Đề tài Phân tích một số đặc trưng ngữ nghĩa - Ngữ dụng và hiệu lực lập luận của một vài trợ từ tiêu biểu

Trong tiếng Việt có một nhóm từ chuyên được dùng để nhấn mạnh vào ý nghĩa của một bộ phận nào đó trong phát ngôn (bộ phận này có thể là một từ hay một cụm từ) Chẳng hạn các từ như: "chính", "cả", "ngay", "đến", "những", "mỗi". Trong một số công trình nghiên cứu, nhóm từ trên được gọi bằng những cái tên khác nhau: trợ từ, tình thái từ, tiểu từ, từ đệm. và cách gọi phổ biến nhất là: trợ từ nhấn mạnh. Trợ từ nhấn mạnh thuộc vào số đối tượng còn ít được giới Việt ngữ học chú ý nghiên cứu. Đây là một loại từ có đặc điểm về ngữ nghĩa rất phức tạp, khó nắm bắt, khó phân tích. Nghĩa của một từ nhấn mạnh không thuộc vào nghĩa từ vựng, cũng không thuộc vào nghĩa ngữ pháp mà gắn với thái độ chủ quan, gắn với cách đánh giá của chủ thể phát ngôn. Nghĩa của trợ từ lại chỉ có thể phân tích được trong văn cảnh cụ thể. Những đặc điểm đó khiến cho các nhà Việt ngữ học khi nghiên cứu trợ từ nhấn mạnh nhấn mạnh có những đánh giá khác nhau. Trong quá trình học tập ở trường, chúng tôi cũng muốn đi sâu vào tìm hiểu một phần rất nhỏ trong vốn từ loại tiếng Việt: nghiên cứu ngữ nghĩa - chức năng của trợ từ nhấn mạnh.

 

doc53 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Phân tích một số đặc trưng ngữ nghĩa - Ngữ dụng và hiệu lực lập luận của một vài trợ từ tiêu biểu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu Trong tiếng Việt có một nhóm từ chuyên được dùng để nhấn mạnh vào ý nghĩa của một bộ phận nào đó trong phát ngôn (bộ phận này có thể là một từ hay một cụm từ) Chẳng hạn các từ như: "chính", "cả", "ngay", "đến", "những", "mỗi"... Trong một số công trình nghiên cứu, nhóm từ trên được gọi bằng những cái tên khác nhau: trợ từ, tình thái từ, tiểu từ, từ đệm... và cách gọi phổ biến nhất là: trợ từ nhấn mạnh. Trợ từ nhấn mạnh thuộc vào số đối tượng còn ít được giới Việt ngữ học chú ý nghiên cứu. Đây là một loại từ có đặc điểm về ngữ nghĩa rất phức tạp, khó nắm bắt, khó phân tích. Nghĩa của một từ nhấn mạnh không thuộc vào nghĩa từ vựng, cũng không thuộc vào nghĩa ngữ pháp mà gắn với thái độ chủ quan, gắn với cách đánh giá của chủ thể phát ngôn. Nghĩa của trợ từ lại chỉ có thể phân tích được trong văn cảnh cụ thể. Những đặc điểm đó khiến cho các nhà Việt ngữ học khi nghiên cứu trợ từ nhấn mạnh nhấn mạnh có những đánh giá khác nhau. Trong quá trình học tập ở trường, chúng tôi cũng muốn đi sâu vào tìm hiểu một phần rất nhỏ trong vốn từ loại tiếng Việt: nghiên cứu ngữ nghĩa - chức năng của trợ từ nhấn mạnh. II. Mục đích 1. Về kiến thức Trong khóa luận này chúng tôi muốn hệ thống hóa, củng cố kiến thức ngôn ngữ đã học trong bốn năm đại học, đi sâu hơn vào phần từ loại, đặc biệt là trợ từ nhấn mạnh. Khi tìm hiểu trợ từ nhấn mạnh chúng tôi tập trung vào một số vấn đề chính sau: - Tìm hiểu và xây dựng khái niệm trợ từ nhấn mạnh - Tìm hiểu hoạt động ngữ pháp và đặc trưng ngữ nghĩa - Phân tích vai trò của trợ từ nhấn mạnh trong lập luận. 2. Về kĩ năng - Chuẩn bị cho việc giảng dạy “ Tiếng Việt” và “Văn học” ở trường phổ thông. - Bước đầu làm quen với việc nghiên cứu khoa học, hình thành những kĩ năng, kĩ xảo, những thao tác cần thiết trong học tập và nghiên cứu, nhất là nghiên cứu về ngôn ngữ. III. Phạm vi đề tài Do đặc điểm ngữ nghĩa và ngữ pháp riêng biệt của trợ từ nhấn mạnh, trong khóa luận này chúng tôi về cơ bản vẫn đi vào những vấn đề chung, chỉ dừng lại ở việc phân tích một số đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ dụng và hiệu lực lập luận của một vài trợ từ tiêu biểu chứ chưa có điều kiện khảo sát hết các đơn vị trợ từ nhấn mạnh. IV. Phương pháp tiến hành Trong quá trình tìm hiểu và phân tích các đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của trợ từ nhấn mạnh, chúng tôi chủ yếu vận dụng phương pháp miêu tả, phân tích các ngữ liệu có được thông qua khảo sát tư liệu. Các thủ pháp được thực hiện trong luận văn là: - Thống kê các kiểu phát ngôn trong phạm vi tư liệu tham khảo. - Đối chiếu, so sánh để tìm ra những nét đồng nhất và khác biệt giữa các trợ từ nhấn mạnh trong ngữ cảnh cụ thể. - Phân tích nghĩa của các phát ngôn ở hai trường hợp: xuất hiện trợ từ nhấn mạnh và thiếu vắng trợ từ nhấn mạnh. Trên cơ sở đó tìm hiểu các đặc trưng ngữ nghĩa riêng của từng đơn vị và đặc biệt là là vai trò tác tử lập luận của nó. Phần nội dung Chương 1 lịch sử nghiên cứu và khái niệm “Trợ từ nhấn mạnh” A. Vài nét về lịch sử nghiên cứu trợ từ nhấn mạnh Lâu nay, các nhà Việt ngữ khi nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, cụ thể hơn nữa là các từ loại tiếng Việt ít nhiều có đề cập đến trợ từ nói chung và trợ từ nhấn mạnh nói riêng. Theo dõi tình hình nghiên cứu về trợ từ nhấn mạnh, chúng ta thấy rõ một điều: đây là một trong những vấn đề rất phức tạp của từ loại tiếng Việt. ở đây có cả những lý do thuộc về bản chất của đối tượng nghiên cứu, cả những lý do thuộc về phương pháp nghiên cứu. Do đó xung quanh vấn đề này có rất nhiều ý kiến tranh luận, và tuỳ theo quan điểm, phương pháp nghiên cứu mỗi tác giả nhìn nhận và lý giải một cách khác nhau. Về quy mô, việc khảo sát trợ từ nhấn mạnh chưa trở thành đối tượng của công trình chuyên biệt. Trong hầu hết các công trình viết về ngữ pháp tiếng Việt, việc nghiên cứu trợ từ nhấn mạnh thường chỉ dừng lại ở mức dộ giới thiệu khái quát đặc điểm và ý nghĩa cơ bản của một số trợ từ nhấn mạnh tiêu biểu. Trong mối tương quan chung có thể thấy rõ tác giả Phạm Hùng Việt xem vấn đề đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng Việt là một trong những điều tâm huyết, vì vậy tác giả đã đưa ra nhiều ý kiến về vấn đề này. Nhìn chung, có thể thấy rằng, bên cạnh những điểm chưa thống nhất, các nhà nghiên cứu khi bàn về trợ từ nhấn mạnh đã bước đầu nhất trí với nhau ở một số điểm sau: I. Những điểm thống nhất 1. ý nghĩa khái quát Trong các công trình nghiên cứu về trợ từ nhấn mạnh, việc xác định ý nghĩa khái quát là một trong những vấn đề có sự thống nhất giữa những nhà nghiên cứu. Hầu hết các tác giả đều cho rằng trợ từ nhấn mạnh không biểu thị đối tượng phản ánh trong tư duy (như danh từ, động từ, tính từ) mà biểu hiện ý nghĩa quan hệ, thái độ của chủ thể phát ngôn với nội dung phản ánh, hoặc biểu thị quan hệ giữa phát ngôn với nội dung phản ánh. ý nghĩa quan hệ của trợ từ là ý nghĩa quan hệ có tính tình thái. Cụ thể là trợ từ nhấn mạnh dùng trong câu biểu thị ý nghĩa tình thái bằng cách nhấn mạnh vào từ, kết hợp từ... có nội dung phản ánh liên quan đến thực tại mà người nói muốn lưu ý người nghe. Hữu Quỳnh cho rằng đây là nhóm từ "chuyên dùng để nhấn mạnh ý nghĩa của từ và của câu, hoặc dùng để biểu thị thái độ của người nói" [16, 94]. Lê Cận - Phan Thiều trong “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt” cũng có nhận xét tương tự: “Đây là lớp tình thái từ đánh dấu thái độ, thường đặt trước các lớp từ cơ bản dùng để nhấn mạnh vào ý của câu” [4, 194]. Cũng đề xuất ý kiến có phần giống hai ý kiến trên, tác giả Diệp Quang Ban trong “Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông”- tập I, cũng cho rằng: “Trợ từ là những từ dùng để nhấn mạnh vào một từ, một cụm từ, một câu nào đó mà nó đi kèm” [1, 152]. Ngoài ra, thống nhất với quan điểm này còn có ý kiến của các tác giả Đinh Văn Đức, Nguyễn Anh Quế, Lê Biên, Hoàng Văn Thung. Đinh văn Đức cho trợ từ nhấn mạnh là các từ biểu đạt ý nghĩa tình thái với mục đích nhấn mạnh tăng cường. Theo Nguyễn Anh Quế: “... chúng tham gia vào cấu trúc hoặc để dạng thức hóa cấu trúc trong lời nói và biểu thị một tình thái nào đó” [15, 125-126]. Lê Biên trong “Từ loại tiếng Việt hiện đại” cho rằng: “ý nghĩa chung của trợ từ là gia tăng một sắc thái nghĩa (ý nghĩa phụ trợ) cho từ, ngữ hoặc một câu, một cấu trúc trên câu (đoạn văn), nhằm nhấn mạnh vào một nội dung cụ thể, một quan hệ cụ thể trong một phát ngôn. Trợ từ diễn đạt những mối quan hệ có tính chất bộ phận giữa người nói với nội dung phát ngôn, với từng bộ phận của phát ngôn” [3, 168]. Hoàng Văn Thung trong “Ngữ pháp tiếng Việt: - viết chung với Diệp Quang Ban cũng cho rằng: “Trợ từ dùng trong câu biểu thị ý nghĩa tình thái” [2, 144]. Tóm lại, bàn về ý nghĩa khái quát của trợ từ nhấn mạnh, các nhà nghiên cứu đều đi đến một nhận định chung là: đây là một nhóm từ có khả năng biểu thị thái độ của người nói. 2. Khả năng kết hợp Nghiên cứu trợ từ nhấn mạnh các tác giả đều có nhận định chung là trợ từ nhấn mạnh không có khả năng kết hợp riêng với các lớp từ khác (như thực từ và phần lớn hư từ), chúng chỉ được dùng trong câu với chức năng biểu thị các mối quan hệ có tính tình thái ở bậc câu và bậc văn bản (tuy về mặt nội dung thì có thể liên hệ với một từ, một cụm từ mà nó đi kèm hay cả câu). Do đó, trợ từ nhấn mạnh còn được một số tác giả gọi là từ kèm, từ đệm. 3. Chức năng cú pháp Nghiên cứu về trợ từ nhấn mạnh, vấn đề chức năng cú pháp cũng được các tác giả cơ bản thống nhất. Hữu Quỳnh cho rằng: “Giống như phó từ và từ nối, từ đệm (trợ từ nhấn mạnh) không có khả năng làm trung tâm của cụm từ, làm thành phần chủ ngữ hay vị ngữ của câu. Chúng chỉ dùng để đệm vào từ và câu, nếu được bỏ từ đệm trong cụm từ và câu thì cụm từ và câu vẫn không thay đổi kết cấu” [16, 94]. Lê Cận - Phan Thiều cũng cho rằng: “Khác với quan hệ từ, tình thái từ cũng không để dùng nối các đơn vị theo quan hệ nhất định, với tư cách là những công cụ ngữ pháp” [4,193]. Và sau đây là một số nhận định tương tự: - Không làm phần đề, phần thuyết của nòng cốt, cũng không làm chính tố, phụ tố của ngữ (Ngữ pháp tiếng Việt - 38). - Có thể lược bỏ mà không ảnh hưởng đến cấu trúc câu (Phan Mạnh Hùng - 102). - Không đảm nhận chức vụ cú pháp trong câu (Phạm Hùng Việt). Như vậy, do ý nghĩa khái quát và khả năng kết hợp chi phối, trợ từ nhấn mạnh chỉ đảm nhiệm vị trí phụ trong tổ chức thành phần câu. Cụ thể là chúng chỉ được dùng để đệm vào từ và câu, có thể lược bỏ mà không hề làm thay đổi kết cấu câu. Tuy thế, vai trò của vị trí nhấn mạnh về mặt ngữ nghĩa không kém phần quan trọng: Chúng biểu hiện một phần ý nghĩa của câu. Hơn nữa, chúng còn là yếu tố định hướng lập luận cho câu (x. chương II và chương III). 4. Vị trí trong phát ngôn Các nhà nghiên cứu đều nhất trí cho rằng các trợ từ nhấn mạnh bao giờ cũng đứng ở vị trí trước bộ phận cần nhấn mạnh. Chúng không có vị trí cố định ở trong câu. Nói khác đi, vị trí của trợ từ nhấn mạnh phụ thuộc vào vị trí của những từ mà nó có quan hệ. Các nhận định cụ thể: Hữu Quỳnh: “Từ đệm chủ yếu để nhấn mạnh sắc thái biểu cảm của từ và cụm từ đi sau nó”. Lê Cận - Phan Thiều dùng vị trí: “Đặt trước các lớp từ cơ bản” của trợ từ nhấn mạnh làm tiêu chí để phân biệt chung với nhóm trợ từ tình thái, là nhóm: “Đặt ở sau câu”. Lê Biên cũng dùng vị trí làm một tiêu chí để phân định trợ từ nhấn mạnh với trợ từ tình thái: trợ từ nhấn mạnh bao giờ cũng đứng ở vị trí trước bộ phận cần nhấn mạnh; còn trợ từ tình thái có vị trí linh hoạt hơn: có thể xuất hiện ở đầu các phát ngôn, cuối các phát ngôn, lại có những trợ từ tình thái xuất hiện ở cả đầu và cuối phát ngôn. Phan Mạnh Hùng: “Về mặt hình thái, tiểu từ nhấn mạnh (trợ từ) được đặc trưng ở chỗ vị trí của chúng ở trong câu được thay đổi đồng thời với sự thay đổi của vị trí từ được nhấn mạnh, và sự lược bỏ chúng phụ thuộc vào từ này hay khác trong câu bị lược bỏ. Các tiểu từ tình thái được đặc trưng ở chỗ vị trí của chúng ở trong câu không thay đổi, theo sự thay đổi vị trí của các từ khác, và khả năng lược bỏ của chúng không liên quan đến sự lược bỏ của các từ này hay khác trong câu" [32, 33]. Lê Đông - Hùng Việt: "Trợ từ nhấn mạnh trực tiếp nhấn mạnh vào các thành phần đi sau nó, thành phần mà nó phụ thuộc vào về mặt ngữ pháp" [10, 14]. Tóm lại, các nhà nghiên cứu khi bàn về vị trí của trợ từ nhấn mạnh trong phát ngôn đều đi đến thống nhất. Chính sự thống nhất này đã khiến nhiều tác giả lấy đó là một trong những tiêu chí để phân biệt trợ từ nhấn mạnh và trợ từ tình thái là hai tiểu loại của trợ từ nói chung, như đã nói ở trên. II. Những điểm chưa thống nhất 1. Về tên gọi Từ những năm 1960 trở lại đây, nhiều tác giả đã chú ý đến cả nhóm trợ từ phụ cho từ và cụm từ. Trong công trình của họ trợ từ tiếng Việt thường được phân thành hai loại lớn: 1- Trợ từ tình thái 2- Trợ từ nhấn mạnh Như vậy, trợ từ nhấn mạnh cùng với trợ từ tình thái là hai tiểu loại của trợ từ. Lâu nay, trợ từ nói chung và trợ từ nhấn mạnh nói riêng được các tác giả dùng những tên gọi khác nhau để biểu hiện. Về tên gọi, trợ từ nói chung, trong các công trình nghiên cứu xưa nay được các tác giả gọi bằng: - Ngữ khí từ: Cách gọi của Nguyễn Kim Thản. - Từ đệm : Cách gọi của Hữu Quỳnh, Đái Xuân Ninh. - Tiểu từ : Cách gọi của Phan Mạnh Hùng, Hoàng Văn Thung. - Trợ từ : Cách gọi của "Ngữ pháp tiếng Việt", Diệp Quang Ban, Hoàng Phê, Phạm Hùng Việt. Về trợ từ nhấn mạnh nói riêng được gọi bằng: - Từ đệm cho từ, cụm từ: Hữu Quỳnh. - Tiểu từ nhấn mạnh: Phan Mạnh Hùng. - Trợ từ: cách gọi của Đinh Văn Đức, Nguyễn Anh Quế, Hoàng Văn Thung - Trợ từ nhấn mạnh: Lê Biên, Hoàng Phê. - Trợ từ bộ phận câu : Phạm Hùng Việt. Như vậy, trong số tài liệu mà chúng tôi có điều kiện tham khảo đã có đến năm tên gọi khác nhau liên quan đến trợ từ nhấn mạnh. Điều này phần nào phản ánh các quan niệm khác nhau và các định hướng khác nhau của các tác giả về đối tượng nghiên cứu này. Trong luận văn này chúng tôi dùng theo thuật ngữ "trợ từ nhấn mạnh", là thuật ngữ mà các nhà nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt về sau này sử dụng nhiều. 2. Về số lượng trợ từ nhấn mạnh 2.1. Số lượng các trợ từ nói chung Sở dĩ chúng tôi phải nêu số lượng của các trợ từ nói chung bởi lẽ các tác giả khi đưa ra một danh sách trợ từ thường không phân định cụ thể đâu là trợ từ nhấn mạnh, đâu là trợ từ tình thái, hoặc nếu có thì không có sự thống nhất rõ ràng về tiêu chí dẫn đến sự khác biệt hoặc chồng chéo. Cho nên trước khi nêu cụ thể về số lượng trợ từ nhấn mạnh chúng tôi sẽ điểm qua các ý kiến về danh sách trợ từ nói chung. Dựa trên cơ sở về ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp, chức năng cú pháp của trợ từ tiếng Việt (như đã nêu ở mục I) ở một số công trình, các tác giả đã đưa ra một danh sách các trợ từ tiếng Việt. Trong công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Kim Thản đã đưa ra danh sách gồm 37 ngữ khí từ (= trợ từ ) sau đây: - à, ư, nhỉ, hả (hở, hử), chứ, chăng, chắc, hẳn, phỏng, ru, đi, thôi, nào, với, nhé, thay. - ạ, kia (cơ), vậy, mà, đâu, đấy, đây, thế, ấy, này, nào. - cái, chính, đích, những, đến, lấy, ngay, ngay cả, cả, tận [17, 443-425]. Nguyễn Anh Quế trong “Hư từ trong tiếng Việt hiện đại” đã đưa ra số lượng 28 trợ từ và ngữ khí từ gồm: - Trợ từ: đích, chính, tự, ngay, cả, đến. - Ngữ khí từ: à, ư, nhỉ, chứ, chăng, hả(hở, hử), đi đã, thôi, nào, với, thay, ạ, kia (cơ), vậy, nhé, mà, đây, đấy, này, ấy, đâu [15, 216-219]. Phạm Hùng Việt đã thống kê “Từ điển tiếng Việt” và đưa ra con số 100 đơn vị chú là tr (trợ từ hay tổ hợp trợ từ). Danh sách trợ từ của "Từ điển tiếng Việt" [19]. (Theo thống kê của Phạm Hùng Việt) 1. a 26. đến 51. mất 76. riêng 2. à 27. đi 52. mô tê 77. rõ 3. ạ 28. đích 53. mốc xì 78. rồi 4. ấy 29. đích thị 54. mốc 79. ru 5. cả 30. đó 55. mỗi 80. sao 6. cái 31. độc 56. mới 81. sất 7. chắc 32. được 57. nà 82. sốt 8. chăng 33. gì 58. nào 83. ta 9. chẳng 34. hả 59. nào là 84. tá 10. chính 35. há 60. này 85. thật 11. cho 36. hẳn 61. ngay 86. thế 12. chứ 37. hè 62. nghe 87. thì 13. chứ lị(lại) 38. hén 63. nghen 88. thôi 14. có 39. hề1 64. nhá 89. tịnh 15. có 40. hề2 65. nhé 90. tịnh vô 16. cóc khô 41. hết 66. nhỉ 91. tớ 17. cơ 42. hỉ 67. nhớ 92. tới 18. cùng 43. hở 68. những 93. trời 19. cứ 44. hử 69. nữa 94. ư1 20. đa 45. khối 70. phàm 95. ư2 21. đã 46. kia 71. phỏng 96. và 22. đâu 47. là 72. qua 97. vào 23. đây 48. lần 73. quả 98. vậy 24. đấy 49. lấy 74. quái 99. vấy 25. đếch 50. mà 75. quyết 100. với Bản thân tác giả Phạm Hùng Việt sau khi nêu lên một số đặc điểm nhận diện trợ từ tiếng Việt đã đưa ra danh sách trợ từ gồm 77 đơn vị sau đây [20, 41-43]. TT Trợ từ Ví dụ điển hình 1 à( a, á) Anh mới về đấy à?/ Cứ để mãi thế này à?/ Muộn rồi à? 2 ạ Chào bác ạ!/ Thôi con ạ ta về đi. 3 ấy Anh ấy đang làm gì ấy./ Tôi ấy ư, Thế nào cũng được 4. cả Tiếng loa điếc cả tai./ Chẳng ai đến cả 5 cái Cái thằng đến là hư!/ Cái cây cam ấy nhiều quả lắm 6 chắc Muộn rồi chắc?/ Không còn ai đến nữa chắc? 7 chăng Chậm rồi chăng?/ Nhanh mấy chăng nữa cũng không kịp 8 chẳng Tưởng ai, chẳng hóa ra anh!/ Chẳng may khi anh lại chơi 9 chỉ Trong túi chỉ còn 5 đồng/ Mưa chỉ vài phút rồi tạnh 1o chính Chính nó đánh con tôi./ Chính ông cũng không biết việc này 11 cho Bài hát không hay gì cho lắm./ Ông thông cảm cho 12 chứ/ chớ Anh vẫn khoẻ đấy chứ./ Đã rẻ lại còn tốt nữa chứ! 13 có Ăn có một bát cơm./ Anh đừng có nghĩ như thế ! 14 cóc Chẳng biết cóc gì cả!/ Sợ cóc gì! 15 cơ ở đây vui lắm cơ!/ Việc gì cơ?/ Tôi cần chiếc khóa cơ. 16 cứ Nói cứ như thật ấy!/ Trời ở đây cứ xanh ngăn ngắt một màu 17 đã Trông đã đẹp chưa kìa!/ Đã chắc gì nó nghe mà nói! 18 đâu Không phải thế đâu./ Chẳng ai biết đâu. 19 đây Chào mọi người, tôi đi đây!/ Chắc có việc gì rồi đây. 20 đấy Cẩn thận kẻo ngã đấy!/ Sự thật là như thế đấy. 21 đếch Biết đếch gì mà nói./ Sợ đếch gì ai! 22 đến Đồng hồ chậm đến nửa tiếng./ Đến ông ấy cũng chịu 23 đi Nhanh tay đi !/ Ai lại đi nói thế 24 đích (thị) Đây đích là nét chữ của anh ta./ Đích thị là như vậy 25 đó Câu chuyện là như vậy đó./ Đúng rồi đó 26 độc Phòng chỉ kê độc một chiếc giường/ Nhà có độc hai mẹ con 27 được Bệnh đã đỡ được phần nào./ Kết quả chưa được khả quan lắm 28 hả( hở, hử) Mới về hả!/ Làm gì mà vội thế hả!/ Xong chưa hả anh? 29 hẳn Mua hẳn hai chiêc áo một lúc./ Hẳn anh còn nhớ 30 hề Không hề lừa dối ai bao giờ./ Chẳng hề quên 31 hết Không biết gì hết./ Chẳng còn gì hết 32 khối Làm thế thì có mà xong khối!/ Họ có nghe mình khối ra ấy 33 kia Tôi nói là nói người khác kia./ Phải làm thế nào kia ? 34 là ở đây vui vui là/ Cô bé xinh ơi là xinh 35 lấy Chẳng chào hỏi nhau lấy một lời./ Cố mà ăn lấy lưng bát 36 mà Đã bảo rồi mà!/ Chờ một lát anh ấy về thôi mà 37 mãi Nhà ở mãi cuối thôn./ Chuyện trò mãi đến khuya 38 mất Nhanh lên kẻo muộn mất./ Tức quá đi mất 39 mốc Có kiếm được cái mốc gì đâu./ Chẳng còn xu mốc nào cả 40 mỗi Câu cả buổi được mỗi ngần ấy,/ Có mỗi mình nó ở lại 41 mới Câu chuyện mới cảm động làm sao!/ Cái câu này mới hay chứ 42 nào Đợi một lát đã nào./ Cứ để xem nào 43 này Nghe tôi nói đã này./ Cứ làm như thế này này 44 ngay Nhà ở ngay mặt phố./ Việc này ngay ông ấy cũng chịu 45 nhé (nhá, nhớ) Tôi đi nhé./ Có chuyện này hay lắm nhé./ Đáng đời nhé 46 nhỉ ở đây vui nhỉ./ Trông cũng được nhỉ 47 những Ăn những năm bát cơm./ Đường phố những người là người 48 nữa Chẳng biết ra sao nữa./ Đã rẻ lại tốt nữa 49 phàm Phàm việc gì lúc khởi đầu cũng khó 50 phỏng Tưởng còn bé lắm đấy phỏng?/ Mệt rồi phỏng? 51 qua Chẳng thiếu qua một thứ gì./ Không có qua một bóng người 52 quả Thật quả tôi không biết./ Ông ta nói quả không sai 53 quái Chẳng biết quái gì hết./ Cần quái gì 54 quyết Làm được chuyện đó quyết không phải là điều dễ dàng 55 riêng Mọi người đều giơ tay, riêng anh ta thì không 56 rõ Chạy ró nhanh./ Ăn nói rõ ra người có học 57 rồi Muộn mất rồi/ Trận mưa kéo dài đã hai tiếng rồi. 58 ru Máy chục năm rồi vẫn thế ru? / Sự đời cứ vậy mãi ru/ 59 sao Phong cảnh mới đẹp làm sao./ Giọng nói dễ thương sao 60 sất (sốt) Chẳng được việc gì sất./ Đừng lo nghĩ gì sất. 61 ta Bác quê ở đâu ta?/ Giỏi quá ta! 62 tận Nhà ở tận cuối xóm./ Đến tận nhà hỏi thăm 63 thay Vẻ vang thay những liệt sĩ đã hi sinh cho đất nước 64 thật Phong cảnh đẹp thật./ Đúng như vậy thật 65 thế Ai bảo anh biết thế ?/ Làm gì mà vui thế ! 66 thì Tôi thì tôi ngại gì./ Thì cũng đành vậy 67 thôi Cả đi lẫn về chỉ độ một ngày thôi/ Nói để biết vậy thôi 68 tịnh Dọc đường tinh không một ai./ Tịnh không hay biết gì 69 tổ Làm vậy chỉ tổ mất công thôi./ Tổ cho người ta ghét 70 tới Đồng hồ chậm tới nửa tiếng./ Vắng mặt tới mười mấy người 71 trời Đi ròng rã suốt mấy ngày trời./ Làm liên tục cả tháng trời 72 ư(1) Mai anh đi rồi ư? Làm anh như thế ư? Thật ư? 73 ư(2) Quá ư là luộm thuộm./ Việc tối ư là cần thiết 74 và Và rồi kết cục ra sao?/ Và cuối cùng anh ta cũng nghe ra 75 vào Pha cho ấm trà thật đặc vào./ Chơi lắm vào 76 vậy Thôi cũng đành vậy./ Anh đi đâu vậy?/ Nó nói ai vậy? 77 với Giúp tôi một tay với!/ Cho tôi gửi lời hỏi thăm chị ấy với Qua danh sách trợ từ của một số tác giả vừa nêu, có thể nhận thấy sự chênh lệch về số lượng trợ từ ở các danh sách là khá lớn. Một số trợ từ có ở tất cả mọi danh sách, một số khác thì không như vậy: ở danh sách này có, danh sách khác không. Sở dĩ có tình hình như vậy là do: - Tính phức tạp,đa dạng của đối tượng nghiên cứu - Cách nhìn nhận phân định đối tượng nghiên cứu ở từng tác giả có sự khác nhau. Sự chênh lệch này tất yếu dẫn tới sự chênh lệch về số lượng trợ từ nhấn mạnh giữa các công trình nghiên cứu. 2.2. Số lượng các trợ từ nhấn mạnh Việc xác định trợ từ nhấn mạnh chưa có sự thống nhất giữa các nhà nghiên cứu vì lý do chênh lệch số lượng trong danh sách trợ từ nói chung, như đã nêu ở trên, cộng với việc chưa có một tiêu chí chung phân biệt đâu là trợ từ nhấn mạnh, đâu là trợ từ tình thái. Do đó, có nhiều tác giả chỉ nêu số lượng trợ từ mà chưa chỉ ra các tiểu loại; nhiều tác giả đã chỉ đíchdanhnhưng chưa có sự thống nhất với các tác giả khác. Chúng tôi sẽ căn cứ vào “những điểm thống nhất” chung giữa các nhà nghiên cứu (đã trình bày ở mục I) để chỉ ra số lượng trợ từ nhấn mạnh. ở danh sách của Nguyễn Kim Thản, số lượng trợ từ nhấn mạnh gồm 10 đơn vị: cái, chính, đích, những, đến, lấy, ngay, ngay cả, cả, tận. Nguyễn Anh Quế đã đưa ra số lượng trợ từ nhấn mạnh là 6 đơn vị: đích, chính, tự, ngay, cả, đến. Trong “Ngữ pháp tiếng Việt”, Hoàng Văn Thung đã miêu tả một số lượng trợ từ nhấn mạnh lớn hơn, gồm 20 đơn vị: thì, ngay, đúng, đúng là, cả, những, mà, là, chính, đích, thật, thật ra (thực ra), nhất là, chỉ, chỉ là, đến, đến cả, đến nỗi, tự. Xuất phát từ chức năng của hai nhóm trợ từ: nhóm trợ từ tình thái luôn gắn với cả câu, nhóm trợ từ nhấn mạnh luôn gắn với một bộ phận của câu (một từ hay một cụm từ) tác giả Phạm Hùng Việt đã gọi nhóm thứ nhất là trợ từ câu, nhóm thứ hai là trợ từ bộ phận câu. Từ căn cứ đó tác giả nêu ra số lượng nhóm trợ từ bộ phận câu (= trợ từ nhấn mạnh) gồm có: cả, cái, chẳng, chỉ, chính, có, cóc, cứ, đã, đếch, đến, đích, độc, được, hẳn, hề, lấy, mãi, mốc, mỗi, mới, ngay, những, phàm, quá, quả, quái, quyết, riêng, rõ, tận, thì, tịnh, tổ, tới, trời, ư, và (38 đơn vị). Cả 38 đơn vị này đều có trong danh sách trợ từ của "Từ điển tiếng Việt". Tiếp thu thành quả của những người đi trước, cùng với quá trình phân tích tư liệu, chúng tôi căn cứ vào hai điểm sau đây để phân biệt giữa trợ từ nhấn mạnh và trợ từ tình thái: - Xuất phát từ chức năng của hai nhóm trợ từ: nhóm trợ từ nhấn mạnh luôn gắn với một bộ phận của câu (một từ hoặc một cụm từ), còn nhóm trợ từ tình thái luôn gắn với cả câu. - Xuất phát từ vị trí của trợ từ trong phát ngôn: trợ từ nhấn mạnh bao giờ cũng đứng ở vị trí trước bộ phận cần nhấn mạnh và phụ thuộc chặt chẽ vào vị trí của từ, tổ hợp từ mà nó quan hệ; còn trợ từ tình thái có vị trí linh hoạt trong câu; có những trợ từ tình thái thường đứng đầu, có những trợ từ tình thái thường đứng cuối, lại có cả những trợ từ tình thái xuất hiện cả đầu câu và cả cuối phát ngôn. Vị trí linh hoạt của trợ từ tình thái phụ thuộc vào khả năng hoạt động của nó trong các kiểu câu khác nhau. Trên cơ sở hai điểm cơ bản đó, kết hợp với việc tham khảo danh sách nhóm trợ từ bộ phận câu của Phạm Hùng Việt và của một số tác giả khác, ý kiến của chúng tôi về số lượng các trợ từ nhấn mạnh như sau: - Về cơ bản sẽ giữ nguyên danh sách các trợ từ, bộ phận câu do Phạm Hùng Việt đưa ra, chỉ bớt trợ từ “trời”. Căn cứ vào vị trí cũng như chức năng của từ này trong phát ngôn, có thể đưa “trời” vào nhóm trợ từ tình thái. - Đưa thêm vào danh sách ba đơn vị đảm bảo đủ hai tiêu chí trên và cũng đã được một số nhà nghiên cứu xếp vào nhóm trợ từ nhấn mạnh: đúng, mà, là. Ví dụ: - Có đúng một người trên xe. - Tôi đã ra là tôi ra để dạy bảo chúng nó. - Anh mà làm thế rồi rối như canh hẹ. Như vậy, số lượng trợ từ nhấn mạnh sẽ là 40 đơn vị, gồm có; cả, cái, chẳng, chỉ, chính, có, các, cứ, đã, đếch, đến, đích, độc, đúng, được, hẳn, hề, là, lấy, mà, mãi, mốc, mỗi, mới, ngay, nhưng, phàm, qua, quái, quyết, riêng, rõ, tận thì, tịnh, tổ, tớ, ư, và. Trong danh sách 40 đơn vị này chúng tôi chưa kể đến những đơn vị khác cũng được coi là trợ từ nhấn mạnh phát sinh từ một trợ từ nhấn mạnh gốc hoặc do hai trợ từ nhấn mạnh kết hợp thành. Ví dụ: “Đến” còn có thể có: đến cả, đến nỗi, đến tận... “Ngay” còn có thể có: ngay cả, ngay đến, ngay chính... Trợ từ nói chung và trợ từ nhấn mạnh nói riêng, như đã nêu ở trên là một loại từ có đặc điểm rất phức tạp. Nghĩa của trợ từ không thuộc vào nghĩa từ vựng mà gắn với một thái độ chủ quan, gắn với cách đánh giá chủ quan của chủ thể phát ngôn. Nghĩa của trợ từ lại chỉ có thể phân tích được trong những văn cảnh cụ thể. Những đặc điểm đó khiến cho có sự chênh lệch về số lượng trợ từ nói chung và trợ từ nhấn mạnh nói riêng. Và con số 40 đơn vị của trợ từ nhấn mạnh mà chúng tôi đưa ra trong luận văn này cũng chưa thể nói là con số đầy đủ tuyệt đối. Đây là một vấn đề cần được các nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm để có một ý kiến thống nhất. 3. Vị trí của trợ từ nhấn mạnh trong hệ thống từ loại tiếng Việt Thời gian gần đây trong việc phân định từ loại tiếng Việt thành những lớp cụ thể nhiều nhà nghiên cứu có khuynh hướng khá thống nhất là căn cứ vào ba tiêu chuẩn sau: - ý nghĩa khái quát - Khả năng kết hợp - Chức năng cú pháp Căn cứ vào ba tiêu chuẩn này nhìn chung các tác giả đều phân định vốn từ tiếng Việt thành hai mảng lớn: thực từ và hư từ. Theo một cách hiểu chung, thực từ là từ có nghĩa thực (hoặc nghĩa từ vựng) về sự vật, hiện tượng nhất định, còn hư từ là những từ có nghĩa hư, loại nghĩa mà không thể nhờ nó làm sự liên kết với sự vật, hiện tượng; cho nên khi nói đến hư từ là nói đến vai trò ngữ pháp của hư từ (X. Ngữ pháp tiếng Việt, 1982, tr.68). Bên cạnh việc phân chia như vậy, một số tác giả còn phân ra một lớp từ khác độc lập so với thực từ và hư từ. Đó là lớp từ biểu thị mối quan hệ của người nói với nội dung phát ngôn và quan hệ của phát ngôn với thực tại. Nguyễn Kim Thản gọi đó là ngữ thái từ, Đinh Văn Đức gọ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUANVAN1.doc
Tài liệu liên quan