với bên ngoài.
+ Cơ cấu kinh tế thị trường trong cuộc nước cũng như để giao lưu với bên ngoài.
+ Năng suất lao động xã hội và thu nhập bình quân đầu người còn thấp
+ Thị trường tiền tệ,thị trường vốn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trăn trở. Thị trường chứng khoán ra đời đã đi vào hoạt động nhưng vẫn đang trong giai đoạn sơ khai chưa ổn định. Quan hệ cung cầu nhiều lúc căng thẳng lượng các doanh nghiệp niem yết trên thị trường còn ít.
+ Thị trường đất đai: Hiện nay ở Việt Nam thị trường nhà cửa, đất đai có những biến động bất thường. Diện tích đất nông nghiệp đất canh tác đang bị thu hẹp do tình trạng sử dụng đất sai mục đích chạy theo lợi ích cá nhân…
+ Thị trường công nghệ thông tin: Hiện nay ở Việt Nam đây là thị trường mới,vì vậy trình trạng trao đổi thông tin vi phạm quyền sở hữu trí tuệ,thông tin sai lệch …tồn tại phổ biến.
- Khả năng mở cửa, để chủ động hội nhập,gắn kết thị trường trong nước với thị trường khu vực và thị trường thế giới vẫn còn hạn chế.
+ Hiện tại Việt Nam vẫn chưa phát huy được lợi thế so sánh của mình trên thị trường khu vực và thế giới. Tài nguyên,nhân công,vị trí địa lý là những lợi thế của Việt Nam,song với tình trạng công nghệ lạc hậu,cơ sở hạ tầng yếu kém và giáo dục đào tạo không đáp ứng được nhu cầu đào tạo nhân lực như hiện nay thì rất khó phát huy được.
+ Xuất khẩu của Việt Nam hiện nay vẫn chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm thô,sản phẩm cơ chế,những sản phẩm chế biến thì giá thành lại cao chất lượng thấp.
2.2.2. Ảnh hưởng của nền kinh tế xã hội trong nước và quốc tế với quốc tế tới quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta.
-Những nhân tố trong nước:
Việt Nam đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh với sụ tàn phá rất lớn,nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đã để lại những hậu quả nặng nề. Cơ sở vật chất thấp kém với nền KH – CN,kỹ thuật lạc hậu,hầu hết những hệ thống máy móc trong các nhà máy đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ trong chiến tranh nên năng suất thấp,chất lượng ké. Hệ thống giao thông vận tải vốn đã không tốt lại thêm bom đạn của chiến tranh nên ngày càng xuống thấp. Công nghệ dịch vụ hầu như không phát triển,chiém tỉ trọng chưa đến 50%GDP còn chủ yếu là nông nghiệp. Bên cạnh đó còn có một hậu quả nặng nề khác là cơ chế bao cấp phân phối bình quân,lợi ích của mọi người đều như nhau dẫn đến việc không giảm sút,trình độ dân trí thấp và đặc biệt nghiêm trọng là tư tưởng thụ động ỷ lại,thiếu tính năng động quyết đoán ẩn sâu trong người dân và tất cả các cán bộ trong hệ thống quản lý kinh tế.
Điều kiện địa lý cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình,lãnh thổ nước ta trải dài trên nhièu vĩ tuyến,bề ngang hẹp, địa hinh phức tạp mang đậm nét của sự phân độ sâu sắc. Ta cũng có thuận lợi là nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á,khu vực phát triển cao, ổn định nơi cửa ngõ của giao lưu quốc tế,Việt Nam có nhiều khả năng đêt phát triển nhiều loại hình kinh tế khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển,dịch vụ viễn thông du lịch.
Về dân số, nước ta có số dân đông,nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố không đồng đều,trình độ lao động chưa cao chủ yếu là lao động thủ công,lao động có trình độ chưa đáp ứng đủ so với nhu cầu của thị trường.
Về văn hoá xã hội,nói đến văn hoá của một dân tộc là nói đến bản sắc cốt cách riêng thể hiện trong những yếu tố cấu thành văn hoá của dân tộc đó. Với chiều dài 4000 năm lịch sử,nước ta có một nền văn hoá lâu đời với các giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp. Với bề dày văn hoá đó cùng với chế độ chính trị đúng đắn là CNXH,chúng ta có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển nền KTTT định hướng XHCN tiên tiến.
- Những nhân tố thế giới và khu vực:
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc,mặc dù tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp tác để phát triển là xu thế chủ đạo,là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học,viễn thông,sinh học,vật liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa ngày nau,không một nền kinh tế nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế.Trong lịch sử phát triển của XH có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều tầng lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN, WTO, AFTA,EU
2.3 Qúa trình xây dựng và phát triển nền KTTT đinh hướng XHCN ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể.
Đối với nước ta,quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung,quan liêu,bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,vận động theo cơ chế thị trường,có sự quản lý của Nhà nước,theo định hướng xã hội chủ nghĩa(XHCN)thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN, được bắt đầu từ Đại hội Đảng VI (năm 1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế 20 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN đã chứng minh rằng,kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế có hiệu quả,từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận,nhất là tư duy kinh tế,vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam.
Đại hội lần thứ X (năm 2006) Đảng tiếp tục khẳng định: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội,chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hoá;hiện đại hoá;xây dựng nền văn hoá tiên tiến; đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần thần của xã hội; xây dựng nển dân chủ xã hội chủ nghĩa,thực hiện đại đoàn kết dân tộc;xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,do nhân dân,vì nhân dân;xây dựng Đảng trong sạch,vững mạnh;bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia;chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội X tiếp tục làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 4 nội dung cơ bản là:
- Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý Nhà nước.
- Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh.
- Phát triển mạnh các thành phần kinh tế,các loại hình tổ chức kinh doanh.
Như vậy,trải qua các kỳ Đại hội,chúng ta luôn khẳng định con đường mà chúng ta lựa chọn đó là CNXH và để đi lên CNXH chúng ta phải phát triển kinh tế thị trường. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta được Đảng khẳng định trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH(1991) với 6 đặc trưng cơ bản và đến nay Đại hội Đảng X tiếp tục khẳng định ngày càng sáng tỏ hơn với 8 đặc trưng cơ bản là:
- Là một xã hội dân giàu,nước mạnh,công bằng,dân chủ,văn minh.
- Do nhân dân làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao,dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức,bất công,có cuộc sống ấm no,tự do,hạnh phúc,phát triển toàn diện.
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,do nhân dân,vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mơi,chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế không ngưng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều,tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Đại hội lần thứ X của Đảng đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta với 4 tiêu chí:
Thứ nhất: về mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nhằm: thực hiện “dân giàu,nước mạnh,xã hội công bằng,dân chủ văn minh”,giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất,nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói,giảm nghèo,khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn.
Thứ hai: về phương hướng phát triển,phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Chúng ta phải thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,nhiều thành phần kinh tế là nhằm giải phóng sức sản xuất, giải phóng tiềm năng phát triển trong mỗi thành phần kinh tế,mối cá nhân,mỗi vùng miền…là cách để phát huy tối đa nội lực,tạo sức bật để phát triển nhanh và bền vững.Kinh tế nhà nước là công cụ chủ yếu để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục tiêu: dân giàu ,nước mạnh,xã hội công bằng dân chủ,văn minh.
Thứ ba,về định hướng xã hội và phân phối: phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách phát triển;tăng trưởng kinh tế phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội,văn hoá,giáo dục và đào tạo…giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người.
Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội không chỉ để bảo đảm sự phát triển bền vững ,mà còn là sự thể hiện rõ định hướng phát triển nền kinh tế. Thể hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển,trong tưng chính sách phát triển,chính là để hạn chế tiêu cực của kinh tế thị trường,nhằm từng bước thực hiện mục tiêu tất cả vì sự phát triển toàn diện của con người.
Thứ tư, định hướng XHCN trong lĩnh vực quản lý: Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân,bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết kinh tế của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,người lao động là người chủ xã hội. Người công nhân dù làm trong xí nghiệp tư nhân vẫn là người làm chủ đất nước,làm chủ xã hội.
3. MỘT SỐ THÀNH TỰU VÀ GIẢI PHÁP TRONG XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KTTT ĐỊNH HƯỚNG XHCN.
3.1 Những thành tựu đạt được.
Trước xu thế chủ đạo của thế giới là hợp tác để phát triển,Việt Nam đã bước đầu hội nhập được nên kinh tế thế giới bằng việc gia nhập các tổ chức kinh tế ở khu vực cũng như của thế giới. Hiện nay hàng hoá Việt Nam đã có mặt trên 120 nước trên thế giới với số lượng và chất lượng ngày càng cao. Sau hơn 20 thực hiện chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể cụ thế sau đổi mới tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng tương đối ổn định
Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Triet 11.docx