Cổ phần hoá(CPH) một bộ phận doanh nghiệp nhà nước(DNNN) là chủ trương lớn của đảng và nhà nước nhằm huy động vốn nhàn rổi trong xã hội để tiếp sức thêm nguồn lực cho doanh nghiệp (DN) góp phần cơ cấu lại DN trong nền kinh tế quốc dân. Với yêu cầu đó, hệ thống DN được sắp xếp lại theo nghị định 388/HĐBT và nghị định 500/TTG của thủ tướng chính phủ. Số lượng DNNN giảm từ trên 12.000 DN (1991) xuống còn trên 6.000 DN (1997). Có khoảng trên 70 công ty nhà nước nguồn vốn tại doanh trên 70.000 tỷ đồng. Hàng năm số vốn này tiếp tục tăng trưởng và được đầu tư mở rộng sản xuất.
Cổ phần hoá là một giải pháp kinh tế lớn đuợc lựa chon nhằm thực hiện chiến lược chung là phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên cho đến nay CPH diễn ra chưa thực sự nhanh chóng và đồng bộ, bởi còn gặp nhiều khó khăn. Để giải thích tình trạng này một số nguyên nhân đã được chỉ ra như : Mục tiêu CHP chưa được rỏ ràng, cưa được sự hưởng ứng nhiệt tình của cán bộ, công nhân viên chức các công ty thuộc diện CPH. Thị trường chứng khoán được hình thành chưa lâu nên còn khá mới lạ với người Việt nam. Chiếm đội ngủ cán bộ kinh doanh giỏi, hệ thống pháp luật chưa đáp ứng kịp sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước nhà, còn có nhiều kẻ hở trong pháp luật.
Đến năm 1992 bằng quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 của thủ tướng chính phủ cho thí điểm một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần. Lúc đó công tác CPH mới thực sự đi vào cuộc sống và nó trở thành một giải pháp hữu hiệu để cơ câú lại khu vực DNNN và nâng cao hiệu quả hoạt động của DN cổ phần. Tuy nhiên từ khi bắt đầu khởi xướng cho đến khi thí điểm đã gần 10 năm nay nhưng chỉ mới chuyển được không nhiều DNNN thành công ty cổ phần theo nghị định 28/CP. Trog đó Bộ Giao Thông Vận Tải có một công ty đó là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận tải (GEMADEP).
Sau 4 năm làm thí điểm bằng nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và quyết định 548/TTG ngày 13/8/1996 của thủ tướng chính phủ đã chính thức hoá từ thời kì làm thử sang thời kì làm thật. Việc chuyển một DNNN sang công ty cổ phần mà ta gọi quen là cổ phần hoá. Tại đại hội đảng VIII, chủ trương kinh tế lớn này lại được khẳng định một lần nữa với yêu cầu tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện triển khai một cách tích cực và vững chắc với mục tiêu nhất quán là tạo thêm động lực mới trong quản lý, huy động thêm vốn cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu khu vực DNNN.
Từ thực tiển tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng XHCN và kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh. Chúng ta xác định được rằng cải cách DNNN một cách triệt để là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường phát triển sản xuất và thúc đẩy DNNN hoạt động hiệu quả hơn. trong nhiều năm qua đảng và nhà nước ta đã kiên trì tiến hành công tác sắp xếp, đổi mới các DNNN và đã đạt được một số kết quả nhất định như giảm mạnh số lượng DNNN, năng cao quy mô bình dân, giảm bớt được sự tài trợ của ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mục tiêu nhất quán của CPH một bộ phận DNNN là để huy động vốn, tạo điều kiện để người lao động làm chủ thực sự trong DN, tạo động lực bên trong thay đổi phương thức quản lý nhằm năng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cuả DN, đồng thời làm tăng tài sản và cơ cấu DN.
55 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Cổ phần hoá(CPH) một bộ phận doanh nghiệp nhà nước(DNNN) là chủ trương lớn của đảng và nhà nước nhằm huy động vốn nhàn rổi trong xã hội để tiếp sức thêm nguồn lực cho doanh nghiệp (DN) góp phần cơ cấu lại DN trong nền kinh tế quốc dân. Với yêu cầu đó, hệ thống DN được sắp xếp lại theo nghị định 388/HĐBT và nghị định 500/TTG của thủ tướng chính phủ. Số lượng DNNN giảm từ trên 12.000 DN (1991) xuống còn trên 6.000 DN (1997). Có khoảng trên 70 công ty nhà nước nguồn vốn tại doanh trên 70.000 tỷ đồng. Hàng năm số vốn này tiếp tục tăng trưởng và được đầu tư mở rộng sản xuất.
Cổ phần hoá là một giải pháp kinh tế lớn đuợc lựa chon nhằm thực hiện chiến lược chung là phát triển kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên cho đến nay CPH diễn ra chưa thực sự nhanh chóng và đồng bộ, bởi còn gặp nhiều khó khăn. Để giải thích tình trạng này một số nguyên nhân đã được chỉ ra như : Mục tiêu CHP chưa được rỏ ràng, cưa được sự hưởng ứng nhiệt tình của cán bộ, công nhân viên chức các công ty thuộc diện CPH. Thị trường chứng khoán được hình thành chưa lâu nên còn khá mới lạ với người Việt nam. Chiếm đội ngủ cán bộ kinh doanh giỏi, hệ thống pháp luật chưa đáp ứng kịp sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước nhà, còn có nhiều kẻ hở trong pháp luật.
Đến năm 1992 bằng quyết định 202/CT ngày 8/6/1992 của thủ tướng chính phủ cho thí điểm một bộ phận DNNN thành công ty cổ phần. Lúc đó công tác CPH mới thực sự đi vào cuộc sống và nó trở thành một giải pháp hữu hiệu để cơ câú lại khu vực DNNN và nâng cao hiệu quả hoạt động của DN cổ phần. Tuy nhiên từ khi bắt đầu khởi xướng cho đến khi thí điểm đã gần 10 năm nay nhưng chỉ mới chuyển được không nhiều DNNN thành công ty cổ phần theo nghị định 28/CP. Trog đó Bộ Giao Thông Vận Tải có một công ty đó là công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận tải (GEMADEP).
Sau 4 năm làm thí điểm bằng nghị định 28/CP ngày 7/5/1996 và quyết định 548/TTG ngày 13/8/1996 của thủ tướng chính phủ đã chính thức hoá từ thời kì làm thử sang thời kì làm thật. Việc chuyển một DNNN sang công ty cổ phần mà ta gọi quen là cổ phần hoá. Tại đại hội đảng VIII, chủ trương kinh tế lớn này lại được khẳng định một lần nữa với yêu cầu tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý tạo điều kiện triển khai một cách tích cực và vững chắc với mục tiêu nhất quán là tạo thêm động lực mới trong quản lý, huy động thêm vốn cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu khu vực DNNN.
Từ thực tiển tiến hành công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước theo định hướng XHCN và kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh. Chúng ta xác định được rằng cải cách DNNN một cách triệt để là yêu cầu có tính quyết định để tăng cường phát triển sản xuất và thúc đẩy DNNN hoạt động hiệu quả hơn. trong nhiều năm qua đảng và nhà nước ta đã kiên trì tiến hành công tác sắp xếp, đổi mới các DNNN và đã đạt được một số kết quả nhất định như giảm mạnh số lượng DNNN, năng cao quy mô bình dân, giảm bớt được sự tài trợ của ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mục tiêu nhất quán của CPH một bộ phận DNNN là để huy động vốn, tạo điều kiện để người lao động làm chủ thực sự trong DN, tạo động lực bên trong thay đổi phương thức quản lý nhằm năng cao hiệu quả và sức cạnh tranh cuả DN, đồng thời làm tăng tài sản và cơ cấu DN.
Nội dung
1. Cơ sở khoa học và kinh nghiệm cổ phần hoá DNNN.
1.1 Sơ lược vài nét về thực chất của cổ phần hoá
Thực chất của cổ phần hoá là gì?
Vấn đề này hiện nay có ba ý kiến khác nhau; loại ý kiến thứ nhất thì cho rằng thực chất của CPH là tư nhân hoá. Loại ý kiến thứ hai cho rằng CPH nhằm mục đích xác định chủ sở hưu cụ thể đối với DN. Còn loại ý kiến thứ ba cho rằng thực chất của CPH là xã hội hoá DNNN.
Theo tôi thì các quan điển trên đây chỉ đúng một phần. Trước hết tư nhân hoá và CPH là hai khai niệm khác nhau. Tư nhân hoá là quá trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân. để thực hiện quá trình này có thể sử dụng rất nhiều phương pháp: bán cho tư nhân , cho không CNVC hoặc toàn dân, giải thể và bán đấu giá sản phẩm, CPH… tóm lại CPH chỉ là một trong nhiều cách để tư nhân hoá một phần tài sản của DNNN. Vậy khái niệm tư nhân hoá rộng hơn, khó khăn hơn quá trình cổ phần hoá.
Quá trình CPH phải nhằm giải quyết được 4 vấn đề :
Về sở hữu: nhằm đa dạng hoá quyền sở hữu và cụ thể hoá chủ sở hữu.
Về hoạt động : nhằm thương mại hoá mọi hoạt động của DN.
Về quản lý: luật pháp hoá tổ chức quản lý( theo luật công ty đã ban hành và các luật khác)
Về hiệu quả: nhằm nâng coa hiệu quả sản xuất kinh doanh của DN. Ba vấn đề đầu sẻ là tiên đề cho vấn đề thứ tư.
Hình thức CPH có thể khác nhau tuỳ theo điều kiện:
Có thể bán DNNN cho các cổ đông là tư nhân, cá thể trong trường hợp nhà nước không cần giữ DN đó trước hình thức quốc doanh.
Có thể bán DNNN cho các cổ đông có từ hai đến bốn thành phần: quốc doanh và tập thể , quốc doanh và tư nhân, tập thể và tư nhân…
Trong thực tế có thể bán DNNN cho các DN và các DNNN khác. trường hợp này vẩn có lợi hơn là giử DNNN như củ vì nó không thể đạt yêu cầu thứ nhất là CPH DNNN nhưng đạt ba yêu cầu tiếp theo.
Trong quá trình thực hiện QĐ 202/CT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng về CPH, nhà nước cần phải kết hợp hai biện pháp kinh tế và hành chính.
Nội dung chính của biện pháp hành chính là nhà nước ra lệnh bắt buộc DN phải thực hiện CPH, nế thấy đủ điều kiện mà lảnh đạo DN không chịu làm. chúng ta không có con dường nào khác tiến lên ngoài con đương CPH phần lớn các DNNN. Nhưng đây là con đường chông gai là cục cách mạng thực sự. Cuộc cách mạng này có khi còn ác liệt hơn cách mạng có hai chiến tuyến: địch ta rỏ rệt vì về hình thức “ quân ta ” đánh “ quân mình” . Điều đó nhắc nhở chúng ta rằng, mặc dù ta có nhiều điều kiện thuận lợi, củng không nên đơn giản hoá và nóng vội trong việc CPH các DNNN.
Quá trình cổ phần hoá.
Nội dung thí điểm CPH một số DNNN ở Việt nam. Như mọi người đều biết, từ 1986 Việt Nam chủ trương đẩy mạnh công cuộc đổi mới về mọi mặt. Đến tháng 11/1987, chín phủ đã nhận thấy cần phải CPH một số DNNN và muốn thế trước hết phải làm thí điểm. Quyết định đó là mới nhưng quá sớm với điều kiện lúc đó.
Bao cấp của nhà nước cho các DNNN còn rất lớn chưa làm bộc lộ hết những yếu kém khu vực này. vì thế tuy có chủ trương nhưng nhà nước củng chưa thấy hết sự bức bách, sống còn của việc thực hiện cổ phần hoá một số DNNN. Do đó chủ trương CPH các DNNN chưa thành hiện thực.
Kinh tế thị trường chưa phát triển mọi hoạt động của DNNN chưa được thương mại hoá.
Chưa có sự thống nhất về quan điểm quyết tâm trong toàn đảng, toàn dân nên không thể làm được.
Tóm lại một chủ trương đúng của đảng nhưng do điều kiện khách quan và chủ quan nên bị lảng quên.
Đến 10/5/1990, tức là hơn hai năm sau, chính phủ lại có quyết định 143/HĐBT trong đó đã nhắc lại chủ trương CPH một số DNNN. Trên thực tế đã có nơi thành lập công ty cổ phần hoặc CPH một phạm vi nào đó của DNNN. Nhưng nhìn chung không theo một bài bản nào cả nên rất khó xử lý. Một số nguyên nhân dẩn đến chủ trương CPH một phần DNNN năm1990 không thành công.
Sự thống nhất của đảng và các cấp chưa cao.
Sự chuẩn bị của các cấp các ngành thiếu chu đáo.
Một số bộ, nghành, địa phương và DNNN còn có tư tưởng ỷ lại, chờ đợi hoặc không muốn làm.
Mục tiêu CPH một số DNNN.
CPH các DNNN lần này nhằm đạt ba mục tiêu theo thứ tự của ưu tiên như sau:
Mục tiêu thứ nhất là, phải chuyển một phần quyền sở hữu về tài sản của nhà nước thành sở hữu của cổ đông nhằm nâng coa hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNNN. Tuy nhiên vẩn có hai trường hợp đặc biệt không chuyển quyền sổ hữu mà chỉ chuyển quyền sử dụng đó là:
Đất của DN, vì cho đến tháng 8 năm 92 luật pháp việt nam vẩn chưa cho bán đất.
Trường hợp các cổ đông là các DN tổ chức kinh tế quốc doanh thì chỉ chuyển uyền sử dụng của tài sản nhà nước mà thôi.
Mục tiêu thứ hai là: phải huy động được một lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để phát triển sản xuất kinh doanh. Các DNNN thiếu vốn nghiêm trọng nhưng lấy ở đâu ? nhà nước khoong thể và không nên tiếp tục cung cấp vốn cho một khu vực làm ăn kém hiệu quả. Vậy để có vốn DNchỉ có thể huy động dược qua hình thức cổ phần hoá. Việc bán cổ phần cho người nước ngoài là cần thiết và có thể làm được vì:
Ta đang thiếu vốn mà họ đang thừa vốn, đang cần thị trường đầu tư.
Ta thiếu kỉ thuật mà họ đã phát triển.
Ta thiêú kiến thức và kinh nghiệm quản lýkinh tế thị trường trong khi họ dày dặn và sẳn sàng truyền đạt cho ta.
Song bán cổ phần cho người nước ngoài trong khi làm thí điểm là không nên vì:
Một là, thí điểm thì có thể thanh công hoặc thất bại vì thế không thể để người nước ngoài chịu rủi ro đó.
Hai là, các luật lệ để chi phối người nước ngoài trong lỉnh vực này còn chưa đủ, chúng ta đã có luật công ty và luật đầu tư của nước ngoài ở Việt Nam nhưng vẩn chưa đủ.
Mục tiêu thứ ba của CPH các DNNN là tạo điều kiện để ngưòi lao động thực sự làm chủ DN. Chúng ta đã loay hoay mãi mà chưa đưa lại cho người lao động một sự làm chủ thực sự. Ngoài ra người lao động đã giác ngộ ra rằng, nếu không làm chủ được về kinh tế thì mọi sự làm chủ khác đều vô nghĩa, hình thức.
Đối tượng làm thí điểm CPH các DNNN có đủ ba điều kiện :
Thứ nhất là, chỉ những DN có quy mô vừa ( không quá lớn củng không qua nhỏ).
Thứ hai, phải là các DN không thuộc diện nhà nước cần đầu tư 100% vốn (như anh ninh quốc phòng hoặc một số ngành then chốt) và phải được chính phủ xác định là một DN cụ thể.
Thứ ba, phải là các DN đang làm ăn có lãi hoăc tuy trước măt gặp khó khăn nhưng tương lai hoạt động tốt.
Phân tích và đánh giá thực trạng và triển vọng của DN trước và sau khi cổ phần hoá.
Vấn đề đầu tiên trong đồ án CPH là phải phân tích thực trạng và đánh giá triển vọng của DN. Việc phân tích và đánh giá triển vọng của DN nên tập trung vào ba vấn đề lớn nhằm chứng minh quá khứ của DN là rỏ ràng và tương lai sáng sủa.
Thực trạng về công nghệ (tiên tiến trung bình, lạc hậu) và khả năng cạnh tranh của DN (giá cả , chất lượng… ).
Thực trạng và triển vọng của DN về thị trường, thị trường truyền thống và thị trường mới.thực trang và khả năng về liên doanh, liên kết với nước ngoài, trong nước.
Thực trạng và triển vọng về tài chính của DN gồm :
Thực trạng và triển vọng về vố của DN
Thực trạng về lỗ lãi.
Thực trang về vốn liên doanh liên kết, nợ nần
Thực trạng về thu nhập phân phối.
Một số vấn đề trong quá trình cổ phần hoá
Môi trường pháp lý cần thiết cho sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần.
Trong nền kinh tế thi trường hiện đại, tất cả mọi hoạt động kinh doanh đều chịu sự định chế của nhà nước bằng hệ thống luật pháp. đó là bộ luật và các văn bản dưói luật có ý nghĩa như là điều kiện để xác lập và ổn định các mối quan hệ kih tế ở tầm vĩ mô. nói chung, ở các nước có nền kinh tế thị trường hoặc đang chuyển sang nền kinh tế thị thị trường đều có một số bọ luật cơ bản như: luật công ty, luật đầu tư trong và ngoài nước, luật thương mại, luật phá sản, luật lao đông, luật bảo hiểm, luật về giao dịch chứng khoán, luật thống kê, kiểm toán , kế toán…
Trong vấn đề này theo tôi nhà nước nên có sự nghiên cứu và ban hành một luật đặc biệt để làm cơ sở căn bản cho quá trình CPH các DNNN, đó là luật chuyển đổi sở hữu nhà nước. Luật chuyển đổi nhà nước ban hành sẻ khẳng định sự cam kết của nhà nước đi theo con đường phát triển nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện pháp lý cho các nàh đầu tư trong và ngoài nước củng như dân chúng thực hiện một cách yên tâm công việc CPH DNNN trên phạm vi rộng lớn.
Xác định giá trị của doanh nghiệp.
Đây là vấn đề quan trọng nhất và khó khăn nhất trong những vấn đề phải giải quyết trong quá trình CPH – bởi vì nếu xác định giá trị của DN cao hơn thực tế thì sẻ làm cho giá cổ phiếu tăng lên, người mua cổ phiếu sẻ giảm đi. Nhưng ngược lại nếu xác định giá trị DN thấp hơn thực tế thì giá cổ phiếu sẻ giảm người mua cổ phiếu sẻ tăng lên nhà nước sẻ mất vốn. Giá trị của DN khi CPH (đem bán) gồm ba bộ phận:
Một là, giá trị tài sản của DN.
Hai là, giá đất mà DN đã sử dụng vào sản xuất kinh doanh.
Ba là, giá trị các yếu tố làm tăng hiệu quả của DN như: Giám đốc, tiếng tăm của DN, đội ngủ kỉ sư giỏi và công nhân lành nghề.
Cơ cấu cổ phần, chế độ cổ phần
Đối với DNNN hoạt động kém hiệu quả nhà nước có thể cho cán bộ công nhân 100% giá trị cổ phần tài sản cố định thuộc nguồn vốn ngân sách mà cán bộ công nhân được hưởng tuỳ theo năm công tác. Đối với tài sản cố định thuộc nguồn vốn vay và vốn lưu động nhà nước giải quyết như DN hoạt động có hiệu quả. Việu chia cho giai cấp công nhân một số cổ phần trên tổng số tài sản cố định của nhà nước mà đã bao năm họ giữ gìn thì củng không có gì là không hợp lý. Việc chia này hoàn toàn khác với việc chia ruộng cho nông dân, họ chỉ được chia cổ phần còn tài sản vẩn để chung mới sản xuất được.
Phân phối lợi nhuận, lợi tức cổ phần.
Các cổ đông tuỳ theo số lượng cổ phần của mình trong công ty và kết quả kinh doanh mà được hưởng lợi nhuận, lợi tức. Nếu cổ đông cùng góp phần vào kinh doanh với công ty thì được hưởng lợi nhuận bình đẳng như nhau sau khi đã trừ đi các khoản chi phí, quĩ thuế nếu cổ đông cho công ty vay thì được hưởng lợi tức tuỳ thuộc vào lải suất hiện tại của ngân hàng.
Vấn đề người lao động.
CPH các DN, có ưu tiên bán cổ phiếu cho các công nhân viên chức trong DN, làm cho người lao động trở thành chủ nhân thực sự của DN. Mặt khác làm cho người lao động vì lợi ích thực sự của mình vì đồng vốn bỏ ra mà hết lòng với công việc. đây là chủ trương đúng đắn hợp lòng người, phù hợp với cơ chế thị trường.
Nhưng 4 năm qua nhì lại toàn bộ nghành công nghiệp nhẹ mới có công ty giày Hiệp An thực hiện CPH người lao động mau được 30% cổ phiếu. Trong đó một phần không nhỏ được vay trả dần không phải trả lải. Trong quá trình giao vốn theo QĐ 32 HĐBT và đăng kí lại doanh nghiệp theo NĐ 388/HĐBT hầu hết các DN đều có vốn tự có: nguồn vốn vốn này phần lớn do công sức của tập thể lao động trong DN tao ra. nhưng được coi như vốn của nhà nước mà DN chỉ được miển thuế vốn 0,4% tháng. Những năm gần đây các DN phải đi vay vốn để trả lãi, để đầu tư phát triển sản xuất phải dành dụm, giảm bớt thu nhập để trả nợ. Sau khi trả hết nợ phần tài sản đi vay,nếu nói một cách sòng phẳng phải chia đôi, người lao đông 50% nàh nước 50%. Nhưng theo chế độ hiện hành thì 100% là của nhà nước. Nếu như vậy thì bao giờ người lao động mới có vốn để góp cổ phần. Đối với DN làm ăn có hiệu quả thì phần lợi nhuận để lại sau khi trích quỷ ken thưởng phúc lợi vẩn vượt quá quy định nhà nước cho dùng phần vượt quá đó để góp phần mua cổ phiếu. Người lao động có hăng hái mua mới thu hút được các thành phần kinh tế khác trong dân mua. Việc CPH các DN những năm tới mới tạo thanh hiện thực. Nhà nước nên xem lại phần vốn tự có và chính sách hợp lý đối với các DN đi vay vốn mà đã hoàn trả được, trong đó có sự đóng góp của tập thể lao động , cho tập thể lao động được hưởng một phần tài sản để góp vốn.
Đối với ngành may phần tiết kiệm nguyên liệu (của khách hàng đưa) cho phép DN được dùng để bù đắp thêm tiền lương và góp vốn cổ phần . Một chủ trương đúng, nhưng nếu không có biện pháp cụ thể hữu hiệu thì không thể trở thành hiện thực được. Mong rằng các cơ quan chức năng nhất là các cơ quan tài chính sớm đề xuất với chính phủ ban hành những chính sách mới hợp tình hợp lý tạo điều kiện cho người lao động có vốn để mua cổ phần. Giai cấp công nhân giai cấp vô sản trước đây theo đảng bao nhiêu năm làm cách mạng đứng mũi chịu sào trong những năm gay go nhất của cuộc cách mạng, nay chuyển sang kinh tế thị trường, tuy đất nước có phát triển nhưng cuộc sống của họ không mấy thay đổi. Họ đang bị phân hoá theo hướng về “cực nghèo” ngày càng lớn. Hàng ngày vẩn phải bán sức lao động để kiếm sống, một giờ không có việc là không có lương. Đối với người nông dân chính nhờ nghị quyết 10 về nông nghiệp, người nông dân được chia ruộng đất, họ làm chủ mảnh đất của họ, họ hăng say lao động nên đời sống được cải thiện. Nên việc chia cho công nhân ít cổ phần của công ty là rất hợp lý
1.2 CPH DNNN là sự lựa chọn tất yếu.
CPH một yêu cầu bức thiết của các DNNN.
Từ thực tiển tiến hành phảt triển nền kinh tế đất nước theo định hướng XHCN và nhửng kinh nghiệm thu được qua quá trình chỉ đạo, điều hành sản xuất kinh doanh chúng ta đã xác định được rằng cải cách DNNN một cách triệt để là yêu cầu có tính chất quyết định để tăng cường động lực phát triển sản xuất và thúc đẩy DN hoạt động có hiệu quả hơn.
Trong nhiều năm qua đảng và nhà nước ta đã tập trung tiến hành công tác sắp xếp đổi mới cá DNNN và đã đạt được một số kết quả nhất định như giảm mạnh số lượng DNNN, nâng cao quy mô vốn bình quân, giảm bớt được sự tài trợ của ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các DN, bước đầu đã phát huy quyền chủ động kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở, giảm mạnh sự can thiệp hành chính vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên do đặc điểm và thực trạng DNNN vẩn còn phải tiến hành một cách thận trọng, lâu dài vì phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề phúc tạp trong các lỉnh vực kinh tế và lỉnh vực đời sống xã hội mới đạt được kết quả mong muốn. Hiện nay tất cả những khó khăn xuất phát từ nội bộ nền kinh tế, thì biến động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đang tiếp tục lan rộng và theo chiều sâu của ảnh hưởng theo chiều hướng xấu đến nèen kinh tế nước ta. điều này cho thấy tính cấp bách phải khẩn trương nâng cao hiệu quả và sức mạnh của nền kinh tế để đảm bảo cho sự phát triển đất nước một cách ổn định, vững chắ không những cho năm trước mà còn tương lai lâu dài. Nghị quyết hội nghị trung ương 4 (khoá VIII) đã dành một phần quan trọng cho mục tiêu đổi mới mạnh mẽ các DNNN, phấn đấu đưa chúng trở thành lực lượng thực sự chủ đạo, dẩn dắt các DN thuộc các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, làm nòng cốt để thực hiện thành công tiến trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập vào thế giới có hiệu quả. Tiếp theo chính phủ đã có chỉ thị số 20/TTG ngày 21/8/1998 trong đó đã đề ra chương trình, kế hoạch cụ thể để triển khai thưc hiện và quyết tâm thông qua đợt sắp xếp này để hình thành một cơ cấu DNNN hợp lý, mạnh, được quản lý tốt. CPH là một trong những nội dung quan trọng của quá trình đổi mới, sắp xếp DNNN, sau đây tôi xin tập trung đi sâu vào vấn đề này. chủ trương CPH DNNN lần đầu tiên được nêu tại nghị quyết hội nghị lần thứ hai BCHTƯ khoá VII (tháng 11- 1991) và tiếp tục được cụ thể hoá tại nghị quyết hội nghị giữa nhiệm kì khoá VII (tháng 1- 1991). Nghị quyết hội nghị trung ương lần thứ 4 (khoá VIII).
Mục tiêu nhất quán của CPH một bộ phận DNNN là để huy động vốn tạo điều kiện để người lao động được làm chủ thực sự trong DN. Tạo động lực bên trong , thay đổi phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DN, đồng thời làm tăng tài sản và đổi mới cơ cấu của DN. Quá trình CPH hình thức sở hưu của DN đã chuyển từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp và chính từ đây dẩn đến những thay đổi quan trọng về hình thức tổ chúc quản lý củng như phương hưpứng hoạt động của công ty. DNNN sau khi CPH sẻ trở thành công ty cổ phần hoạt đông theo luật công ty. Việc đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phép thực hiện triệt để những nguyên tắc quản lý kinh tế nâng cao quyền tự chủ tài chính củng như óc sáng tạo của người lao động củng như người quản lý DN. CPH chính là biện pháp có hiệu quả để sử dụng đồng vốn tôt nhất. DN CPH sẻ thu hút được ngày càng nhiều vốn nếu hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nhất là khi đã hình thành thị trường chứng khoán. qua thực tiển tiến hành CPH ở nước ta và qua kinh nghiệm của một số nước xung quanh chúng ta thấy việc CPH đáp ứng được yêu cầu bức thiết của công cuộc cải cách DNNN trong việc giải quyết một số vấn đề gay cấn như :
Khắc phục việc buông lỏng quản lý tài sản của DN. Còn về nhận thức, tài sản nhà nước vẫn là tài sản chung nên tình trạng vô trách nhiệm, lảng phí của công vẩn chưa được khắc phục. Khi DNNN trở thành công ty cổ phần thì mặc nhiên điều này sẻ không còn tồn tại. Huy động được nguồn vốn trong xã hội, cung cấp cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển của doanh nghiệp, một mặt vừa góp phần tháo gở được khó khăn cho ngân sách nhà nước. Mặt khác vốn và tài sản của DNNN nhờ cổ phần hoá thu hồi lại sẻ được đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng thêm tài sản cố định, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tạo đông lực mới trong quản lý DN. ở công ty cổ phần người chủ mới của DN gắn chặt với sự thành bại của hoạt động sản xuất kinh doanh, vì thế họ rất đoàn kết gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh. Tìm kiếm và đưa ra phương hướng hoạt động phù hợp nhằm tăng sự cạnh tranh của sản phẩm họ sản xuất ra, quan tâm tới công ty, lao động với tinh thần trách nhiệm cao. Mặt khác đây là công việc rất nhạy cảm, song ta lại chưa có kinh nghiệm để khi triển khai CPH vừa mang lại tăng trưởng kinh tế vừa giữ vưngr hướng XHCN vì vậy phải tiến hành thận trọng phải dần dần qua thực tế để hoàn thiện.
Về nhận thức: Một số bộ và địa phương, tổng công ty nhà nước chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa chủ trương cổ phần hoá một bộ phận DNNN, do đó thiếu tính chủ động và cưa kiên quyết trong việc tổ chức triển khai thực hiện. Công tác tuyên truyền vận động từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa được đẩy mạnh.
Tồn tại trong bộ phận doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành cổ phần hoá: Nói chung các DNNN đều có các khoản nợ, trong đó nhiều DNNN có nhửng khoản nợ rất lớn hoạc là do thua lỗ trong hoạt đọng kinh doanh hoặc là do đầu tư phát triển. Do vậy khi lập phương án CPH, việc dưa ra cách giải quyết phù hợp nhất để xử lý các món nợ cho các DN thường gặp phải vấn đề nan giải là phải làm trong sạch tình hình tài chính, nghĩa là phải định được hướng thanh toán công nợ. Bên cạnh đó việc xác định giá trị DNNN chuyển sang cổ phần hoá củng gây tranh cải kéo dài. để đẩy mạnh việc CPH DNNN cần thực hiện một số biện pháp sau :
Khắc phục tình trạng chậm trể trong việc tiến hành cổ phần hoá, chính phủ vừa ra quyết định số 41/TTG ngày 29/6/1998, trong đó đã xác định cụ thể hơn phạm vi CPH. Công việc trước hết là phải tổ chức tuyên truyền sâu rộng và giải thích cho người lao động trong các DN và toàn xã hội hiểu và nhận thức đúng vầ nội dung của nghị định để họ quan tâm và tích cực hưởng ứng. Trước hết cần làm cho cán bộ công nhân viên trong các DN các cấp, các nghành quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản trong chủ trương chính sách của đảng nhà nước về CPH một bộ phận DNNN. Kiện toàn bộ máy tổ chức, đổi mới doanh nghiệp cán bộ, ngành, UBND các tỉnh thành phố, đảm bảo huy động đủ các điều kiện, lực lượng cán bộ để tiến hành công tác sắp xếp CPH.
Chúng ta phải kiên quyết thực hiên bằng được kế hoạch mục tiêu CPH năm 1998 trên cơ sở thận trọng vững chắc. tạo tiền đề quan trọng để thực hiện vửng chắc quá trình thực hiện CPH một số lượng lớn DNNN mà chúng ta dự kiến phải hoàn thành cho những năm tới. Tập trung chỉ đạo các bộ nghành trọng điểm như bộ công nghiệp, bộ xây dựng, các tổng công ty nhà nước có nhiều tổng công ty nhà nước thuộc diện CPH. Công tác chỉ đạo phải thống nhất từ trên xuống dưới. Các vấn đề nảy sinh trong trong quá trình CPH phải được giải quyết triệt để theo trách nhiệm quyền hạn được phân công.
CPH có tính chất toàn cầu, được bắt đầu mạn mẽ từ những năm 80 đến nay. Chứng tỏ hầu hết các chính phủ đều thấy cần xác lập lại mối quan hệ giữa khu vực kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân. CPH các DNNN là yêu cầu khách quan để chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. đối với các DN ngoại quốc doanh thì quá trình CPH diển ra tuỳ thuộc vào quy mô của DN (DN nhỏ hay lớn).
Quan niệm về DNNN và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
DNNN là DN mà số vốn của nó chủ yếu thuộc sở hữu của nhà nước. Tuy nhiên củng có một số trường hợp đặc biệt DNNN mà chỉ một phần ít vốn của nhà nước. Các DN này hoạt động được sự hỗ trợ lớn của nhà nước cả về kinh tế lẫn chính trị, đặc biệt là việc bù lỗ. Nên DNNN thua lỗ vẩn tồn tại kinh doanh, đặc biệt là công ty sản xuất các mặt hàng cho quốc phòng an ninh
Nó chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân, tuy nhiên thuế nộp vào ngân sách cho nhà nước lại chiếm tỷ trọng không lớn tương ứng.
Thực trạng các DN làm ăn thua lỗ, không có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Cần phải đổi mới cpông nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm. CPH là biện pháp hữu hiệu khắc phục khó khăn trên nhằm tạo ra sức bật trong quá trình đổi mới kinh tế đất nước.
Cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống DNNN là vấn đề nhức nhối đối với các nhà quản lý kinh tế ở nươcs ta. Bức tranh toàn cảnh về khu vực DNNN hiện đang còn nhiều mảng tối, thể hiện tính kém hiệu quả của khu vực này. sự yếu kém của khu vực DNNN phảm ánh rỏ nét qua hai chỉ tiêu sau đây:
Số DN thua lỗ có chiều hướng tăng lên: năm 1995 có 16% DNNN làm ăn thua lỗ, năm 1996 có 22% và năm 1997 con số này tăng lên 32%, nếu tính đúng , tính đủ thì số DNNN thua lỗ lên tới 50%.
Tỷ lệ lãi bỏ ra trên mỗi đồng vốn giảm sút: năm 1995, tỷ lệ này là 14%; năm 1996 12%, năm 1997 chỉ còn 8%. Các nguyên nhân dẩn đến thua lỗ kém hiệu quả của các DNNN kể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72213.doc