Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động của các doanh nghiệp trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân phải có những bước chuyển đổi mạnh mẽ.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang bước vào xu thế toàn cầu hoá và cạnh tranh gay gắt. Nhiều doanh nghiệp nước ta còn nhiều bỡ ngỡ với. Để có thể đứng vững và phát triển lâu dài là nhiệm vụ được quan tâm hàng đầu của đất nước ta nói chung và tất cả các doanh nghiệp nói riêng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường khắc nghiệt hiện nay thì phải xây dựng có hiệu quả. Do vậy đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh phải có chiến lược kinh doanh phát triển điều kiện của mình. Đó là sử dụng hiệu quả nguồn lực của mình để nâng cao năng suất, chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành, nâng cao uy tín nhằm tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải kinh doanh có lợi nhuận và đạt lợi nhuận ngày càng cao càng tốt. Để làm được điều đó các nhà quản lý phải có các công cụ để quản lý tốt doanh nghiệp của mình mà trong đó phương pháp thống kê và tư duy thống kê là công cụ và tố chất không thể thiếu, đối với các nhà quản lý và các nhà điều hành doanh nghiệp. Chúng hỗ trợ cải tiến sản xuất kinh doanh. Trong những phương pháp thống kê đó thì thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh là một công cụ quan trọng để các nhà quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không những cho biết việc sản xuất kinh doanh đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các nhân tố để từ đó đưa ra biện pháp thích hợp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế đã phát triển, các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Điểu đó, đòi hỏi việc thu thập và xử lý thông tin ngày càng nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Có như vậy mới đáp ứng được việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời, việc đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng cần phải được tăng cường và đổi mới một cách phù hợp. Có như vậy mới phản ánh được những hoạt động sản xuất kinh doanh vốn rất phức tạp, đa dạng và năng động ở các doanh nghiệp một cách đầy đủ, chính xác và toàn diện.Thông tin thống kê có vai trò hết sức quan trọng đối với việc quản lý doanh nghiệp và đánh giá tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc quyết định sự ra đời, phát triển hay phá sản của một doanh nghiệp cần phải có những thông tin thống kê đầy đủ, chính xác và khoa học.
Là một doanh nghiệp tư nhân, cũng như tất cả các doanh nghiệp khác, từ khi thành lập công ty đã phải trải qua nhiều bước thăng trầm. Để tìm hiểu kỹ hơn về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua em xin trình bày đề tài: “ Phân tích Thống kê tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thương mại và dịch vụ vận tải Phú Sơn”.
Kết cấu của bài gồm có:
- Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
- Chương 2 : HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VẬN TẢI.
- Chương 3 : PHÂN TÍCH THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2000-2006.
96 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1370 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Phân tích Thống kê tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thương mại và dịch vụ vận tải Phú Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động của các doanh nghiệp trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân phải có những bước chuyển đổi mạnh mẽ.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang bước vào xu thế toàn cầu hoá và cạnh tranh gay gắt. Nhiều doanh nghiệp nước ta còn nhiều bỡ ngỡ với. Để có thể đứng vững và phát triển lâu dài là nhiệm vụ được quan tâm hàng đầu của đất nước ta nói chung và tất cả các doanh nghiệp nói riêng. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường khắc nghiệt hiện nay thì phải xây dựng có hiệu quả. Do vậy đạt hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh phải có chiến lược kinh doanh phát triển điều kiện của mình. Đó là sử dụng hiệu quả nguồn lực của mình để nâng cao năng suất, chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành, nâng cao uy tín…nhằm tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Các doanh nghiệp phải kinh doanh có lợi nhuận và đạt lợi nhuận ngày càng cao càng tốt. Để làm được điều đó các nhà quản lý phải có các công cụ để quản lý tốt doanh nghiệp của mình mà trong đó phương pháp thống kê và tư duy thống kê là công cụ và tố chất không thể thiếu, đối với các nhà quản lý và các nhà điều hành doanh nghiệp. Chúng hỗ trợ cải tiến sản xuất kinh doanh. Trong những phương pháp thống kê đó thì thống kê hiệu quả sản xuất kinh doanh là một công cụ quan trọng để các nhà quản trị thực hiện chức năng của mình. Việc nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không những cho biết việc sản xuất kinh doanh đạt được ở trình độ nào mà còn cho phép các nhà quản trị phân tích tìm ra các nhân tố để từ đó đưa ra biện pháp thích hợp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Khi nền kinh tế đã phát triển, các mối quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Điểu đó, đòi hỏi việc thu thập và xử lý thông tin ngày càng nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Có như vậy mới đáp ứng được việc nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Đồng thời, việc đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng cần phải được tăng cường và đổi mới một cách phù hợp. Có như vậy mới phản ánh được những hoạt động sản xuất kinh doanh vốn rất phức tạp, đa dạng và năng động ở các doanh nghiệp một cách đầy đủ, chính xác và toàn diện.Thông tin thống kê có vai trò hết sức quan trọng đối với việc quản lý doanh nghiệp và đánh giá tổng hợp kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Việc quyết định sự ra đời, phát triển hay phá sản của một doanh nghiệp cần phải có những thông tin thống kê đầy đủ, chính xác và khoa học.
Là một doanh nghiệp tư nhân, cũng như tất cả các doanh nghiệp khác, từ khi thành lập công ty đã phải trải qua nhiều bước thăng trầm. Để tìm hiểu kỹ hơn về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua em xin trình bày đề tài: “ Phân tích Thống kê tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thương mại và dịch vụ vận tải Phú Sơn”.
Kết cấu của bài gồm có:
- Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
- Chương 2 : HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ NGHIÊN CỨU HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ VẬN TẢI.
- Chương 3 : PHÂN TÍCH THỐNG KÊ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2000-2006.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
1.1. Những vấn đề chung về hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.1. Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.1.1. Hoạt động sản xuất
Hoạt động sản xuất là dùng các yếu tố đầu vào kết hợp với nguồn lực sản xuất và các yếu tố tác dụng bên ngoài khác để tạo ra sản phẩm.
Đặc điểm của hoạt động sản xuất:
- Là hoạt động có mục đích cụ thể. Có thể thực hiện được và có thể làm thay thế được.
- Hoạt động sản xuất ở đây gồm hoạt động sản xuất ra những sản phẩm vật chất và những sản phẩm dịch vụ. Để thoả mãn nhu cầu chung của toàn xã hội nói chung và từng cá nhân nói riêng.
Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có rất nhiều những sản phẩm đang được tiêu dùng trên thị trường nhưng lại không được tính vào sản phẩm của hoạt động sản xuất. Sở dĩ là vì những loại sản phẩm trên thuộc sản phẩm bất hợp pháp, các hoạt động dịch vụ tự sản tự tiêu.
* Hiểu rõ được hoạt động sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng, như:
- Giúp ta phân định được hoạt động nào là hoạt động sản xuất và hoạt độngnào là hoạt động nào là hoạt động phi sản xuất;
- Xác định được chi phi nào thì được tính vào chi phí sản xuất và chi phí nào được tính vào chi phí tiêu dùng trung gian, chi phí nào tính vào chi phí tiêu dùng cuối cùng;
- Xác định được kết quả sản xuất sẽ gồm những loại kết quả nào.
1.1.1.2. Hoạt động kinh doanh
Hoạt động kinh doanh là những việc mà lao động đang tham gia để hoàn thành nhằm thoả mãn nhu cầu của các đối tượng tiêu dung không tự làm được hoặc không đủ điều kiện tự làm được. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với hoạt động tự túc, tự phục vụ và hoạt động phi kinh doanh ở chỗ động cơ của hoạt động kinh doanh hay dịch vụ trong kinh doanh phải để tiêu dung mục đích. Động cơ của sản xuất tự túc hoặc tự phục vụ phi kinh doanh là nhằm thoả mãn nhu cầu của chính người sản xuất hoặc cộng đồng.
Tự sản xuất tự phục vụ phi kinh doanh tuy có bỏ vốn và lao động vào hoạt động, nhưng không hạch toán chi phí sản xuất hoặc chi phí dịch vụ không tính lỗ lãi. Trong hoạt động kinh doanh đều có phải tính chi phí cho hoạt động, giá trị kết quả thu lại của hoạt động sau khi hoàn thành cũng phải hạch toán lỗ lãi.
Sản phẩm của hoạt động kinh doanh dù là sản phẩm vật chất hay sản phẩm tinh thần, có thể cân đong đo đếm được hay không thì đều là hang hoá trao đổi trên thị trường. Người sản xuất luôn có trách nhiệm với hàng hoá làm ra. Còn sản phẩm tự túc phi kinh doanh thì chỉ thoả mãn chính cho người làm ra các sản phẩm đó để tự tiêu dùng thưởng thức.
Vậy hoạt động sản xuất kinh doanh là những hoạt động sử dụng kết hợp các yếu tố đầu vào tạo ra sản phẩm và cung cấp cho các đối tượng sản xuất và tiêu dùng trong và ngoài nước nhằm mang lại thu nhập cho tập thể lao động và doanh nghiệp, là hoạt động có mục đích nhằm tạo ra sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ để thoả mãn mọi nhu cầu của cá nhân và toàn thể xã hội. Kết quả thu được ở đây là những hàng hoá cá nhân và hàng hoá công cộng.
1.1.2. Ý nghĩa và vai trò của hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.2.1. Ý nghĩa của HĐSXKD
Sự ra đời và phát triển của hoạt động sản xuất kinh doanh đã kéo theo sự phát triển nhanh chóng của thế giới loài người. Hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra các sản phẩm hữu ích do lao động công nghiệp được biểu hiện dưới hai hình thái là sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch vụ. Những sản phẩm đó sau khi làm xong được chuyển sang khâu tiêu thụ, trở thành hàng hoá.
Hoạt động sản xuất kinh doanh luôn thúc đẩy sản xuất, mở rộng tiêu dùng tạo điều kiện cho tích luỹ vốn phát triển sản xuất, phát triển kinh tế khoa học xã hội. Mở rộng giao lưu, trao đổi hàng hoá tạo ra phân công lao động xã hội. Tạo ra các cơ cấu cân bằng kinh tế xã hội. Hoạt động tự túc phi kinh doanh luôn tự thoả mãn các nhu cầu bản than người sản xuất, sản xuất kém phát triển, không có thị trường trao đổi, không cần các thông tin kinh tế, khoa học kỹ thuật, tôn sung kinh nghiệm.
Hoạt động sản xuất kinh doanh không thể thiếu được trong cuộc sống. Vì nếu thiếu nó thì cuộc sống con người không thể tiếp tục tồn tại và phát triển được. Với nguồn lực có hạn, thế giới tự nhiên không thể nào đủ nuôi sống cả nhân loại cùng sự tăng lên nhanh chóng và không ngừng cả về số lượng và cả về nhu cầu. Ngày nay hoạt động sản xuất kinh doanh đã gắn bó chặt chẽ với cuộc sống con người, có thể nói là mọi hoạt động sinh hoạt của con người hiện nay đều cần có những sản phẩm được tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh đã trở thành nhu cầu tất yếu và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cuộc sống con người.
Hoạt động sản xuất kinh doanh rất quan trọng và có tác dụng rất to lớn đối với nền kinh tế quốc dân của quốc gia, đặc biệt thúc đẩy quá trình phát triển và hội nhập giữa các vùng, miền, khu vực, quốc gia. Hoạt động sản xuất kinh doanh phục vụ tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội : sinh hoạt, sản xuất, giải trí … nó phản ánh trình độ phát triển của một đất nước. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật kèm theo đó là nhu cầu của con người ngày một tăng va sự công lao động đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia thì hoạt động sản xuất kinh doanh là sự cần thiết và đòi hỏi khách quan không thể thiếu trong cuộc sống của con người.
1.1.2.2. Vai trò của HĐSXKD
Hoạt động sản xuất kinh doanh có vai trò rất quan trọng trong cuộc sống cũng như trong xã hội. Hoạt động sản xuất kinh doanh có những vai trò chính sau đây:
- Thứ nhất, hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm tiêu dùng cho xã hội, thoả mãn nhu cầu của xã hội.
- Thứ hai, giúp nâng cao mức sống dân cư thông qua việc thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của dân cư.
- Thứ ba, thúc đẩy áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, thúc đẩy nhu cầu, đảm bảo người tiêu dùng được sử dụng những hàng hoá tốt, văn minh, hiện đại.
- Thứ tư, thực hiện dự trữ các yếu tố sản xuất (vật tư, kỹ thuật) và hàng hoá tiêu dùng, đảm bảo cho doanh nghiệp sản xuất và người tiêu dùng giảm được dự trữ lớn ở nơi sản xuất và dự trữ cá nhân. Dự trữ hàng hoá trong khâu lưu thông tăng, đảm bảo linh hoạt và lưu chuyển nhanh, tránh ứ đọng nhiều ở khâu dự trữ.
- Thứ năm, hoạt động kinh doanh đảm bảo điều hoà cung-cầu, làm đắt lên ở những nơi có nguồn hàng rẻ, nhiều, phong phú và làm rẻ đi hàng hoá ở nơi đắt, ít, nghèo nàn. Trong nền kinh tế, hoạt động kinh doanh thúc đẩy việc sử dụng nguồn lực và phân bổ nguồn lực một cách hợp lý.
- Thứ sáu, nhờ áp dụng ngày càng nhiều các dịch vụ trong hoạt động kinh doanh hàng hoá, sẽ đảm bảo vật tư, kỹ thuật ngày càng kịp thời, thuận tiện và văn minh cho các các doanh nghiệp sản xuất, tiêu dùng, đảm bảo ngày càng nhiều hàng hoá tốt, hiện đại văn minh với dịch vụ thuận lợi cho tiêu dùng, giải phóng con người ra khỏi những công việc không tên trong gia đình, doanh nghiệp, cơ quan vừa nặng nề, phiền phức và mất nhiều thời gian
1.1.3. Các hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh
1.1.3.1. Căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh
Căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh hoạt động sản xuất kinh doanh được chia thành:
- Hoạt động kinh doanh sản xuất vật chất: như các hoạt động trong ngành công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp …
- Hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ phục vụ các nhu cầu dân sinh như: hoạt động thương nghiệp, hoạt động kinh doanh vận tải hành khách, hoạt động y tế, du lịch … Dịch vụ phục vụ nhu cầu dân trí như: hoạt động giáo dục, văn hoá, nghệ thuật …
Cách phân loại này giúp chia kinh doanh thành các ngành, các thông tin thu được từ các ngành cho phép nghiên cứu cơ cấu tổng sản phẩm quốc gia, tổng thu nhập quốc dân, nghiên cứu xu thế phát triển chung và của từng ngành.
1.1.3.2. Căn cứ vào đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh
Căn cứ vào đặc điểm của hoạt động sản xuất kinh doanh ta có :
- Hoạt động sản xuất kinh doanh chuyên nghiệp: là hoạt động kinh doanh về một ngành hàng, nhóm hàng cụ thể dựa trên cơ sở chuyên môn hoá của phân công xã lao động xã hội.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh tổng hợp là những hoạt động tổ chức kinh doanh đa dạng sản phẩm, đồng thời khép kín tất cả các khâu hoạt động trong kinh doanh đến tiêu thụ sản phẩm.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh không chuyên là những hoạt động được tổ chức kết hợp để sản xuất kinh doanh những mặt hàng hay dịch vụ khi có điều kiện hoạt động.
Mỗi hình thức hoạt động sản xuất kinh doanh đều có những mặt lợi và mặt hạn chế.
1.1.3.3. Theo hình thức sở hữu vốn kinh doanh
Theo hình thức sở hữu vốn kinh doanh hoạt động sản xuất kinh doanh được chia thành:
- Hoạt động sản xuất do nhà nước hay chính quyền địa phương cấp vốn. Ở nước ta, hoạt động này được tổ chức ngay từ những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và được coi là lực lượng chủ đạo của nền kinh tế. Hiện nay thì các loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh đang trong được dần được chuyển hoá do nhà nước ta đang tiến hành cổ phần hoá dần các công ty nhà nước.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh hỗn hợp do nhà nước và tư nhân cùng góp vốn, dựa trên cơ sở hai bên cũng có lợi, phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội. Loại hoạt động sản xuất kinh doanh này khác hoạt động sản xuất kinh doanh theo kiểu công tư hợp danh trước đây.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh kiểu tư nhân, do cá nhân tự bỏ vốn kinh doanh. Hoạt động này xuất hiện do nhu cầu đa dạng và cụ thể của tiêu dùng xã hội, đồng thời có thể huy động mọi nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra ta còn phân hoạt động sản xuất theo nhiều cách khác nữa chẳng hạn: phân theo quy mô của hoạt động sản xuất kinh doanh (căn cứ vào quy mô vốn kinh doanh), theo trình độ trang bị kỹ thuật (căn cứ vào vốn kỹ thuật công nghệ) …
1.2. Một số đặc điểm chủ yếu của hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại và dịch vụ vận tải
1.2.1. Hoạt động kinh doanh thương mại
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh thương mại
Kinh doanh thương mại là dùng tiền của công sức vào việc mua bán hàng hoá nhằm mục đích kiếm lợi. Muốn kinh doanh thương mại trước hết phải có vốn kinh doanh, thứ hai phải thực hiện hành vi buôn bán (thực hiện vai trò mua hàng nhưng không phải để dùng mà là để ván cho người khác), thứ ba là dùng vốn vào hoạt động kinh doanh đòi hỏi sau mỗi chu kỳ phải bảo toàn vốn và có lãi, có như vậy mới có thể mở rộng và phát triển kinh doanh. Ngược lại sẽ bị thua lỗ và dẫn tới phá sản.
1.2.1.2. Mục đích của hoạt động kinh doanh thương mại
- Về Lợi nhuận: lợi nhuận là mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên, cũng là nguồn động lực của kinh doanh. Muốn có lợi nhuận thì doanh thu bán hàng và dịch vụ phải lớn hơn chi phí kinh doanh. Muốn vậy cần phải chiếm được khách hàng, bán được nhiều hàng hoá và dịch vụ, bán nhanh và giảm các khoản chi phí có thể và không cần thiết., phải kinh doanh loại hàng phù hợp với nhu cầu, được khách hàng chấp nhận. Mức độ đạt được và kỳ vọng về lợi nhuận phụ thuộc vào loại hàng hoá và chất lượng của chúng, khối lượng và giá cả của hàng hoá bán được, chi phí kinh doanh và tốc độ tăng giảm chi phí kinh doanh.
- Về Thế lực: thế lực là một mục tiêu trong kinh doanh thương mại. Ngày càng có nhiều người cung ứng hàng hoá cạnh tranh trên thị trường, đòi hỏi người kinh doanh thương mại phải thu hút ngày càng nhiều khách hàng tương lai, không ngừng tăng doanh số bán hàng và dịch vụ, không ngừng mở rộng, phát triển mở rộng thị trường, phát triển thị phần của mình trên thị trường. Từ chỗ chen chân đến chiếm lĩnh và dần dần làm chủ thị trường. Thế lực phụ thuộc vào nguồn lực, tài năng của doanh nghiệp và phụ thuộc vào cơ chế quản lý của nhà nước trong từng giai đoạn.
- Về mục tiêu an toàn. Trong thị trường cạnh tranh đầy biến động, có nhiều loại rủi ro. Trong hoạt động kinh doanh vấn đề bảo toàn vốn và phát triển vốn để kinh doanh liên tục đòi hỏi phải đặt ra mục tiêu an toàn. Cần đa dạng hoá hoạt động kinh doanh: “trứng không bỏ hết trong một giỏ”. Phải có chi phí bảo hiểm, nhưng việc cân nhắc lợi hại, tầm nhìn xa trông rộng và bản lĩnh người ra quyết định luôn phải quán triệt mục tiêu an toàn để tránh rủi ro, thiệt hại cho kinh doanh.
1.2.1.3. Vai trò và tác dụng của hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại
- Kinh doanh thương mại là lĩnh vực hoạt động chuyên nghiệp trong kinh doanh hàng hoá, có vị trí trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng, là tiền đề để sản xuất, là hậu cần của sản xuất, là khâu không thể thiếu được trong quá trình tái sản xuất xã hội, là một dạng của hoạt động đầu tư, để thực hiện dịch vụ lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
- Kinh doanh thương mại có tác dụng nhiều mặt đối với lĩnh vực sản xuất vật chất và lĩnh vực tiêu dùng xã hội, cung ứng vật tư, hàng hoá cần thiết một cách đầy đủ, kịp thời, đồng bộ về chất lượng một cách thuận lợi với quy mô ngày càng mở rộng.
1.2.2. Hoạt động kinh doanh dịch vụ
1.2.2.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh dịch vụ
Kinh doanh dịch vụ là hoạt động cung ứng lao vụ, dịch vụ phục vụ nhu cầu sinh hoạt và đời sống cho dân cư cũng như những nhu cầu của sản xuất, kinh doanh toàn xã hội.
Hoạt động kinh doanh dịch vụ rất đa dạng, bao gồm các hoạt động kinh doanh bưu điện, vận tải, du lịch, may đo, sửa chữa, dịch vụ khoa học kỹ thuật, dịch vụ tư vấn, dịch vụ công cộng, vui chơi, giải trí, chụp ảnh, cho thuê, cắt tóc, giặt là …
1.2.2.2. Đặc điểm hoạt động kinh doanh dịch vụ
- Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thì hoạt động kinh doanh là chính, còn đối với các tổ chức kinh tế khác có hoạt động chính là sản xuất, kinh doanh mua bán hàng hoá… thì hoạt động dịch vụ chỉ mang tính phụ trợ, bổ sung cho hoạt động kinh doanh chính. Sản phẩm của hoạt động kinh doanh dịch vụ tuyệt đại bộ phận là không mang hình thái vật chất, quá trình sản xuất, tiêu thụ và phục vụ thường gắn liền nhau, không thể tách rời. Do đó, khó có thể phân biệt một cách rõ ràng chi phí từng khâu sản xuất và tiêu thụ. Tuỳ theo từng hoạt động dịch vụ đặc thù để có thể xác định nội dung chi phí phù hợp cấu thành nên giá thành sản phẩm. Có những loại hình dịch vụ, để hoàn thành được một sản phẩm phải bỏ ra nhiều loại chi phí khác nhau để quảng cáo như quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng, in ấn giấy mời, apphíc … nhưng đôi khi vẫn không hoàn thành được số sản phẩm như mong muốn, còn kết quả nếu có thì liên quan đến rất nhiều ngành được hưởng.
- Có những hoạt động mang tính chất kỹ thuật, hàng lượng chi phí về chất xám trong sản phẩm chiếm tỷ trọng cao, còn các chi phí về nguyên vật liệu và chi phí khác chiếm tỷ trọng không đáng kể. Sản phẩm dịch vụ hoàn thành không nhập kho thành phẩm, hàng hoá mà được tính là tiêu thụ ngay, do đó đối với những lao vụ, dịch vụ đã hoàn thành nhưng chưa ghi doanh thu thì chi phí cho những lao vụ, dịch vụ đó vẫn coi là chi phí của sản phẩm chưa hoàn thành. Tuy nhiên, các hoạt động dịch vụ thường không tính được chi phí sản phẩm dở dang. Bởi vậy, giá thành sản phẩm dịch vụ là thể hiện bằng tiền hao phí lao động sống cần thiết và lao động vật hoá tạo ra sản phẩm dịch vụ đã tiêu thụ (tức sản phẩm đã hoàn thành cho khách hàng và thu được tiền hoặc được quyền thu tiền).
- Trong quá trình kinh doanh dịch vụ, các doanh nghiệp sử dụng người lao động, tư liệu lao động và kỹ thuật cùng với một số vật liệu, nhiên liệu thích hợp ứng với từng loại hoạt động dịch vụ để tạo ra sản phẩm dịch vụ phục vụ khách hàng. Do đó, chi phí dịch vụ được phân chia thành chi phí trực tiếp và chi phí chung. Tuỳ theo từng loại hình hoạt động dịch vụ, nội dung chi phí trực tiếp và chi phí chung sẽ khác nhau. Đại bộ phận những vật liệu sử dụng trong kinh doanh dịch vụ là vật liệu phụ, phụ tùng thay thế, nhiên liệu …
- Với những doanh nghiệp kinh doanh nhiều loại hoạt động dịch vụ phải xác định rõ đối tượng tập hợp chi phí và đối tượng tính giá thành sản phẩm. Những chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động nào thì hạch toán trực tiếp cho hoạt động đó, những chi phí liên quan đến nhiều hoạt động phải tập hợp riêng để cuối kỳ phân bổ cho từng hoạt động theo tiêu chuẩn.
1.2.2.3. Các loại hình hoạt động kinh doanh dịch vụ
- Căn cứ vào tính chất của các hoạt động dịch vụ, người ta chia thành 2 loại hình dịch vụ:
- Dịch vụ có tính chất sản xuất như dịch vụ vận tải, may đo, sửa chữa …
- Dịch vụ không có tính chất sản xuất như dịch vụ hướng dẫn du lịch, dịch vụ giặt là, dịch vụ chụp ảnh, dịch vụ bưu điện…
1.2.3. Hoạt động kinh doanh vận tải
1.2.3.1. Khái niệm hoạt động kinh doanh vận tải
Vận tải là một ngành sản xuất ra sản phẩm dịch vụ, bao gồm các hoạt động vận tải hành khách và hàng hoá bằng các loại phương tiện khác nhau như: đường sắt, đường bộ, đường thuỷ, đường hàng không … và bao gồm cả các hoạt động phụ như bốc dỡ hàng hoá, hoạt động kho bãi, cho thuê phương tiện vận tải kèm người điều khiển.
Kinh doanh vận tải là ngành sản xuất vật chất đặc biệt, sản phẩm vận tải là quá trình di chuyển hàng hoá, hành khách từ nơi này đến nơi khác và được đo bằng các chỉ tiêu: tấn.km. hàng hoá vận chuyển và người.km. hành khách. Chỉ tiêu chung của ngành vận tải là tấn.km tính đổi.
1.2.3.2. Đặc điểm kinh doanh vận tải
Kinh doanh vận tải là một loại hình kinh doanh đặc biệt, khác với các hoạt động kinh doanh khác, và có những đặc điểm riêng. Hoạt động kinh doanh vận tải có những đặc điểm cơ bản sau:
- Thứ nhất, doanh nghiệp vận tải phải quản lý quá trình hoạt động theo nhiều khâu khác nhau như giao dịch, hợp đồng vận chuyển hàng hoá hoặc vận chuyển hành khách, thanh toán các hợp đồng, lập kế hoạch điều vận và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch vận chuyển.
- Thứ hai, kế hoạch tác nghiệp cần phải cụ thể hoá cho từng ngày, tuần, định kỳ ngắn…, lái xe và phương tiện làm việc chủ yếu ở bên ngoài doanh nghiệp. Do đó, quá trình quản lý phải rất cụ thể, phải xây dựng được chế độ vật chất rõ ràng, vận dụng cơ chế khoán hợp lý.
- Thứ ba, phương tiện vận tải là tài sản cố định chủ yếu và quan trọng không thể thiếu được trong quá trình thực hiện dịch vụ vận tải. Các phương tiện này bao gồm nhiều loại có tính năng, tác dụng, hiệu suất và mức tiêu hao nhiên liệu, năng lượng khác nhau. Điều này có ảnh hưởng lớn đến chi phí và doanh thu dịch vụ.
Việc khai thác vận chuyển phụ thuộc khá lớn vào cơ sở hạ tầng, đường sá, cầu, phà và điều kiện địa lý, khí hậu …
1.2.4. Các chức năng cơ bản của hoạt động kinh doanh thương mại dịch vụ vận tải
Hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ vận tải có những chức năng cơ bản sau:
- Thứ nhất là hoạt động này thực hiện lưu thông sản phẩm xã hội, cụ thể là lưu thông hàng hoá từ nguồn hàng tới nơi tiêu thụ. Hoạt động này do vận tải hàng hoá đảm nhiệm.
- Thứ hai là tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông. Đây là quá trình chuyển dịch sản phẩm (đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng).
- Thứ ba là thực hiện dự trữ hàng hoá. Trong quá trình vận chuyển hàng hoá cần có những điểm chờ, bởi vì quá trình vận chuyển hàng hoá không thể được vận chuyển liên tục mà cần có một nơi để lưu trữ chờ kế hoạch vận chuyển sắp tới, lúc này vận tải thực hiện chức năng dự trữ hàng hoá trong khâu lưu thông.
- Thứ tư là nâng cao hiệu quả của kinh doanh bằng cách thoả mãn kịp thời và thuận lợi các nhu cầu hàng hoá cho sản xuất tiêu dùng. Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng luôn cần có những luồng hàng từ nơi khác đến, và vận tải là ngành không thể thiếu được trong việc đáp ứng nhu cầu này của nhà sản xuất cũng như dân cư.
- Thứ năm, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng xã hội phát triển, thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ trong sản xuất với giá cả thích hợp. Vận tải giúp cho sự lưu thông hàng hoá được dễ dàng và thuận lợi, tạo ra sự giao lưu và trao đổi lẫn nhau giữa các vùng, qua đó vận tải thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật.
- Thứ sáu, phát triển hoạt động dịch vụ khách hàng kịp thời, thuận lợi, văn minh. Cùng với việc hỗ trợ quá trình giao lưu học hỏi kinh nghiệm giữa các vùng thì vận tải cũng phát triển được hoạt động dịch vụ khách hàng theo kịp sự phát triển của xã hội.
- Thứ bảy, hoạt động này làm giảm chi phí kinh doanh, bảo toàn phát triển vốn kinh doanh. Vận tải giúp lưu thông hàng hoá, đưa hàng hoá từ nơi có nhiều, giá rẻ đến nơi có ít, giá đắt hơn. Qua đó vận tải giúp giảm chi phí kinh doanh bảo toàn vốn kinh doanh.
1.3. Tổng quan về công công ty
1.3.1. Quá trình hình thành và phát triển
1.3.1.1. Quá trình thành lập
Công ty TNHH Thương mại và dịch vụ Vận tải Phú Sơn tiền thân là công ty TNHH Vận tải Phú Sơn được thành lập từ năm 1998.
Công Ty được Sở Kế hoạch và đầu tư TP Hà Nội cấp phép thành lập từ tháng 6 năm 1998 theo quyết định số 0102007279 QĐ/SKHĐT-Hà Nội, có tên giao dịch là “PHU SON TRANSPORT AND TRADING COMPANY LIMITTED”, tên viết tắt là : “PHU SON .,LTD”, với nhiệm vụ chính là vận chuyển hàng hoá, máy móc, thiết bị sản xuất, nguyên vật liệu, đại lý mua bán nguyên vật liệu. Văn phòng giao dịch tại 192 Nguyễn Khang - Cầu Giấy – Hà Nội, bãi xe và kho tại xã Hoàng Liệt – Thanh Trì – Hoàng Mai – Hà Nội. Chi nhánh tại thành phố thành phố Hồ Chí Minh : 51/13/Tân Kỳ, Tân Quý, Phường 16 quận Tân Bình thành phố thành phố Hồ Chí Minh,ngoài ra còn các chi nhánh khác : Trạm đại diện tại thành phố Đà Nẵng, trạm đại diện tại thành phố Vinh, trạm đại diện tại cửa khẩu Tân Thanh- Lạng Sơn..
1.3.1.2. Quá trình phát triển
Từ những năm đầu thành lập, công ty đã phát triển rất nhanh, doanh thu tăng nhanh qua các năm và ngày càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường.
Nhờ chính sách mở cửa của nhà nước qua những năm qua đã tạo cơ hội cho việc phát triển kinh tế trong lĩnh vực vận tải hành khách ngày càng được mở rộng. Nhờ Vận tải phát triển với tốc độ khá nhanh, trong giai đoạn 2000-2002, lĩnh vực này phát triển với tốc độ cao, đạt 30-40%/năm. Trong năm 2004 do biến động của thị trường quốc tế và trong nước, do yêu cầu phát triển của doanh nghiệp công công ty đã quyết định tăng hợp nhất với cô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2.doc