Trong gần 20 năm qua, Việt Nam đã thực hiện đường nối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước , nhằm dần chuyển từng bước từ cơ chế quản lý tập chung sang sản xuất hàng hoá , vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN . Chủ chương đổi mới quan trọng này từng bước được cụ thể hoá thành các hệ thống chính sách . trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tư tưởng đổi mới đã được thể hiện thông qua việc ban hành chỉ thị 100-CT/TƯ của ban bí thư trung ương(1981) , Nghị quyết 10 của bộ chính trị (1988) . Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung và tới việc khuyến khích chủ động sáng tạo trong sản xuất của hộ nói riêng . với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ trong hoạt động sản xuất theo cơ chế thị trường , các hộ nông dân cả nước đã và đang tích cực đẩy mạnh phát triển sản xuất một cách năng động , đa dạng phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của mỗi hộ , tạo ra thị trường hàng hoá dồi dào , phong phú ngay tại địa bàn nông thôn. Mặt khác dưới sự tác động khách quan của các quy luật cơ chế thị trường , các hộ nông dân đang gặp khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá do những yếu tố bên trong và bên ngoài khu vực nông nghiệp . Cũng như những hộ khác trong cả nước , kinh tế hộ nông dân ĐBSH có những lợi thế và khó khăn nhất định trong quá trình phát triển sản xuất hàng hoá . Nhận thấy đươc những vấn đề đó và có những giải pháp phù hợp , sẽ cho chúng ta khai thác và sử dụng các tiềm năng về đất đai , lao động , vốn ở nông thôn có hiệu quả , nâng cao đời sống dân cư nông thôn .Vì vậy em chọn đề tài: “Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng Bằng Sông Hồng”.
53 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1125 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở đồng bằng Sông Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài :
Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng Bằng Sông Hồng
Mục lục
Lời nói đầu
Trong gần 20 năm qua, Việt Nam đã thực hiện đường nối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước , nhằm dần chuyển từng bước từ cơ chế quản lý tập chung sang sản xuất hàng hoá , vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN . Chủ chương đổi mới quan trọng này từng bước được cụ thể hoá thành các hệ thống chính sách . trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn tư tưởng đổi mới đã được thể hiện thông qua việc ban hành chỉ thị 100-CT/TƯ của ban bí thư trung ương(1981) , Nghị quyết 10 của bộ chính trị (1988) . Các chính sách này có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển sản xuất nông nghiệp nước ta nói chung và tới việc khuyến khích chủ động sáng tạo trong sản xuất của hộ nói riêng . với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ trong hoạt động sản xuất theo cơ chế thị trường , các hộ nông dân cả nước đã và đang tích cực đẩy mạnh phát triển sản xuất một cách năng động , đa dạng phù hợp với năng lực và điều kiện cụ thể của mỗi hộ , tạo ra thị trường hàng hoá dồi dào , phong phú ngay tại địa bàn nông thôn. Mặt khác dưới sự tác động khách quan của các quy luật cơ chế thị trường , các hộ nông dân đang gặp khó khăn trong việc phát triển sản xuất hàng hoá do những yếu tố bên trong và bên ngoài khu vực nông nghiệp . Cũng như những hộ khác trong cả nước , kinh tế hộ nông dân ĐBSH có những lợi thế và khó khăn nhất định trong quá trình phát triển sản xuất hàng hoá . Nhận thấy đươc những vấn đề đó và có những giải pháp phù hợp , sẽ cho chúng ta khai thác và sử dụng các tiềm năng về đất đai , lao động , vốn ở nông thôn có hiệu quả , nâng cao đời sống dân cư nông thôn .Vì vậy em chọn đề tài: “Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá ở Đồng Bằng Sông Hồng”.
Phần I : Cơ cơ sở lý luận chung
I-sự cần thiết phải phát triển kinh tế hộ nông dân
1. Xuất phát từ mục tiêu CNH (Công nghiệp hoá). HĐH (Hiện đại hoá) nông nghiệp nông thôn
-Thứ nhất giảI quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn nâng cao thu nhập và mức sống cho dân cư ở nông thôn
-Thứ hai : đa dạng hoá nền kinh tế ở nông thôn đa dạng hoá nghành nghề tạo ra việc làm ở nông thôn trên cơ sở tạo ra nghành nghề mới.
-Thứ ba : sử dụng lao động dư thừa ngay tại chỗ trên địa bàn nông thôn. Vừa làm ruộng vừa làm nghề khác như công nghiệp và dịch vụ nông thôn (Rời ruộng nhưng không rời làng).
Trong quá trình công nghiệp hoá đất nước thì công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn có vai trò quan trọng hàng đầu.
2. Vai trò của kinh tế hộ.
+ Là cầu nối khâu trung gian để chuyển nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá , gắn với lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá.Quy mô thị trường được mở rộng từ thị truòng dịa phương đến thị trường trong nước va vươn ra thị truòng quốc tế.
+ Là đơn vị tích tụ vốn, nếu không có sự tích tụ đó thì những khoản dư thừa do hoạt động kinh tế hộ sẽ không đựơc sử dụng vào mục đích tăng sản phẩm cho xã hội. Mức độ tích luỹ vốn càng cao kinh tế hộ càng có điều kiện dể chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề mở rộng sản xuất kinh doanh ( nguyên nhân tạo ra nghành nghề mới).
Từ yếu tố này quy định hộ là đơn vị cơ sở để phân công lao động xã hội. Sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trừong đã phá vỡ cơ cấu kinh tế tự cấp tự túc. Điều đó đòi hỏi phát triển kinh tế toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi giải quyết vấn đề lương thực thực phẩm cho nông nghiệp tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Để phát huy lợi thế so sánh của hộ( tay nghề, vốn, thị trường…), tạo thành các hộ chuyên sản xuất một loại sản phẩm hàng hoá cho thị trường.
+ Là đơn vị kinh tế co sở tiếp nhận khoa học kỹ thuật đổi mới công nghệ nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Nó là một quá trình gắn với lợi ích thiết thân của hộ để tăng hiệu quả thông qua áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Trong hộ diễn ra quá trình sàng lọc và cải tiến kỹ thuật (kết hợp kinh nghiệm truyền thống và hiện đại).
+ Là đơn vị đáp ứng cung cầu và là đơn vị tiêu dùng- do đặc điểm của hộ: Có khả năng thích ứng cao với mọi nhu cầu của thị trường, dể dàng tổ chức lại và phân công lao động
3. Từ thực tế những năm đổi mới .
Sau chỉ thị 100 của ban bí thư TW nhược điểm của chỉ thị biểu hiện ở:
Xã viên không làm chủ ruộng đất không yên tâm đầu tư thâm canh vì sợ hợp tác xã sẽ điều chỉnh mức khoán khi năng suất tăng lên. Phần sản lượngvượt khoán nhiều khi không đủ bù đắp chi phí tăng nên . 8 khâu sản xuất – HTX thực hiện 5 khâu , xã viên thực hiện 3 khâu, không đảm bảo gắn lao động vàTLSX với sản phẩm cuối cùng trong toàn bộ quy trình SX
Nghị quyết 10 của bộ chính trị : Khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ , trong đó quan trọng nhất là chính sách ruộng đất ( do tính chất ruộng đất là tư liệu sản xuất đặc biệt – chủ yếu )và chính sách này tạo điều kiện cho hộ nông dân tập chung ruộng đất mở rộng quy mô sản xuất, hình thành nên các trang trại .góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội . Những người có khả năng chuyển sang các nghành nghề phi nông nghiệp thì không bị trói buộc vào ruộng đất, họ có thể chuyển nhượng ruộng đất để tập chung đầu tư cho hướng sx mới
II- Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá
1. Nhân tố tự nhiên :
ĐBSH gồm 12 tỉnh thành phố Hà Nội , Hải Dương , hưng yên , Bắc Ninh , vĩnh phúc , Hà Tây , Hà Nam , Nam Định , Ninh Bình , Thái Bình . Diện tích toàn vùng là 12.150km2 Do điều kiện khí hậu thuỷ văn thuận lợi . ĐBSH còn có hàng vạn ha mặt nước (ao , hồ đầm , sông ngòi ) nội địa có thể nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt . Vùng ven biển từ Hải Phòng đến Ninh Bình dài hàng trăm km vừa là ngư trường nuôi trồng, khai thác hải sản lớn vừa thuận lợi cho việc sản suất muối và trồng cây ngập mặn. Nhưng lợi thế cơ bản của kinh tế nông hộ vùng ĐBSH chính là sự phát triển của các điều kiện kết cấu hạ tầng kinh tế- văn hoá- xã hội tạo nên một hệ thống tưới tiêu chủ động được xây dựng khá hoàn chỉnh , mạng lưới điện quốc gia phủ khắp phục vụ sản xuất , sinh hoạt của nhân dân , hệ thống giao thông quốclộ , đường liên tỉnh , liên huyện và trong thôn xóm đã được thiết lập
Đất có khả năng nông nghiệp, đất nông nghiệp trong vùng là 805,8 ha chiếm 46,5%diện tích lãnh thổ của vùng trong đó đất canh tác là713 nghìn ha . Do được thiên nhiên ban phát nên đại bộ phận là đất phù sa màu mỡ thích hợp với các loại cây trồng và nông dân có truyền thống thâm canh và có trình độ canh tác nên đất đai ở đây được khai thác , sử dụng triệt để có hiệu quả. Hệ số sử dụng đất canh tác toàn vùng là 1.96 lần (1990) cao nhất so với cả nước
2. Nhân tố kinh tế – xã hội
ĐBSH là một trong hai vùng có đông dân số và dân cư nông thôn so với cả nước . Đến năm 1999 toàn vùng có 16.833.000 người chiếm 22,6% so với dân số cả nước. Mật độ dân số lên tới 1183người/ km2 .Trong đó hơn 80,4% dân cư sống ở nông thôn. Sự tập chung đông dân cư nông thôn trước hết trong lĩnh vực nông nghiệp .Cùng với tốc độ tăng dân số cao làm cho diện tích canh tác đất đai của nông hộ ở mức thấp , mỗi nhân khẩu chỉ có 500m2/khẩu đất lúa còn ít hơn 384m2/khẩu (1999) .Đặc điểm đất chật người đông dẫn đến lao động dư thừa ,việc làm thiếu ở cả hai khu vực nông thôn và thành thị .Mặt khác quá trình chuyển giao ruộng đất từ kinh tế tập thể sang kinh tế nông hộ đã dẫn đến tình trạng nhỏ lẻ manh mún và phân tán đất đai của nông hộ gây nhiều khó khăn trong việc canh tác sử dụng
Ngoài hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng là những trung tâm kinh tế,văn hoá thương mại lớn trong vùng còn có 9 thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh ,có nhiều đầu mối giao thông , tụ điểm kinh tế- văn hoá... Các nhân tố này tác động trực tiếp đến kinh tế nông hộ từ phía sản xuất kinh doanh , tiêu thụ sản phẩm cũng như từ phía tiêu dùng và sinh hoạt của hộ
III. Xu hướng phát triển kinh tế hộ .
- Tiếp tục tăng cường thâm canh trong nông nghiệp, nâng cao năng suất lúa, rau đậu và các loại cây trồng khác đồng thời thay đổi cơ cấu cây trồng và cơ cấu mùa vụ, nhất là hướng vào cây con có giá trị kinh tế cao .
- Phát triển công nghiệp nhỏ ,thương nghiệp dịch vụ và các hoạt động phi nông nghiệp khác trong nông thôn, nhằm giải quyết cho lao động nông nghiệp dư thừa cải thiện thu nhập của nông dân .
- Khả năng và xu hướng trên phụ thuộc rất lớn vào các chính sách và giải pháp nhằm tạo môi trường và điều kiện kinh tế chung như: Chuyển giao những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ và công nghệ sinh học. Giá cả , thị trường tiêu thụ sản phẩm của nông dân ( kể cả sản phẩm nông nghiệp , ngư nghiệp , tiểu thủ công ngiệp ). Một yếu tố hết sức quan trọng đó là vốn cho sản suất, kinh doanh. Cần mở rộng và hoàn thiện thị trường vốn, tăng cường vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn .
PhầnII: Thực trạng phát triển kinh tế hộ theo hướng sản xuất hàng hoá
I- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội của vùng ĐBSH.
1. Đăc điểm tự nhiên vùng:
Là vùng có diện tích tự nhiên 12.150 Km2.Với dân số khoảng 15 triệu dân ( năm 2000) .ĐBSH giáp với vùng kinh tế Đông Bắc ,Tây Bắc và Bắc Trung Bộ.Diện tích nông nhgiệp trên 720 nghìn ha, chiếm 9,2% của cả nước.Đất canh tác tuy không nhiều,độ màu mỡ không được xếp vào loại cao, song địa hình khá bằng phẳng ,khí hậu chia 4 mùa rõ rệt thích hợp với việc phát triển nông nghiệp lúa nước thâm canh cao hai vụ và có thế mạnh rau vụ đông ,đặc biệt là rau quả vụ đông lớn nhất nước ta.Có thể nói đây là một trong những lợi thế so sánh nổi bật củaĐBSH. Lợi thế này đã và đang tạo cho ĐBSH phát triển nông sản hàng hoá phục vụ nhu cầu cung cấp nguyên liệu quanh năm cho nghành công nghiệp chế biến với các sản phẩm chính như lúa gạo ,rau tươi, quả tươi, thịt lợn và thịt gia cầm,thuỷ hải sản. ĐBSH vừa là cửa ngõ đi ra biển ,vừa là vùng trung chuyển hàng hoá, nguyên vật liệu của 20 tỉnh Bắc Bộ qua lại hệ thống đường bộ, đường sắt ,đường thuỷ khá hoàn chỉnh nối liền với cảng biển hải phòng ,diêm điền .Đặc biệt hệ thống sông ngòi chằng chịt với các sông Hồng, sông Đà, sông Đáy , sông Trà Lý vừa là nguồn cung cấp nước ngọt cho sản xuất công, nông nghiệp và sinh hoạt,vừa là mạch máu giao thông thuỷ thuận lợi cho các trung tâm đô thị, các khu công nghiệp tập chung . ĐBSH có rừng quốc gia Cúc Phương ,Ba Vì và các khu rừng Tam đảo ,Cát Bà cùng với hệ thống cây xanh ven biển,ven đường giao thông có tác dụng điều hoà khí hậu. Hệ thống núi đá ở Ninh Bình ,Hà Nam, Hải Dương, Hải Phòng là nguồn vật liệu xây dựng quý giá đủ khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển giao thông và sản xuất vật liệu xây dựng .ĐBSH là nơi có nhiều di tích lịch sử,văn hoá ,có nhiều danh lam thắng cảnh tạo ra tiềm năng lớn để phát triển du lịch trong những năm tới .
Tuy nhiên hệ thống sông ngòi chằng chịt gây ra khó khăn trong phát triển mạng lưới giao thông . Khí hậu hai mùa mưa và mùa khô gây ra thừa nước ở mùa mưa, có thể bị hạn hán vào mùa khô .
1.1 Đặc điểm về xã hội .
1.1.1 Dân số và lao động :
- Dân số và lao động ĐBSH cũng là thế mạnh .Với số dân khoảng 15 triệu người (năm 2000) , trong đó có khoảng 7 triệu lao động (tỷ lệ dân số biết chữ trên 90%) ĐBSH là vùng có trình độ dân trí cao,trình độ tay nghề của người lao động khá cao so với các vùng khác . Đó là môi trường thuận lợi để nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nghề nghiệp cho người người lao động .Bên cạnh trường đào tạo chính quy ,ĐBSH từ lâu đã hình thành các làng nghề truyền thống , là nơi đào tạo nghề nghiệp tiểu thủ công nghiệp cho nhiều thế hệ và ngày nay vẫn là điểm trội có một không hai của vùng này so với cả nước. Các điều kiện của ĐBSH cũng khá thuận lợi, bên cạnh các thế mạnh về nônh nghiệp, ĐBSH còn có thế mạnh về công nghiệp và dịch vụ .Các trung tâm công nghiệp và thương mại lớn nhất miền bắc như Hà Nội , Hải Phòng ,Nam Định ngày càng phát triển cả bề rộng và chiều sâu .Trong những năm đổi mới ,ĐBSH là vùng thu hút nhiều dự án đầu tư nước ngoài lớn thứ 2 sau vùng Đông Nam Bộ , trong đó hầu hết là đầu tư vào công nghiệp và dịch vụ .Các khu công nghiệp , khu chế xuất ở Hà Nội , Hải Phòng đã và đang thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, chủ yếu để phát triển công nghiệp .Giao thông vận tải thuận lợi, tất cả chín tỉnh đều nằm trên hệ thống đường giao thông huyết mạch của cả nước gắn với sân bay quốc tế Nội Bài , hệ thống cảng biển hiện đại gần vùng khoáng sản tài nguyên Bắc Bộ ,đảm bảo nguyên liệu , vật liệu cho phát triển công nghiệp đa ngành trong đó có công nghiệp nông thôn .
1.1.2 Cơ sở hạ tầng của vùng .
Kết cấu hạ tầng trong vùng cũng hơn hẳn các vùng khác,từ năm 1995 ĐBSH đã hoàn thành điện khí hoá nông thôn sớm nhất cả nước.Hệ thống đường giao thông thôn đến tận xã, thôn và không ngừng được nâng cấp . Hệ thống trường học ,trạm y tế ,nhà văn hoá, chợ ,thông tin liên lạc,…Cũng thuộc loại nhất nhì so với các vùng khác .
Bảng : So sánh kết cấu hạ tầng ở ĐBSH so với cả nước. (%)
Vùng
Tỷ lệ xã có điện
Tỷ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm xã
Tỷ lệ xã có đường ô tô đến thôn
Tỷ lệ xã có trường tiểu học
Tỷ lệ xã có trạm y tế
Cả nước
85,8
92,9
79,8
98,8
98,0
Đồng Bằng Sông Hồng
99,9
99,9
99,6
99,9
100,0
Nguồn : Thời báo Kinh tế, 3-2000.
Yếu tố đầu tiên là thị trường sức lao động , thị trường tiêu thụ nông sản .Với số lượng 15 triệu dân ,trong đó khoảng 12 triệu dân sống ở nông thôn ,nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ phi nông nghiệp ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng .
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi trên, ĐBSH cũng còn khó khăn và hạn chế xuất phát từ đặc điểm tự nhiên-xã hội của vùng :
Mật độ dân số quá cao 1224 người/km2. Đất nông nghiệp vốn đã ít lại giảm dần cùng với quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá. Đến nay bình quân đất nông nghiệp chỉ còn 500m2/khẩu ,đất lúa còn ít hơn 384 m2/khẩu ( năm 1999 ) . Đặc điểm đất chật người đông dẫn đến lao động dư thừa , việc làm thiếu ở cả hai khu vực nông thôn và thành thị. Lao động thiếu việc làm ở khu vực nông thôn tăng nhanh dẫn đến thu nhập và tích luỹ của dân cư nông thôn vùng này thấp, nguồn vốn trong dân đầu tư cho sản xuất hàng hoá hạn chế rất nhiều .
Trong nông nghiệp , ruộng đất đã ít lại manh mún và phân tán trong nhiều hộ gia đình , rất khó khăn cho quá trình cơ giới hoá, điện khí hoá nông nghệp .
Tập quán canh tác tự cấp tự túc, tính chất tự phát, lại nhiều năm làm việc trong cơ chế quản lý tập trung cùng với tính bảo thủ, trì trệ đã hạn chế khả năng tiếp cận cơ chế thị trường, kiến thức sản suất hàng hoá của đội ngũ cán bộ và người lao động ở khu vực nông thôn ĐBSH hiện nay còn thấp .
II- Vài nét về quy mô sản xuất kinh doanh .
1. Đặc điểm lao động :
Hộ là một đơn vị lao động, các hộ dựa vào sử dụng nhân công trong gia đình là chủ yếu và hộ bao gồm một cơ cấu tuổi tác, giới tính, lao động nghề nghiệp khác nhau .Cơ cấu này cho phép hộ sử dụng nguồn nhân lực rất linh hoạt theo nhiều chiều một cách có hiệu quả. Nhưng lao động trong gia đình không được xem dưới hình thái hàng hoá. Trong những điều kiện sản xuất khó khăn như thiên tai, Lao động trong nông nghiệp vẫn hạn chế tiêu dùng vài gắng sức tìm nguồn sống trong gia đình với chi phí lao động rất lớn đã làm cho người nông dân bị hạn chế khi bước vào sản xuất hàng hoá. Nhưng do sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp phát triển dẫn tới sự phân công lao động, hình thành lao động làm thuê, Một đặc trưng nổi bật của việc sử dụng thời gian lao động của hộ trong khu vực nông thôn là việc sử dụng quỹ thời gian lao động còn rất thấp
Chất lượng của lao động trong nông thôn còn yếu thể hiện qua trình độ chuyên môn của lực lượng lao động nông thôn .
(%)
Bảng: Cơ cấu số người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động ở khu vực nông thôn phân theo trình độ chuyên môn ở một số tỉnh vùng ĐBSH.
Vùng
Chưa qua đào tạo
Sơ cấp
Công nhân
Kỹ thuật
Trung cấp
Cao đẳng
Đại học
ĐBSH
91,12
3,46
3,21
1,13
1,07
Hải Dương
93,92
2,6
2,2
0,78
0,49
Hà Tây
91,57
2,65
3,21
1,54
1,04
Hải Phòng
86,68
6,74
4,01
1,21
1,27
Hưng Yên
93,68
2,58
2,31
0,88
0,55
(Nguồn : Kết quả tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn , thuỷ sản. Nxb Thống kê-2002)
Tỷ lao động chưa qua đào tạo toàn vùng là 91,12% trong khi đó số lao động qua đào tạo ở các trường dạy nghề toàn vùng mới đạt 3,46%. Cơ cấu trên ảnh hưởng đến việc tiếp nhận kỹ thuật mới vào sản xuất gặp khó khăn. Một trong những hướng phát triển nghành nghề nông thôn là thu hút lao động từ nông nghiệp và hộ nông dân phải có trình độ đáp ứng với nghành nghề phi nông nghiệp. Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là cây trồng vật nuôi có quy luật sinh trưởng và phát triển riêng phản ứng của nó là tạo ra lao động có kỹ thuật hay không cũng có thể làm được, nên lao động chủ yếu tự đào tạo và truyền nghề ,không qua đào tạo có hệ thống, trình độ chuyên môn lao động không cao. Việc sử dụng quỹ thời gian của hộ trong khu vực nông thôn còn thấp (Trung bình ở ĐBSH trong một năm có 74,98% ngày làm việc/năm), do vậy kiếm thêm việc làm trong khu vực nông thôn rất khó khăn, đây là nguyên nhân dẫn đến thu nhập thấp. Muốn giải quyết vấn đề này cần phải tạo việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn, nâng cao hiệu số sử dụng đất đai qua thâm canh, kết hợp với đa dạng hoá trong sản xuất. Mặt khác sự phát triển của các hộ phi nông nghiệp, hay hộ kiêm nghành sẽ tạo ra sức hút lớn đối với lao động ở nông thôn, xu hướng di chuyển lao động ở một số tỉnh sẽ phản ánh rõ điều này.
Xuất hiên ba xu hướng di chuyển lao động :
Xu hướng chuyển lao động vào khu công nghiệp nông thôn hoặc vào ngay trong nông nghiệp nhưng là lao động làm thuê ở các nông, lâm trường, các trang trại. Xu hướng lao động làm dịch vụ, thợ xây, buôn bán nhỏ…Nhưng vẫn phụ thuộc vào sản xuất nông nghiệp. Như chúng ta đã biết những xu hướng này phụ thuộc rất lớn vào trình độ của người lao động .
2. Quy mô đất canh tác.
Đặc trưng của nông hộ ĐBSH là quy mô canh tác rất nhỏ bé biểu hiện tính tiểu nông . Toàn vùng có 738.527ha đất nông nghiệp trong đó chủ yếu là trồng cây lương thực (507.025ha). Sau khoán 10 diện tích đất nông nghiệp ở ĐBSH hầu như không tăng và quỹ đất nông nghiệp chỉ chiếm 9,5% đất nông nghiệp cả nước, trong khi đó số hộ nông nghiệp chiếm 25,35% và lao động nông nghiệp chiếm 19,5% trong tổng số hộ, khẩu và lao động trong cả nước. Mặt khác hàng năm số hộ, số khẩu, số lao động ở khu vực này ngày càng tăng.Thực trạng đó đã khiến cho ĐBSH trở thành nơi có bình quân ruộng đất/đầu người giảm dần qua các năm và ở mức thấp nhất của cả nước .
Bảng: Bình quân ruộng đất, hộ, khẩu, lao động, nông nghiệp ở ĐBSH (1993-1998)
Năm
Tổng diện tích đất nông nghiệp (ha)
Bình quân hộ nông nghiệp (m2)
Bình quân khẩu nông nghiệp (m2)
Bình quân lao động nông nghiệp (m2)
1993
721.326
2.814
750
1.817
1994
711.744
2.775
679
1.486
1995
720.218
2.713
664
1.486
1996
719.610
2.722
689
1.486
1997
721.548
2.722
670
1.462
1998
720.747
2.715
665
1.438
(Hiện trạng sử dụng ruộng đất năm 1980-1998. Tổng cục quản lý ruộng đất).
Như vậy trong vòng 5 năm (từ năm 1993-1998) trung bình hàng năm đất nông nghiệp giảm 24m2/hộ. Nếu vào năm 1993 mỗi hộ có 2.836m2 thì đến năm 1998 còn 2.716m2.Nhưng nếu tính từ năm 1990-1998 mỗi năm giảm 150m2/hộ.Đa số hộ nông dân có diện tích canh tác thấp, dưới 0,5ha(chiếm 96%),nhưng đến năm 2001 đã giảm (46,77%) mặc dù số hộ đã tăng nên. Quy mô ruộng đất nông nghiệp tính theo nhóm hộ còn ở mức thấp hơn
Bảng : Cơ cấu ruộng đất phân theo quy mô đất nông nghiệp .(Năm 2001)
(%)
Tổng số
ĐBSH
Cả nước
Hộ có dưới 0,2ha
46,77
25,15
Hộ có từ 0,2 đến dưới 0,5ha
49,03
39,19
Hộ có từ 0,5-1ha
3,6
16,42
Hộ có từ 1-3ha
0,24
13,06
Hộ có từ 3-5ha
0,02
1,75
Hộ có từ 5-10ha
0,01
0,4
Hộ có từ 10ha trở nên
0
0,05
(Nguồn: Kết quả tổng điều tra nông nghiệp nông thôn, thuỷ sản. Nxb Thống kê-2002)
Trong vòng 10 năm qua đất nông nghiệp luôn dao động ở mức 56-61% so với tổng diện tích đất tự nhiên trong khi đó cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đặc biệt là việc xây dựng các công trình công cộng và khu công nghiệp ở các tỉnh thành phố như Hà Nội, Hải phòng, Hải Dương, Hưng Yên…diện tích đất chuyên dùng và đất phi nông nghiệp không ngừng tăng nên. Đây là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng đất nông nghiệp bị giảm sút. Trước sự giam sút diện tích đất nông nghiệp trên khẩu, lao động và hộ gia đình nó tạo ra mâu thuẫn gay gắt giữa sự gia tăng dân số với diện tích đất gieo trồng .
Để tạo điều kiện phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá không thể duy trì tình trạng phân tán ruộng đất của mỗi hộ và giữ mức ruộng đất một hộ như đã nêu ở trên .Mà cần có biện pháp thúc đẩy tập chung ruộng đất của mỗi hộ nâng dần mức ruộng đất bình quân của các hộ làm nông nghiệp nên, tạo điều kiện cho các hộ phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng trang trại gia đình. Nhưng vẫn để ruộng đất lại phải gắn với quá trình phân công lại lao động và phát triển các nghành phi nông nghiệp trong nông thôn .Do bình quân ruộng đất thấp, nên tích tụ ruộng đất không gắn với phát triển các nghành nghề phi nông nghiệp, thì tất yếu không tránh khỏi một bộ phận nông dân sẽ không có đất để sản xuất và trở thành những người lao động làm thuê trong nông thôn. Điều này sẽ làm tăng tình trạng đói nghèo và bất bình đẳng trong nông thôn . Mức hạn điền đối với cây hàng năm của hộ gia đình cần phải được xem xét lại vì mức hạn điền như vậy trong nhiều trường hợp lại là trở ngại cho sự tích tụ ruộng đất vào các hộ có kinh nghiệm sản xuất, có khả năng quản lý có điều kiện về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp và do đó hạn chế sự phát triển của sản xuất hàng hoá.
Ngay cả trong trường hợp có quyền mua bán đất đai tự do thì sự tích tụ tập chung đất đai trên quy mô lớn sẽ diễn ra hết sức chậm chạp. Thực tế là người nông dân ĐBSH không thể bán đất đai bởi vì trong nông nghiệp sức ép từ lao động thừa là quá lớn làm cho họ ít có cơ hội tìm được việc làm mới thành thử họ không thể bán các phương tiện sống chủ yếu .
Đối với những hộ sản xuất không đủ tiêu dùng, không đủ khả năng tái sản xuất giản đơn hoặc những hộ sản xuất đủ tiêu dùng và có một khối lượng sản phẩm không đáng kể để bán. Ngay cả trong khi có nhiều người mua đất hộ nông dân cũng không thể bán đất. Cốt lõi vấn đề là ở chỗ : Đại bộ phận nông dân không thể bán cái phương tiện duy nhất có ý nghĩa quyết định sự sinh tồn của họ.
3. Thực trạng về vốn sản xuất kinh doanh.
Khả năng tích tụ vốn của đại bộ phận các hộ nông dân là thấp. Các hộ vẫn trong tình trạng thiếu vốn. Số vốn đầu tư chỉ ở mức thấp các hộ trung bình 200.000-300.000nđ.Các hộ buôn bán, ngành nghề khoảng trên dưới 1triệu đồng. So với nhu cầu các hộ nghèo thường thiếu vốn ở giai đoạn đầu, các hộ khác thiếu khoảng 300.000nđ. Các hộ kiêm nghành nghề thiếu từ 500.000 đến 1 triệu đồng .
Mặt khác chu kỳ Sx nông nghiệp kéo dài nên việc chu chuyển vốn rất chậm, bởi vậy sự căng thẳng về vồn càng diễn ra gay gắt ,tình trạng cho vay nặng lãi khá phổ biến ở nông thôn. Do vốn ít nên nông dân sử dụng một khối lượng phân hoá học và thuốc trừ sâu hạn chế mỗi ha dùng 40-60kg đạm lân và 0,5kg thuốc trừ sâu. Những hộ nghèo do không có vốn đầu tư sx đã dẫn đến tình trạng bóc lột đất đai. Quy mô thu nhập nhỏ bé khả năng tích luỹ thấp dẫn đến hạn chế khả năng tái đầu tư sản xuất mở rộng. Mức chi cho sản xuất nông nghiệp và sản xuất nói chung còn thấp.
Tích luỹ của nông dân không phải dựa trên một nền nông nghiệp thặng dư. Sự tích luỹ này do sự chắt bóp của nông dân, những nông phẩm được bán đi mua vật tư đầu tư vào sản xuất đôi khi chính là khẩu phần chủ yếu xâm phạm vào sản phẩm tất yếu. Tích luỹ chủ yếu từ nghành trồng trọt và chăn nuôi, tích luỹ dưới hình thái hiện vật–những vật phẩm ít có khả năng sinh lời .ở những làng có nghề thủ công, dịch vụ vốn tiền mặt sẵn hơn và nó được chu chuyển nhanh hơn ,những nơi này vốn tiền mặt chiếm tỷ trọng cao khoảng 50% tổng số tiền mặt của hộ số hộ chuyên nghành nghề chiếm tỷ lệ không cao. Nhóm hộ giàu cũng có tình trạng thiếu vốn .Nguồn vốn tự có bình quân của hộ chuyên nghành nghề 55,4%,hộ kiêm nghành 63,94%.Vốn vay bình quân của một hộ chuyên chiếm 44,46%, hộ kiêm là 36,06% ,trong đó tỷ trọng vốn vay ngân hàng của một hộ chuyên 61,04%, hộ kiêm là 72,43% (Năm 2000). Như vậy vay ngân hàng chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn vay. Do đó khi vay ngoài họ dễ bị tính lãi xuất cao .
Tình trạng thiếu vốn ở hộ giàu là do nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh còn ở nhóm hộ nghèo thiếu vốn do nhu cầu tái sản xuất giản đơn, đôi khi phần vốn vay mượn để chi dùng cho nhu cầu cơ bản (Nhu cầu ăn, uống) là chủ yếu. Tình trạng thiếu vốn đã hạn chế lớn đến việc mở rộng việc làm trong khu vực nông thôn, hạn chế khả năng mở rộng nghành nghề, khả năng tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, khả năng nâng cao trình độ thâm canh nông nghiệp. Trong khi vốn tự có của nông dân thiếu nghiêm trọng thì vốn đầu tư của nhà nước cho nông nghiệp có xu hướng giảm. Hệ thống tín dụng trong những năm gần đây đã có sự tiến bộ đáng kể nhưng hệ thống tín dụng chưa được tổ chức tốt. Hệ thống tín dụng hợp tác xã có vai trò mờ nhạt. Hệ thống tín dụng tư nhân cho vay với lãi xuất cao. Bình quân một hộ giàu vay 934.000nđ/năm trong đó vốn ngân hàng là 5%,anh em họ hàng 7%, tư nhân 20%, các nguồn khác 68%. Vay ngắn hạn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 799.doc