Tất cả mọi sự vật , hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau mà phép Biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập hay mâu thuẫn. Quy luật mâu thuẫn đã vạch ra nguồn gốc , động lực của sự vận động, phát triển của bản thân sự vật và hiện tượng.
Khi cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội , Đảng ta đã xác định mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa hai con đường : con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đó là cơ sở khách quan để Đảng ta đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế cho sự nghiệp đổi mới của đất nước. Chính nhờ xác định được những mâu thuẫn ấy , nền kinh tế của nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu mang tính quyết định , quan trọng trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên , bên cạnh những ưu điểm , kinh tế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới.
Với mong muốn có thể có một cái nhìn đúng đắn hơn về nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới , tôi chọn đề tài: Phép Biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Môi trường sinh thái ở Việt Nam.
Phạm vi của đề tài là rất rộng, tuy nhiên trong phạm vi của một bài tiểu luận này , tôi chỉ xem xét , đánh giá mâu thuẫn tiêu biểu:
- Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Môi trường sinh thái .
- Thực trạng trong phát triển kinh tế với môi trường ở nước ta trong thời gian qua.
- Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1403 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Phép Biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Môi trường sinh thái ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phụ lục
Trang
Lời mở đầu 2
Nội dung 3
Quan điểm biện chứng về mâu thuẫn 3
Tính phổ biến của mâu thuẫn 5
Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự phát triển 6
Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế 9
với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam
Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế 9
với bảo vệ môi trường sinh thái
Thực trạng trong phát triển kinh tế với 11
môi trường ở nước ta trong thời gian qua
Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu 14
kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái
Kết luận 20
Lời mở đầu
Tất cả mọi sự vật , hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau mà phép Biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập hay mâu thuẫn. Quy luật mâu thuẫn đã vạch ra nguồn gốc , động lực của sự vận động, phát triển của bản thân sự vật và hiện tượng.
Khi cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội , Đảng ta đã xác định mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa hai con đường : con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đó là cơ sở khách quan để Đảng ta đề ra đường lối chung và đường lối kinh tế cho sự nghiệp đổi mới của đất nước. Chính nhờ xác định được những mâu thuẫn ấy , nền kinh tế của nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu mang tính quyết định , quan trọng trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên , bên cạnh những ưu điểm , kinh tế thị trường luôn chứa đựng những mặt tiêu cực kìm hãm sự phát triển của công cuộc đổi mới.
Với mong muốn có thể có một cái nhìn đúng đắn hơn về nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới , tôi chọn đề tài: Phép Biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Môi trường sinh thái ở Việt Nam.
Phạm vi của đề tài là rất rộng, tuy nhiên trong phạm vi của một bài tiểu luận này , tôi chỉ xem xét , đánh giá mâu thuẫn tiêu biểu:
- Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế với bảo vệ Môi trường sinh thái .
- Thực trạng trong phát triển kinh tế với môi trường ở nước ta trong thời gian qua.
- Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái.
Nội dung
Quan điểm biện chứng về mâu thuẫn:
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật
quan trọng nhất trong phép biện chứng duy vật. Ngay từ thời cổ đại đã có những phỏng đoán thiên tài về sự tác động qua lại của các mặt đối lập và xem sự tác động qua lại đó là cơ sở vận động của thế giới.
Triết học phương Đông thời cổ đại đã xem sự vận động là do sự hình thành các mặt
đối lập và các mặt đối lập ấy luôn luôn vận động.
Triết học cổ Tây Âu với đại diện tiêu biểu là Hêraclit đã thừa nhận sự tồn tại và
thống nhất của các mặt đôí lập nhưng ở trong các mối quan hệ khác nhau.
Trải qua quá trình vận động , kế thừa và phát triển lâu dài những thành tựu của
triết học thế giới thời cổ đại và thời kỳ trung đại , triết học thời cận đại , điển hình là triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII- nửa đầu thế kỷ XIX với hai đại diện tiêu biểu là I.Cantơ (1724-1804) và G.V.Hêghen (1770-1831) , đã đạt được đỉnh cao nhất trong sự phát triển của phép biện chứng trước Mác-xít .
Nét nổi bật của Cantơ là đã trình bày những quan niệm biện chứng của mình về giới tự nhiên. Một mặt , ông thừa nhận sự tồn tại của thế giới các “vật tự do” ở bên ngoài con người, nhưng mặt khác ông lại cho rằng thế giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại không liên quan gì đến cái gọi là “ thế giới vật tự nó”, chúng chỉ là “các hiện tượng…” phù hợp với cái cảm giác và cái tri thức do lý tính của ta tạo ra.Tóm lại , trong lĩnh vực nhận thức, khi xem các mặt đối lập là các mặt đối lập về chất, Cantơ cũng là người theo thuyết “ không thể biết” và đã đi tới từ bỏ việc thừa nhận các mâu thuẫn khách quan, xem sự tồn tại của mâu thuẫn là bằng chứng nói lên tính bất lực của con người trong việc nhận thức thế giới.
Hêghen- nhà biện chứng , đồng thời là nhà duy tâm khách quan.Khi nghiên cứu phép biện chứng về sự vận động và phát triển của thế giới , ông cho rằng khởi nguyên của thế giới không phải là vật chất mà là “ ý niệm tuyệt đối “ hay “tinh thần thế giới” . Hêghen đã kịch liệt phê phán quan điểm siêu hình về sự đồng nhất (quan điểm này cho rằng đã đồng nhất thì loại trừ mọi sự khác biệt về mâu thuẫn) . Theo ông , đó là sự đồng nhất trừu tượng, trống rỗng, không bao hàm một nhân tố chân lí nào . Ông quan niệm: Bất kỳ sự đồng nhất nào cũng bao hàm sự khác biệt và mâu thuẫn . Ông là người sớm nhận ra vai trò của mâu thuẫn trong quá trình vận động và phát triển: “ Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sự sống, chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có xung lực và hoạt động. Tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó “. Song do bị chi phối bởi quan niệm duy tâm và lợi ích giai cấp, Hêghen đã đẩy việc giải quyết mâu thuẫn không thể điều hoà được trong “ xã hội công dân “ vào lĩnh vực tư tưởng thuần tuý.
Kế thừa những thành tựu trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, kế thừa một cách có phê phán tất cả những thành tựu tư tưởng về mâu thuẫn, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã chỉ ra rằng sự vận động và phát triển của sự vật là ở trong chính sự vật đó, trong những mâu thuẫn của bản thân sự vật . Quan điểm lí luận đó được thể hiện trong quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, hay còn gọi là Quy luật mâu thuẫn. Quy luật mâu thuẫn là hạt nhân của phép biện chứng vì nó vạch ra nguồn gốc , động lực của sự phát triển, nó là cơ sở để hiểu các quy luật khác , giúp ta đi sâu vào bản chất của sự vật.
Tính phổ biến của mâu thuẫn:
Đối lập với các quan điểm cũ , phép biện chứng duy vật khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn. Mỗi một sự vật, một hiện tượng đang tồn tại đều là một thể thống nhất được cấu thành bởi các mặt, các khuynh hướng , các thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập nhau….
Khái niệm mặt đối lập là phạm trù dùng để chỉ những mặt có những đặc điểm, những khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau , tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội, và tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Do đó cần phải phân biệt rằng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật của thế giới khách quan không phải chỉ tồn tại trong đó hai mặt đối lập, mà trong cùng một thời điểm ở mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hóa lẫn nhau.
Mâu thuẫn mang tính khách quan vì là cái vốn có trong các sự vật , hiện tượng, và tồn tại trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy nên nó có tính phổ biến. Chính vì vậy mâu thuẫn rất đa dạng và phức tạp.Mâu thuẫn trong mỗi một sự vật , hiện tượng và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau và trong bản thân mỗi sự vật hiện tượng cũng lại bao hàm nhiều mâu thuẫn . Mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, vai trò tác động lẫn nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Vì vậy, cần phải có biện pháp giải quyết mâu thuẫn phù hợp.
2. .Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự phát triển:
Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hướng tác động khác nhau
của các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Vì vậy, mâu thuẫn biện chứng bao hàm cả sự “thống nhất “và “đấu tranh” giữa các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau trong quá trình vận động và phát triển của sự vật . Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im,với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là : sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
Sự thống nhất của các mặt đối lập:
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Ví dụ: Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất: Khi lực lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai điều kiện này chính là tiền đề cho phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những
nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất “ của các mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Ví dụ: Sự phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, nhưng lại tạo tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng khi diễn ra sự cân bằng của các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất mà còn luôn luôn đấu tranh với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh chuyển hoá của chúng. Bởi vì các mặt đối lập cùng tồn tại trong một sự vật , thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên nhau mà đấu tranh, chuyển hoá lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật. Sự vật đấu tranh chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau.
Ví dụ:
Trong các phương thức sản xuất có giai cấp đối kháng. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội , bằng rất nhiều hình thức , kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản . Ngược lại , sự đấu tranh của cung và cầu , tích luỹ và tiêu dùng trong nền kinh tế , đồng hoá và dị hoá trong sinh học , … thì diễn ra dưới dạng tác động lẫn nhau.
Thông thường , khi mới xuất hiện , hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ sự xung khắc gay gắt. Tất nhiên, không phải bất kỳ sự khác nhau nào cũng được gọi là mâu thuẫn. Chỉ có những mặt khác nhau tồn tại trong một sự vật nhưng liên hệ hữu cơ với nhau , phát triển ngược chiều nhau, tạo thành động lực bên trong của sự phát triển , thì hai mặt đối lập ấy mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt, nó biến thành đối lập. Nếu hội đủ các điều kiện cần thiết, các mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau. Sự vật cũ mất đi, sự vật mới được hình thành. Sau khi mâu thuẫn được giải quyết , sự thống nhất của các mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của các mặt đối lập mới. Hai mặt đối lập lại đấu tranh chuyển hoá tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật mới hơn xuất hiện. Cứ như thế , đấu tranh của các mặt đối lập làm cho sự vật biến đổi không ngừng từ thấp đến cao. Chính vì vậy Lênin khẳng định: “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
Khi bàn về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin chỉ ra rằng: Mặc dù thống nhất là điều kiện để sự vật tồn tại với ý nghĩa nó là nó . Nhờ có sự thống nhất của các mặt đối lập mà chúng ta nhận biết được các sự vật , hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ là tương đối , tạm thời. Đấu tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra thường xuyên liên tục trong suốt quá trình tồn tại của sự vật, kể cả trong trạng thái sự vật ổn định cũng như khi chuyển hoá nhảy vọt về chất. Lênin viết: “ Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện , tạm thời, thoáng qua tương đối . Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển , sự vận động là tuyệt đối”.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập:
Không phải bất kỳ sự đấu tranh nào của các mặt đối lập đều dẫn đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển đến một trình độ nhất định, hội đủ các điều kiện cần thiết mới dẫn đến chuyển hoá , bài trừ, phủ định lẫn nhau. Trong giới tự nhiên, chuyển hoá của các mặt đối lập thường diễn ra một cách tự phát, còn trong xã hội, chuyển hoá của các mặt đối lập nhất thiết phải thông qua hoạt động có ý thức của con người. Chuyển hoá của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết , sự vật cũ mất đi , sự vật mới ra đời . Đó là quá trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Do đó , không nên hiểu chuyển hóa của các mặt đối lập chỉ là sự hoán đổi vị trí một cách giản đơn , máy móc. Thông thường thì mâu thuẫn chuyển hoá theo hai phương thức:
Một là , mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện vật chất của sự vật . Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hoá lẫn nhau để hình thành quan hệ sản xuất mới- quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn.
Hai là , cả hai mặt đối lập chuyển hoá lẫn nhau để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn. Ví dụ : Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch tập trung , quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, từ lí luận về mâu thuẫn cho ta thấy: Trong thế giới hiện thực,
bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Sự đấu tranh chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn . Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết , sự vật cũ mất đi , sự vật mới hình thành. Sự vật mới lại làm nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hoá và phủ định lẫn nhau để tạo thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật , hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy, mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển.
II. Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái ở Việt Nam:
Mâu thuẫn biện chứng giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái:
Sự phát triển kinh tế , thực chất đó là một quá trình lớn lên (hay
tăng tiến ) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó , bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô , sản lượng và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế- xã hội. Phát triển kinh tế là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất của sự phát triển nói chung. Nhưng phát triển kinh tế không phải là mục đích tự thân và cũng không thể là vô hạn. Nó phải phục vụ , thúc đẩy mục tiêu chung của sự phát triển . Chúng ta không nên nhầm lẫn giữa “phát triển kinh tế “và “tăng trưởng kinh tế”. Bởi vì , tăng trưởng kinh tế, theo cách hiểu hiện đại thì đó là việc mở rộng sản lượng quốc gia tiềm năng của một nước, sự tăng lên không ngừng GNP tiềm năng thực. Như vậy, tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế , mặc dù rất quan trọng nhưng đó mới chỉ là điều kiện cần của phát triển kinh tế. Điều kiện đủ của phát triển kinh tế là trong quá trình tăng trưởng kinh tế phải bảo đảm được tính cân đối, tính hiệu quả, tính mục tiêu, và tăng trưởng kinh tế trước mắt phải bảo đảm tăng trưởng kinh tế trong tương lai.
Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người
sinh sống . Trong đó , môi trường tự nhiên là một yếu tố quan trọng , là điều kiện thường xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Môi trường tự nhiên bao gồm môi trường sinh- địa- hoá học, môi trường sống, … và được gọi chung là môi trường sinh thái
Vai trò của môi trường sinh thái ở những giai đoạn lịch sử khác
nhau được thể hiện một cách khác nhau.
ở trình độ mông muội, khi con người chỉ biết chủ yếu hái , lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người bị giới tự nhiên hoàn toàn thống trị. Cuộc sống của xã hội phụ thuộc chủ yếu vào môi trường tự nhiên.
ở trình độ văn minh cao hơn, nhất là khi khoa học phát triển thì con
người đã từng bước chế ngự được tự nhiên, biết khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề được hình thành từ những điều kiện có sẵn của môi trường tự nhiên như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, … Song nhìn chung , môi trường tự nhiên vẫn giữ vai trò to lớn trong việc tổ chức , phân công lao động, phân bố lực lượng sản xuất và vẫn tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho quá trình sản xuất , do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, đến tốc độ phát triển của xã hội, và do đó ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế ở nước ta. Để có chủ trương , chính sách hợp lý cho sự nghiệp phát triển kinh tế , Đảng và nhà nước ta phải xác định được một số mâu thuẫn tiêu biểu:
- Sự tác động tích cực của xã hội vào tự nhiên thông qua quá trình lao động sản xuất: Trong quá trình lao động , con người một mặt khai thác những cái đã có sẵn trong tự nhiên , mặt khác tái tạo tự nhiên làm cho bộ mặt tự nhiên biến đổi:
Nếu con người tác động vào tự nhiên theo quy luật của nó để tái tạo lại tự nhiên thì bộ mặt tự nhiên ngày càng phong phú, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sản xuất và đời sống của con người , hay nói cách khác là tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế.
Nếu con người chỉ biết khai thác những cái đã có sẵn trong tự nhiên , không biết tái tạo lại tự nhiên theo quy luật của nó sẽ làm cho tự nhiên ngày càng nghèo nàn đi , sự cân bằng sinh thái bị phá vỡ . Khi đó sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội , con người …và gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế .
- ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên đến hoạt động kinh tế và sản xuất vật chất:
Một là: Từ những sản phẩm của bản thân tự nhiên con người chế tạo thành nguyên liệu, nhiên liệu, năng lượng,… và cả những tư liệu sản xuất phục vụ cho quá trình sản xuất, lẫn tư liệu tiêu dùng .
Hai là: Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến quá trình phân công lao động xã hội , phân bố lực lượng sản xuất , ngành sản xuất. Ví dụ: Căn cứ vào sự phân bố tài nguyên mà người ta chia sản xuất thành các khu vực như khu công nghiệp khai khoáng, công nghiệp dầu khí, công nghiệp chế biến, nông nghiệp , ngư nghiệp, … Ngoài ra, điều kiện tự nhiên cũng ảnh hưởng rất quan trọng đến năng suất lao động , hiệu quả , quy mô, tốc độ của nền sản xuất nói chung.
Thực trạng trong việc phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua:
Mỗi một hoạt động của con người đều có tác động đến tài nguyên Môi
trường xung quanh theo chiều hướng thuận lợi hay không thuận lợi cho đời sống và phát triển của con người. Ngay từ xa xưa, con người đã có những hình thức nhằm bảo vệ tài nguyên như : hình thành các quy ước bảo vệ rừng đầu nguồn, lập các miếu thờ để dựa vào uy thế của thần linh nhằm ngăn cấm việc phá rừng…
Chỉ khi xã hội phát triển, nhờ tiến bộ khoa học và kỹ thuật mà kinh tế
tăng trưởng nhanh, song tài nguyên cạn kiệt, cân bằng sinh thái bị đảo lộn, chất lượng môi trường sống suy thoái thì quản lí môi trường đã trở thành một hoạt động cụ thể của quản lí Nhà nước.
Nhận thức rõ vai trò của điều kiện tự nhiên đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ trương , chính sách nhằm bảo vệ và khai thác tài nguyên một cách hợp lí. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “ Phát triển nhanh , bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ công bằng xã hội và bảo vệ môi trường” và “ Phát triển kinh tế- xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường tự nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học. Chủ động phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, của sự biến động khí hậu bất lợi và tiếp tục giải quyết hậu quả chiến tranh còn lại đối với môi trường. Bảo vệ và cải tạo môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, tăng cường quản lí Nhà nước đi đôi với nâng cao ý thức trách nhiệm của mọi người dân. Chủ động gắn kết yêu cầu cải thiện môi trường trong mỗi quy hoạch , kế hoạch , chương trình và dự án phát triển kinh tế- xã hội , coi yêu cầu về môi trường là một tiêu chí quan trọng đánh giá các giải pháp phát triển”.
Việt Nam được thế giới xác định là quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi . Từ cương lĩnh đại hội Đảng lần thứ VI đến đại hội Đảng lần thứ IX, trải qua 15 năm đổi mới và phát triển đã thể hiện tính đúng đắn của nó . Kinh tế liên tục tăng trưởng, xã hội ổn định . Việt Nam là một trong những quốc gia tham gia tích cực vào công tác bảo vệ môi trường, duy trì và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tham gia nhiều công ước quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, duy trì đa dạng sinh học và phát triển bền vững.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, thực tiễn thời gian qua, với cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước cũng đã thể hiện những mặt trái của nó liên quan đến bảo vệ môi trường và bảo tồn , duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, chẳng hạn như vấn đề phá rừng, xâm phạm tài sản quốc gia, vấn đề khai thác và buôn bán động vật hoang dã, sự hạn chế giảm thiểu ô nhiễm ở các doanh nghiệp nhà nước, … Những lí do này đòi hỏi chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lí đối với bảo vệ môi trường song song với việc tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Trong quy hoạch và thực hiện chính sách kinh tế vùng , mặc dù còn rất nhiều điểm cần phải hoàn chỉnh nhưng xu thế cách biệt giữa miền núi, hải đảo , trung du, đồng bằng, … đang từng bước được thu hẹp. Đồng thời với việc hoạch định những chủ trương , chính sách , biện pháp cụ thể nhằm bảo vệ môi trường, xác lập các vùng kinh tế chuyên ngành, chúng ta đã ban hành hàng loạt những văn bản pháp luật cần thiết có tính khả thi để bảo vệ tài nguyên và môi trường. Đảng và nhà nước ta còn tham gia rất tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới nhằm bảo vệ sự trong sạch của môi trường; khai thác hợp lý nguồn lợi của tự nhiên phục vụ tốt nhất cho cuộc sống của con người.
3.Một số giải pháp kết hợp giữa mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái:
Môi trường sinh thái- môi trường tự nhiên là môi trường sống gắn liền với mọi hoạt động của con người, đồng thời cũng là điều kiện khách quan tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Điều kiện tự nhiên tuy không phải là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của xã hội nhưng nó có vai trò rất quan trọng , là yếu tố cần thiết cho sản xuất và sự sống. Vì vậy , muốn phát triển được kinh tế thì điều quan trọng trước tiên là phải bảo vệ được những nguồn lực kinh tế, đó là môi trường tự nhiên. Một số giải pháp kết hợp mục tiêu kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái đó là:
3.1 Giáo dục tư tưởng và ý thức bảo vệ môi trường:
Khi con người bất chấp quy luật vi phạm những nguyên tắc đảm bảo cho sự phát triển bền vững, biến “khai thác” thành “ chiếm đoạt” tự nhiên , thì môi trường tự nhiên không phải chỉ gây khó khăn cho quá trình sản xuất nữa, mà còn đe doạ đến sự sống còn của toàn xã hội . Đó là sự khan hiếm và cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất , … , đó là các hiện tượng “ hiệu ứng nhà kính”, “ lỗ thủng tầng ôzôn” , sa mạc hoá, … Vì vậy con người phải không ngừng nâng cao nhận thức về tự nhiên, xây dựng ý thức sinh thái . Và vì vậy nhiệm vụ bảo vệ môi trường là sự nghiệp của quần chúng. Các nhiệm vụ bảo vệ môi trường có được hoàn thành hay không phụ thuộc phần lớn vào nhận thức và ý thức môi trường của toàn xã hội. Do đó , giáo dục, truyền thông môi trường cũng là một công cụ quản lí môi trường gián tiếp và rất cần thiết , đặc biệt là ở các nước phát triển.
Giáo dục tư tưởng và ý thức bảo vệ môi trường, đó là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kỹ năng và giá trị, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh thái.
Mục đích của giáo dục môi trường là nhằm vận dụng những kiến thức và kỹ năng vào giữ gìn , bảo tồn và sử dụng môi trường theo cách bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Giáo dục môi trường cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng kinh tế và tránh những thảm hoạ môi trường, xoá nghèo đói, tận dụng những cơ hội và đưa ra những quyết định khôn khéo trong việc sử dụng tài nguyên. Hơn nữa, giáo dục môi trường bao hàm cả việc đạt được những kỹ năng , có những động cơ và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết những vấn đề môi trường hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.
Truyền thông môi trường là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp cho những người có liên quan hiểu được các yếu tố môi trường then chốt, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng và cách tác động vào các vấn đề có liên quan một cách thích hợp để giải quyết các vấn đề về môi trường.
Mục tiêu của truyền thông môi trường nhằm :
Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường biết tìn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111094.doc