Phép biện chứng- tiếng la tinh Da lec tike có nghĩa là nghệ thuật tranh luận, biện luận chứng giải để tìm ra chân lý. Trước đây ở Việt Nam có thời kì gọi là biện chứng pháp, như thế dễ dẫn tới đồng nghĩa với phương pháp. Phép biện chứng là một học thuyết có nội dung phong phú thể hiện qua những nguyên lý, quy luật, phạm trù , khái niệm lý luận ở tầm khái quát cao, là sự thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận.
Thế giới vật chất bao gồm muôn vàn các sự vật, hiện tượng khác nhau, giữa chúng có mối liên hệ, luôn vận động và phát trển. Nghiên cứu quy luật của trạng thái này chính là đối tượng của phép biện chứng.
Phép biện chứng có quá trình hình thành và phát triển từ thời cổ đại đến nay, đỉnh cao của lịch sử phép biện chứng trước Mác là phép biện chứng duy tâm của Hê ghen. Đến Mác, ăng ghen và Lê nin thì phép biện chứng mới trở thành học thuyết có tính duy vật triệt để, biện chứng sâu sắc, khi đó nó mới được xác định là một khoa học.
28 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1592 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Phép biện chứng duy vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Phép biện chứng- tiếng la tinh Da lec tike có nghĩa là nghệ thuật tranh luận, biện luận chứng giải để tìm ra chân lý. Trước đây ở Việt Nam có thời kì gọi là biện chứng pháp, như thế dễ dẫn tới đồng nghĩa với phương pháp. Phép biện chứng là một học thuyết có nội dung phong phú thể hiện qua những nguyên lý, quy luật, phạm trù , khái niệm lý luận ở tầm khái quát cao, là sự thống nhất giữa thế giới quan và phương pháp luận.
Thế giới vật chất bao gồm muôn vàn các sự vật, hiện tượng khác nhau, giữa chúng có mối liên hệ, luôn vận động và phát trển. Nghiên cứu quy luật của trạng thái này chính là đối tượng của phép biện chứng.
Phép biện chứng có quá trình hình thành và phát triển từ thời cổ đại đến nay, đỉnh cao của lịch sử phép biện chứng trước Mác là phép biện chứng duy tâm của Hê ghen. Đến Mác, ăng ghen và Lê nin thì phép biện chứng mới trở thành học thuyết có tính duy vật triệt để, biện chứng sâu sắc, khi đó nó mới được xác định là một khoa học.
Nội dung
A – Cơ sở lý luận chung.
I. Phương pháp luận
Trước khi tìm hểu về các vấn đề của phép biện chứng duy vật ta sẽ xem xét qua: Như thế nào là phương pháp luận? Có thể nói một cách tổng quát phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về phương pháp, phương pháp luận giải quyết các vấn đề như: phương pháp là gì ? Bản chất, nội dung, hình thức của phương pháp như thế nào? phân loại phương pháp ra sao? Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người như thế nào ? Do đó, ta có thể khái quát một cách cụ thể hơn. Phương pháp luận là hệ thức những quan đểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo cụ thể tổng việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý có hiệu quả tối đa.
Mỗi khoa học đều có lý luận về phương pháp của mình, vì nghiên cứu đối tượng, các khoa học đều phải xác định cho được các phương pháp thích hợp, tính tất yếu của các phương pháp được sử dụng và mối liên hệ giữa các phương pháp đó.
Phương pháp luận được phân thành:
Phương pháp luận phổ biến.
Phương pháp luận chung và phương pháp luận riêng.
Giữa chúng có sự liên hệ, tác động qua lại. Đặc biệt phép biện chứng duy vật là phương pháp luận phổ biến, có ý nghĩa rất to lớn trong hoạt động nhận thức và thực tiễn xã hội mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây.
II. Vai trò của phương pháp luận
Phương pháp biện chứng
Trước hết, chúng ta cần hiểu phương pháp biện chứng là hệ thống các nguyên tắc được hình thành trên cơ sở các nguyên lý, quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật. Các nguyên tắc này tuy có nội dung khác nhau song chúng có sự liện hệ bổ sung lẫn nhau, tao thành một công cụ có vai trò to lớn trong nhận thức các quy luật của thế giới khách quan.
Ta hãy xem xét một số nguyên tắc của phép biện chứng duy vật:
Nguyên tắc về tính khách quan của sự xem xét:
Cơ sở lý luận của nó là vai trò quyết định của vật chất trong quan hệ đối với ý thức, còn yêu cầu đối với mỗi khoa học, khi nghên cứu sự vật phải xuất phát từ bản thân sự vật, để chỉ ra các quy luật khách quan chi phối sự vân động và phát triển của sự vật ấy.
Nguyên tắc về tính toàn diện:
Là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Trong các ngành khoa học, việc nhận thức bản chất của sự vật phải được xem xét trong trạng thái toàn vẹn và phức tạp của nó. Cần phải nhìn bao quát và nghên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó.
Nguyên tắc xem xét sự vật trong sự phát trển, trong sự tự vận động:
Cơ sở lý luận là nguyên lý về sự phát triển.Với yêu cầu là khi thực hiện nguyên tắc này không chỉ dừng ở chỗ liệt kê các giai doạn phát trỉên lịch sử mà sự vật đã trải qua, mà phải vạch ra tính tất yếu những qui luật chi phối sự liên hệ và thay thế các trạng thái. Từ trạng thái này sang trạng thái khác của sự vật.
Nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và lôgic.
ở đây, lịch sử là khách thể được nghiên cứu trong sự vận động và phát trển. Lôgic là sự tái tạo dưới hình ảnh tinh thần khách quan đang vận động và phát triển với những mối liên hệ tất yếu và xác định cơ sở lý luận của nó là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Yêu cầu chung là phương pháp lịch sử phải nắm lấy cái lôgic, xoay quanh cá lôgic. Phương pháp lôgic phải dựa trên các tài liệu lịch sử để vạch ra mối liên hệ tất yếu, những quy luật khách quan vốn có trong quá trình lịch sử.
Nguyên tắc thống nhất giũa phân tích và tổng hợp, gữa qui nạp và diễn dịch:
Phân tích và tổng hợp được tiến hành trong quá trình nhận thức là sự lặp lại trong ý thức quá trình phân giải và tổng hợp ở thế giới khách quan.
Quy nạp là thao tác mà tư duy đi từ tri thức về cái rêng(sự vật hiện tượng , quá trình rêng rẽ) đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn.
Diễn dịch là thao tác nào đó tư duy đi từ tri thức chung đến tri thức ít chung hơn, đến tri thức về cái rêng.
Nguyên tắc đi từ trìu tượng đến cụ thể.
Cơ sở lý luận là sự tổng hợp lại nhờ tư duy lý luận các tài liệu do trực quan sinh động đem lại, ở đây cái trìu tượng phản ánh những mối liên hệ phổ biến nhất, đơn giản nhất nhưng có vai trò quyết định trong cái cụ thể nghên cứu.
Phương pháp biện chứng là đỉnh cao tư duy khoa học.
Có thể nói gá trị của phép biện chứng duy vật không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của những người sáng tạo ra nó mà giá tri đó được thể hiện ở chỗ” giải pháp những vấn đề mà tư tưởng tiến tới của loài người đặt ra”, soi sáng các nhệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức bóc lột, khỏi sự tha hoá. Mác khẳng định: các nhà triết học trước đây tìm mọi cách giải thích thế giới bằng những cách khác nhau, song cá chính là cải tạo thế giới. Có thể nó rằng, cho đến nay , phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học duy nhất đáp ứng được nhệm vụ lịch sử đó. Ngày nay khoc học và thực tiễn luôn vận động, bến đổi nên triết học Mác – Lê nin nói chung và phép bịên chứng duy vật nói riêng cũng cần được bổ xung và phát triển nếu chúng ta không muốn lạc hậu so vớ thực tiễn. Phép biện chứng duy vật vừa là yêu cầu của thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu của nội tại học thuyết đó. Có phát triển được và thông qua phát triển, học thuyết đó mới bảo vệ mình và mới phát huy được tác dụng và những gá trị của nó.
Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở năng động, nó giành cả một phương hướng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học, cho sự bù đắp của tri thức nhân loại, là sự hướng dẫn và là động lực cho con người trong việc cải tạo tự nhên, xã hội và tư duy. Phép biện chứng ra đời từ sự sáng tạo và đồng thời cũng đặt ra yêu cầu sáng tạo trong vệc vận dụng nó vào trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Nếu như trước đây phép biện chứng đôi khi do các nhà duy tâm nghên cứu và các nhà duy vật đó là phép sêu hình thì bây giờ phép biện chứng đó đã tìm thấy người bạn đồng hành tin cậy duy nhất của mình là chủ nghĩa duy vật. Nếu như trước đây lý luận và phương pháp đôi khi bị tách rời nhau, thì bây gờ chũng đã trở thành sự thống nhất gắn bó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong phép biện chứng duy vật đã trở thành học thuyết thống nhất của tồn tại và nhận thức, trở thành phương pháp luận chung nhất của vệc nhận thức và cải tạo thế giới. Lê nin khẳng định phép bện chứng duy vật là “ học thuyết về sự phát trển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện”.
Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết học nào khác. Bởi vì nó không phải là sản phẩm của phương pháp tư duy mà nó là sự phản ánh khách quan thế giới vật chất, là sự kích thích những gá trị tư tưởng, văn hoá nhân loại, nó kế thừa tiếp thu cổ phần hoá những hạn chế cuả chủ nghĩa duy vật.
Trong quá trình xây dựng hệ thống triết học của mình, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác luôn đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù và bảo vệ những quan đểm khoa học của mình.
B- Phép biện chứng duy vật
Thế giới vật chất là vô hạn, nhưng lại được tạo bởi các sự vật và hiện tượng hữu hạn. Trong toàn bộ thế giới vật chất đó, mọi sự vật, hiện tượng vừa độc lập, tách biệt tương đối lại vừa liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, vừa ổn định tương đối. Nhưng lại vừa luôn biến đổi không ngừng … tất cả những sự vật, hiện tượng như hỗn độn đó lại tuân theo những qui luật nhất định… những tính chất vốn có ấy của thế giới được gọi là” biện chứng khách quan”.
Như vậy, thế giới về bản chất là biện chứng.Triết học không chỉ nghiên cứu mối quan hệ gữa vật chất và ý thức mà còn nghiên cứu mối quan hệ và sự vận động phát triển của sự vật, hiện tượng- tức nghiên cứu tính chất biện chứng của thế giới. Việc nghiên cứu đó được khái quát thành học thuyết khoa học gọi là “ phép biện chứng”.
Mác- ăng ghen là những người đã xây dựng phép biện chứng trên cơ sở chủ nghĩa duy vật. Hình thành phép bện chứng duy vật- đó là môn khoa học nghiên cứu những quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Nội dung của phép biện chứng duy vật là hết sức phong phú, bao gồm hai nguyên lý, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về vận động và phát triển, hệ thống các quy luật cơ bản(3 quy luật) và không cơ bản( cặp phạm trù cơ bản).
Phép biện chứng là khoa học về những quy luật phổ biến nhất của mọi sự vận động. Điều đó có nghĩa là những quy luật ấy phải có hiệu lực đối với vận động trong thế giới tự nhiên và trong lịch sử loài người cũng như đối với vận động của tư duy.
“ Toàn bộ tinh thần của chủ nghĩa Mác, toàn bộ hệ thống của chủ nghĩa Mác đòi hỏi là mỗi nguyên lý phải được xem xét theo quan đểm lịch sử và gắn liền với những nguyên lý khác gắn liền với kinh nghiệm cụ thể của lịch sử”- Lê nin.
I. Hai nguyên lý cơ bản của phép bện chứng duy vật.
1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
a. Nội dung nguyên lý:
Liên hệ là khái niệm dùng để chỉ sự tác động và ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hoá lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận trong một sự vật hoặc gữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Khái niệm liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới( cả tự nhên, xã hộ và tư duy) dù rất phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật và hện tượng khác, đều chịu sự tác động, sự qui định của sự vật, hiện tượng khác, không sự vật nào tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác.
Nội dung và tính chất của mối quan hệ:
Nhờ có mối liên hệ mà có sự vận động, vận động lại là phương thức tồn tại của vật chất là một tất yếu khách quan, do đó mối liên hệ cũng là một tất yêu khách quan.
Mối liên hệ tồn tại trong tất cả mọi sự vật, hiện tượng ở tất cả các lĩnh vực tự nhên, xã hội và tư duy.
Mối liên hệ phổ biến là hiện thực, là cái vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, nó thể hiện tính thống nhất vật chất của thế giới.
Do mối liên hệ là phổ biến, các sự vật, hiên tượng trong thế giới vật chất là đa dạng nên mối liên hệ gữa chũng cũng đa dạng. Vì thế, khi nghên cứu các sự vật, hện tượng cần phải phân loại mối liên hệ một cách cụ thể.
Căn cứ vào tính chất, phạm vi, trình độ, có thể có những mối liên hệ sau: chung và riêng, cơ bản và không cơ bản, bên trong và bên ngoài, chủ yếu và thứ yếu, không gian và thời gian…. Sự phân loại này là tương đối vì mối liên hệ đó chỉ là một bộ phận, một mặt trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung.
Phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất, phổ biến nhất của thế giới khách quan, còn những hình thức cụ thể của mối liên hệ là đối tượng nghiên cứu của các ngành khoa học cụ thể.
b. ý nghĩa phương pháp luận.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức sự vật cần phải có quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện:
Mỗi sự vật không chỉ đơn giản cùng tồn tại vớ các sự vật khác, mà còn tác động qua lại với chúng. Trong quá trình tác động qua lại đó, các thuộc tính tương ứng của sự vật bộc lộ rõ bản tính bên trong của sự vật, sự vật được định tính và tự khẳng định mình là một thực thể tương đối độc lập.
Để nhận thức được sự vật, để vạch ra các thuộc tính đặc trưng của nó, cần phải xem xét nó không phải ngay trong bản thân nó, tách rời các sự vật khác mà phả xem xét trong mối liên hệ hữu cơ với các sự vật khác, phải tính đến tổng hoà những mối liên hệ muôn vẻ của sự vật ấy vớ những sự vật khác.
Phải phân loại các mối liên hệ để hểu rõ vị trí, vai trò của tổng mối liên hệ đối với sự vận động và phát trển của sự vật.
2. Nguyên lý về sự phát trển.
a. Khái nệm phát trển.
Phát trển là sự vận động theo khuynh hướng tiến lên. Có thể diễn ra dưới ba khả năng: từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện hơn.
Từ khái niệm trên cho thấy:
Nguyên lý về mối liên hệ biện chứng vớ nhau vì nhờ có mối liên hệ thì sự vật mới có sự vận động và phát trển.
Cần phân biệt khái nệm vận đông với khái niệm phát trển. Vận động là mọi biến đổi nói chung, còn phát triển là sự vận động có khuynh hướng và gắn liền với sự ra đời của cái mới hợp quy luật.
b. Nội dung và tính chất của sự phát triển.
Phát triển là thuộc tính vốn có của mọi sự vật, hiện tượng, là khuynh hướng chung của thế giới.
Sự phát triển có tính chất tiến lên. kế thừa dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
Sự phát triển thường diễn ra quanh co, phức tạp, phải trải qua những khâu trung gian, thậm chí có lúc có sự thụt lùi tạm thời.
Phát triển là sự thay đổi về chất của sự vật. Nguồn gốc của sự phát triển là do sự đấu tranh của các mặt đối lập trong bản thân sự vật.
Quan đểm siêu hình phủ nhận sự phát triển hiểu phát triển là sự tăng giảm đơn thuần về lượng không có sự thay đổi về chất và nguồn gốc của nó ở bên ngoài sự vật, hện tượng.
c. ý nghĩa phương pháp luận.
khuynh hướng của sự vật, hiện tượng laị luôn vận động và phát triển, do đó khi nghiên cứu sự vật chúng ta phải có quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan đểm lịch sử cụ thể đòi hỏi xem xét khách thể,( kể cả xã hội) trong sự tự vận động và phát triển của nó. Nó đòi hỏi chúng ta không chỉ miêu tả những biến đổi trong khách thể , chỉ ra những trạng thái về chất khác nhau, mà còn phải tìm ra mối lên hệ tất yếu khách quan giữa các hịên tượng nối tiếp nhau, tìm ra quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của khách thể.
Mặt khác, nếu khuynh hướng của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan là vận động đi lên thì trong nhận thức và thực tiễn cũng cần phải có quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi: phải phân tích sự vật trong sự phát triển, cần phát hiện được cái mới, ủng hộ cái mới, cần tìm nguồn gốc của sự phát triển trong bản thân sự vật.
Sự phát triển bao hàm cả sự thụt lùi tạm thời. Do đó trước những khó khăn phải bình tĩnh xem xét mọi nhân tố tác động đến tình hình hiện tại, biết chấp nhận những thất bại tạm thời để vượt qua khó khăn đi đến thắng lơị mới cao hơn.
ý nghĩa thực tiễn của quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển giúp chúng ta nhận thức được rằng, muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật và hiện tượng, nắm được khuynh hướng vận động của chúng, phải có quan đểm phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ.
Trong những năm gần đây, trước những khó khăn của đất nước, một số người muốn nhân dân ta từ bỏ con đường xã hộ chủ nghĩa hoặc lùi lại giai đoạn cách mạng dân chủ nhân dân. Quan điểm trên hoàn toàn không có cá nhìn biện chứng, cái nhìn phát trển. Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa là kết quả phân tích khoa học bối cảnh lịch sử và các điều kiện khách quan, chủ quan của phong trào cách mạng nước ta.
Thắng lợi của công việc đổi mới của 10 năm qua và những kết quả đầu tiên của công cuộc công nghệp hoá, hiện đại hoá đã khẳng đinh quan điểm phát triển đất nươc của Đảng ta hoàn toàn đúng đắn.
II. Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật ( 3 quy luật)
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại.
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại là quy luật chỉ rõ cách thức của sự phát trển của sự vật, hiện tượng.
Một số khái niệm.
Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Để hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt này, trước hết cần phải nắm vững được khái niệm chất và lượng.
Chất: là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của các sự vật là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho nó là nó và phân biệt nó với cái khác.
Lượng: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, đó là những thuộc tính quy định về quy mô, trình độ phát triển của sự vật, biểu thị số lượng các thuộc tính các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng.
Mối quan hệ gữa chất và lượng là một trong những quy luật vận động cơ bản của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mối quan hệ biện chứng giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất.
Chất và lượng là hai mặt đối lập: chất tượng đối ổn định, còn lượng thường xuyên biến đổi . Sự biến đổi về lượng có thể xảy ra hai trường hợp khác nhau:
Một là, sự tăng lên hoặc gảm đi về lượng không làm cho chất thay đổi ngay mà thay đổi dần dần từng phần, từng bước.
Hai là: sự tăng lên hoặc giảm đi về lượng làm cho chất thay đổi.
Như vậy, không có sự thay đổi dần dần về lượng thì không có sự nhảy vọt về chất, sự thay đổi dần dần về lượng được gọi là sự tiến hoá- sự nhảy vọt về chất được gọi là cách mạng.
Tuy nhên, không thể không đề cập đến sự tác động của chất đối với lượng hay nói cách khác” chiều ngược lại”của quy luật.
Quy luật lượng- chất đã chỉ rõ cách thức biến đổi của sự vật và hiện tượng. Trước hết, lượng biến đổi dần dần và liên tục khi đạt đến điểm nút( giới hạn của sự thống nhất gữa chất và lượng) sẽ dẫn đến bước nhảy vọt về chất , chất mới ra đời lại tạo nên sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế giới diễn ra theo cách thức lúc thì biến đổi tuần tự vệ lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút vô tận làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế cho sự vật cũ.
ý nghĩa của quy luật
Quy luật lượng- chất có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Do sự vận động và phát triển của sự vật, trước hết là sự tích luỹ về lượng và khi sự tích luỹ về lượng vượt quá giới hạn”độ” thì tất yếu có bước nhảy về chất, nên trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống cả hai khuynh hướng:
Thứ nhất: “ Tả khuynh”- tư tưởng nôn nóng, chủ quan duy ý chí , thể hiện ở chỗ khi chưa có sự tích luỹ về lượng đã muốn thực hiện bước nhày về chất.
Thứ hai:” Hữu khuynh”- tư tưởng bảo thủ, chờ đợi , không thực hiện được bước nhảy về chất khi có sự tích luỹ đầy đủ về lượng hoặc chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng.
Cần có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện các bước nhảy khi có các điều kiện đầy đủ.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, Lê nin đã co quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là” hạt nhân của phép biện chứng”. Quy luật này chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát trển. Đồng thời, quy luật này còn là cơ sở để hiểu rõ bản chất và những mối liên hệ gữa các phạm trù, cũng như các quy luật cơ bản khác trong phép biện chứng duy vật.
Nội dung của quy luật
Mâu thuẫn là một hiện thực khách quan và phổ biến:
Mâu thuẫn là một khái niệm để chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Đó là những mặt có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau cùng tồn tại trong một sự vật. Mâu thuẫn là sự thống nhất của hai mặt đối lập.
Mối liên hệ và sự tác động lẫn nhau giữa các mặt đối lập là cái vốn có và phổ biến trong mỗi sự vật, hiện tượng ở tất cả các lĩnh vực( tự nhiên, xã hội, tư duy).
Do mâu thuẫn là khách quan và phổ biến nên mâu thuẫn có tính đa dạng và phức tạp. Mâu thuẫn trong mỗi sự vật và trong các lĩnh vực khác nhau cũng khác nhau. Trong mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một mâu thuẫn mà có nhều mâu thuẫn, mỗi mâu thuẫn và mỗi mặt của mâu thuẫn lại có đặc điểm, có vai trò tác động khác nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật.
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh vớ nhau.
Nội dung cơ bản của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập được làm sáng tỏ thông qua một loạt những phạm trù cơ bản:
Mặt đối lập: là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những đặc đểm, những thuộc tính, những tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Chính những mặt như vậy nằm trong mối liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Mâu thuẫn biện chứng là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ sự vật hiện tượng nào. Nó không chỉ là sự phủ định, sự loại trừ lẫn nhau giữa các mặt đối lập mà chính các mặt đối lập đó có sự tác động qua lại lẫn nhau, đấu tranh lẫn nhau và vì vâỵ, nó bao hàm cả sự thống nhất gữa chúng.
Thống nhất của các mặt đối lập: hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn luôn luôn tồn tại trong sự “ thống nhất” vớ nhau nghĩa là chúng nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau, sự tồn tại của mặt này phải lấy mặt kia làm tiền đề và tồn tại cho sự tồn tại của mình. Sự thống nhất của hai mặt đối lập thể hiện tính không thể tách rời của hai mặt đó.
Đấu tranh của các mặt đối lập: là sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau.
Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng, bởi vì trong sự quy định, ràng buộc lẫn nhau, hai mặt đối lập vẫn có xu hướng phát triển trái ngược nhau đấu tranh vớ nhau.
Sự vận động và phát triển của sự vật thể hiện trong sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt. Thống nhất của các mặt đối lập và đấu tranh của các mặt đối lập, trong đó: thống nhất là tạm thời tương đối còn đấu tranh là tuyệt đối. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập làm cho sự vận động và phát triển của sự vật là sự thống nhất và diễn ra liên tục. Tính tương đối của thống nhất giữa các mặt đối lập làm cho thế giới vật chất phân hoá thành các bộ phận, các sự vật đa dạng phức tạp, gián đoạn.
Quá trình hình thành và giải quyết mâu thuẫn:
Cùng vớ sự ra đời và biến đổi của các sự vật và hện tượng, mâu thuẫn cũng có quá trình nảy sinh và phát triển của mình.
Khi mới hình thành, mâu thuẫn thường chỉ biểu hiện là hai mặt khác nhau, song chẳng có hai mặt khác nhau nào có liên hệ hữu cơ vớ nhau và có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau, cùng tồn tại trong một thể thống nhất của sự vật thì mới hình thành bước đầu một mâu thuẫn.
Trong quá trình phát triển, hai mặt khác nhau đó trở thành hai mặt đối lập, hai mặt đối lập đó đấu tranh vớ nhau đến độ chín muồi và có điều kiện thì chúng chuyển hoá lẫn nhau chính bằng cách đó mâu thuẫn được giải quyết.
Chuyển hoá của các mặt đối lập là kết quả tất yếu của sự tác động qua lại thường xuyên giữa các mặt đối lập làm cho sự vật thay đổi về chất và chuyển sang sự vật khác. Sự vật mới tồn tại với những mâu thuẫn mới, các mặt đối lập lại đấu tranh vớ nhau, chuyển hoá làm cho sự vật không ngừng vận động và phát triển.
Sự chuyển hoá của các mặt đối lập có thể xảy ra ở từng bộ phận hay xảy ra toàn phần dưới hai hình thức cơ bản:
Chuyển hoá lẫn nhau: các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.
Chuyển hoá lên hình thức cao hơn: cả hai mặt đối lập cũ đều mất đi và hình thành hai mặt đối lập mới trong sự vật mới.
Nguyên nhân chính và cuối cùng của mọi sự vận động là sự tác động qua lại lẫn nhau. Đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu những thay đổi của sự vật nói chung làm cho sự vật chuyển sang trạng thái khác về chất. Nói cách khác, đấu tranh của các mặt đối lập và sự chuyển hoá giữa chúng là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển.
b. ý nghĩa:
Mâu thuẫn là khách quan, là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, nên muốn nắm được bản chất của sự vật, cần phải” phản đối” cái thống nhất và nhận thức các bộ phận đối lập của chúng.
Mâu thuẫn là phổ biến, đa dạng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải có phương pháp phân tích mâu thuẫn và giải thích mâu thuẫn một cách cụ thể. Vệc giải quyết mâu thuẫn chỉ bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập và với những điều kiện chín muồi.
Quy luật phủ định của phủ định.
Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của phép byện chứng duy vật, chỉ rõ khuynh hướng vận động, phát trển của sự vật và liên hệ giữa cái cũ với cái mới. Để hiểu được bản chất của quy luật trước hết cần nắm được khái niệm phủ định và phủ định biện chứng.
Phủ định và phủ định bện chứng.
Phủ định: Trong thế giới vật chất, các sự vật đều có quá trình sinh ra, tồn tại, mất đi và được thay thế bằng sự vật khác. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới là sự phủ định. Như vậy, phủ định là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất.
Phủ định biện chứng: Nếu quan điểm siêu hình coi phủ định là xoá bỏ hoàn toàn cá cũ thì triết học Mác-Lê nin coi phủ định là phủ định biện chứng là sự phủ định, là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trên cơ sở sự mất đi của sự vật cũ và nảy sinh của sự vật mới. Hay nói cách khác là sự phủ định tạo tiền đề cho phát triển tếp theo.
Quan nệm về sự phủ định biện chứng như trên tất yếu sẽ dẫn tới vệc giải quyết mâu thuẫn và thực hện bước nhảy. Chính sự ra đời
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60151.doc