Trên đây cũng là những vần thơ kết thúc chuyến đi tìm sách ở Bắc Hà của
Phan Thúc Trực.
Là người làm công tác Đ ịa chí Thư viện tỉnh NghệAn lâu năm, tôi thật sự
cảm phục và trân trọng vềdanh nhân văn hoá Phan Thúc Trực, vềsức học và
đọc, tinh thông sửsách, nên đã thi đậu đầu một khoa thi Tiến sĩ -(Đình nguyên
-Thám hoa), xứng danh với tấm biển vua ban khi ông vinh qui bái tổ: “Khôi đa
sĩ” (Người đứng đầu trong nhiều nho sĩ). Với trọng trách thực hiện nhiệm vụ
vua giao cho đi tìm sách quí trong dân gian, ông x ứng đáng là người đi tiên
phong trong công tácsưu tầm sách và xây dựng đài ngọc -“Tàng thư lâu” -cho
cung đình Huếvà cho ngành Thư viện Việt Nam. Ông là tấm gương sáng cho
đội ngũ cán bộ thư vi ện học tập và noi theo. Cán bộ thư vi ện phải là những
người yêu quí sách và tuyên truyền đểmọi người dâncũng đều yêu quí sách,
bảo vệsách và năng đọc sách đểgóp phần chung tay xây dựng đất nước ta ngày
càng giàu mạnh, phát triển, sánh vai cùng các cường quốc trên thếgiới.
Phan Thúc Trực thật x ứng đáng với câu khen ngợi mà quan Tham tri
Trương Quốc Dụng đã dành cho: Một nhành mai trên c ả trăm đoá hoa
(Bách hoa đ ầu thượng nhất chi mai)./
11 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1121 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Phan Thúc Trực -Tấm gương cần mẫn sưu tầm sách quý, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phan Thúc Trực - tấm gương cần mẫn sưu tầm sách quý
Phan Thúc Trực (1808-1852), còn có tên là Phan Dưỡng Hạo, Phan Sư Mạnh, hiệu
là Hành Quí, Cẩm Đình, Dưỡng Hạo Hiên, quê ở làng Vân Tụ, huyện Đông Thành,
nay thuộc xã Khánh Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Ông sinh ra trong
một gia đình Nho học - dòng họ nhiều đời đậu Hương cống và làm quan triều Lê.
Thân sinh ông là Phan Vũ từng thi đậu ba khoa Tú tài đầu triều Nguyễn - Gia
Long, được gọi là Tú Mền, nhưng không ra làm quan mà ở nhà mở trường dạy học.
Ông đã đào tạo được nhiều học trò đậu đạt thành danh trong hoạn lộ, được người
đương thời là ông Đồ Bồ (ông thầy dạy học có cả bồ chữ) và tôn xưng ông là bậc
“Sư Khổng”.
Phan Thúc Trực được cha trực tiếp dạy bảo, rèn cặp, lại sẵn bản tính siêng
năng ham học, nên từ nhỏ đã nổi tiếng là “Thần đồng” đất Nghệ An. Ông đọc
nhiều sách và làu thông kinh sử, nức tiếng hay chữ, từng thi đậu Đầu xứ (năm 16
tuổi) và nhiều khoa Tú tài, nên được Hội Văn của huyện Đông Thành tôn tặng
đôi câu đối:
Nhất cử thành danh thiên hạ hữu;
Thập khoa liên trúng thế gian vô.
Nghĩa là: (*)
Một lần thi đậu Cử nhân thiên hạ đã có người như vậy;
Mười khoa thi đều trúng thế gian chưa từng có ai.
Ông được triều đình trọng tài, chọn vào học trường Quốc tử giám để được dự
thi Hội. Khoa Đinh Mùi - Thiệu Trị 7 (1847), ông thi đậu Đệ nhất giáp cập đệ đệ
tam danh (Đình nguyên, Thám hoa). Ngày vinh qui bái tổ, vua ban cho tấm biển
“Khôi đa sĩ” (nghĩa là: Người đỗ đầu xuất sắc trên nhiều nho sĩ). Biểu mừng
Phan Thúc Trực đỗ Thám hoa của các quan, thân sĩ và đồng môn có ghi:
“Trải các đời đều lấy khoa cử để chọn người tài, đỗ Tiến sĩ được người đời
quí trọng, mà đỗ Tam khôi Tiến sĩ thì không có gì quí hơn. Vinh hạnh này quả
thực không phải là của một gia đình hay riêng của một người. Đỗ tân khoa cập
đệ xã ta là tôn quí họ Phan. Gia thế từ xa xưa đã thuộc hàng danh nho, từ sáu
đời trước đến bây giờ đều theo con đường học hành, khơi nguồn thi thư lễ nhạc,
con cháu đời sau có đến ba, bốn đời đều đứng vào bậc hiền nho…”.
Việc Phan Thúc Trực thi đỗ Thám hoa được coi là một tất yếu, là sự nối tiếp
truyền thống danh nho nhiều đời trong gia tộc. Đây không chỉ là vinh hạnh cho
gia đình, dòng họ Phan mà còn là một vinh dự vẻ vang cho làng xã quê hương và
đất nước. Ông được nhân dân tôn gọi là quan Thám Mười một cách trân trọng.
Tính ông cương trực, ngay thẳng nhưng lại có tấm lòng nhân hậu, thường lấy văn
chương, nhân ái để đối đãi thu phục nhân tâm. Cuộc đời của ông là một tấm
gương sáng không chỉ về học hành, đỗ đạt thành danh, mà còn ở lòng yêu nước
thương dân, tận tụy với công việc. Ông luôn quan tâm đến giáo dục, từng đi dạy
học ở nhiều nơi và chăm lo việc bồi dưỡng tinh thần cho thế hệ trẻ… Sau khi thi
đỗ, ông về quê chỉ đạo việc khơi ngòi, đắp đập Cẩm Giang để lấy nước tưới tiêu
cho đồng ruộng, phát triển nghề nông, giúp dân ổn định cuộc sống. Vì thế sau
khi ông mất, được dân địa phương lập đền thờ phụng là phúc thần. Ông được
nhiều người ca ngợi về học hành và phẩm hạnh. Ông mất sớm khi mới 43 tuổi
nhưng đã kịp để lại cho hậu thế những di thư quí báu như:
- Các tuyển tập: Cẩm Đình văn tập (VHv.683; VHv.262); Cẩm Đình thi
tuyển tập (VHv.357; VHv.684); Cẩm Đình thi văn toàn tập (VHv.1426;
A.1385); Trần Lê ngoại truyện (A.1069); Quốc sử di biên (Chữ Hán -
A.1045/1-2); Quốc sử di biên/ Bản dịch: H., Văn hoá -Thông tin, 2009, 459 Tr,
14,5 x 20,5 cm; Quốc sử di biên (Thượng - Trung - Hạ)/ Bản dịch và in kèm
phần chữ Hán: H., KHXH, 2010, 839 Tr, 16 x 24 cm; Diễn Châu Đông Thành
huyện thông chí (Thám hoa Phan tiên sinh ở tổng Vân Tụ).
- Tác phẩm đã đưa vào Cẩm Đình thi tuyển tập: Tứ phương lan phả; Hiệu
Tần thi tập; Bắc hành thi thảo; Nam hành thi thảo.
- Tài liệu liên quan và tài liệu có tác phẩm của ông: Cẩm hồi tập (A.1474, 12
bài văn; 18 bài thơ mừng Phan Thúc Trực đỗ Thám hoa năm 1874); Kim triều
chiếu chỉ (A.339, Có biểu tạ ơn thi đỗ của Phan Dương Hạo); Thám hoa Phan
Thúc Trực Cẩm hồi hạ tập (A.2744, Thơ và trướng mừng Phan Thúc Trực đỗ
Thám hoa); Hạ Cao Phó bảng đối liễn trướng văn (A.1720, Thơ, trướng, văn
mừng Cao Xuân Tiếu đỗ Phó bảng, trong đó có thơ văn của Phan Thúc Trực)…
Ông là người yêu quí sách vở, từ nhỏ luôn đọc sách và làu thông các sách Tứ
thư, Ngũ kinh, Chư sử… lại có tài ứng chế thi văn, từng được vua khen ngợi và
ban thưởng nhiều lần. Ông được nhà vua yêu quí, cho làm chức quan luôn ở bên
cạnh để giúp việc là Kinh diên khởi cơ chú, trong Cơ mật viện. Trước đó, ông
từng trải các chức liên quan đến sách vở, giáo dục, biên soạn văn bản: Hàn lâm
viện trước tác, thăng Thừa chỉ, Nhập nội các, Tập hiền viện. Có lẽ do ông quá
đam mê và làu thông sử sách mà vua Tự Đức đã cử ông cùng Nguyễn Đỗ Tích đi
sưu tầm di thư ở các tỉnh Bắc Hà cho triều đình. Khi ông hoàn thành nhiệm vụ
vua giao, trở về đến Thanh Hóa thì bị bạo bệnh và mất. Trong Cẩm Đình thi
tuyển tập, con trai của ông đã cho biết hành trình đi sưu tầm sách vở cổ của cha
mình là Phan Thúc Trực như sau:
“Nay xét, cha ta đi sưu tầm sách vở cổ từ ngày mồng 4 tháng 10 năm Tân Hợi
niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851) đến ngày mồng 10 thì đến Thanh Hóa, ở lại đó từ
tháng 10 cho đến mồng 1 tháng 12 thì đi Ninh Bình. Ngày mồng 8 tháng 12 ra
Hà Nội. Từ tháng 12 cho đến hạ tuần tháng 2 năm Nhâm Tý đi Hải Dương,
Hưng Yên và ở Hải Dương cho đến hạ tuần tháng 5 mới đi Cẩm Giàng, sau đó đi
Hà Nội. Đến thượng tuần tháng 6 đi Bắc Ninh, rồi lại trở về Hà Nội. Đến trung
tuần tháng 8 đi Hưng Yên, thượng tuần tháng 9 đi Nam Định, trung tuần trở về
Ninh Bình, qua Thanh Hóa lưu lại ở đó”.
Trong bài thơ “Hạc Thành hiểu phát phó nguyệt viên mộ túc lữ xá” (Buổi
sáng từ Hạc Thành đi đến trăng lên, ngủ tại quán trọ) có câu:
Đông lai thang mộc địa
Phụng mệnh sứ cầu thư…
Dịch nghĩa:(*)
Mùa đông về trên đất quyền quý
Phụng mệnh nhà vua đi cầu thư…
(Cầu thư tức là sưu tầm sách vở trong dân gian)
Bài thơ trên là bài số 95, nằm trong tập “Tứ phương lan phổ quyển 2” của
sách Cẩm Đình thi tuyển tập, do Phan Thúc Trực sáng tác. Trước bài thơ này có
ghi chú:
“Tháng 8 năm Tân Hợi (Tự Đức thứ 4) bắt đầu đi tìm di thư trong tỉnh nhà.
Sang tháng 10, vào ngày 4 lại lên đường, ngày 9 đến huyện lỵ Quỳnh Lưu, ngày
10 đi Thanh Hoá, ngày 15 đến huyện Hoằng Hoá đi vào dân gian, ở lại tỉnh
Thanh 2 tháng có mấy bài tạp vịnh”.
Từ đây cuộc rong ruổi sưu tầm sách quí của ông được ghi lại qua những vần
thơ giàu cảm hứng.
Bài 130 “Lưu giản Thanh Hoá tỉnh Phiên ti thông phán Nguyễn” (Thư gửi lại
quan Phiên ti thông phán họ Nguyễn) với đoạn mở đầu:
Bản thị nhất châu nhân
Dị địa chuyển tình thân
Quan tước vô sùng ti
Giang sơn tương chủ tân
Ngã kim sách cầu thư
Nãi tại Hạc Thành nhân…
Dịch nghĩa:
Nguyên là người cùng trong một châu
Nơi đất khách chuyển thành người anh em
Chức tước chẳng cao cũng chẳng thấp
Với núi sông cùng làm chủ, làm khách
Bây giờ tôi đang đi tìm sách
Bèn tới cửa Hạc Thành…
Khi đi đến Đông Sơn, Thanh Hoá, ông tự nhận mình là học trò đất Hồng Lam
được triều đình ưu ái, để dễ bề kết bạn, tìm sách:
Cần tảo nhân ca Phán
Hồng Lam địa thuyết Hoan
Cầu thư lai Bắc quận
Phỏng hữu quá Đông Sơn.
Dịch nghĩa:
Kẻ học trò được vào học ở trường nhà vua
Quê đất sông Lam, núi Hồng có tên là Hoan Châu
Nay ra Bắc để tìm sách còn sót lại
Tìm bạn đến đất Đông Sơn.
Nhân dịp đi tìm sách này ông được đến với nhiều vùng đất, danh thắng: “May
mắn được ngồi xe sứ đi qua những kỳ quan” (Bài 151: Khuyết đề mục); có khi:
“Một chiếc thuyền con vượt bến Bạch Đằng” (Bài 151). Ông lại được gặp gỡ với
nhiều tao nhân, mặc khách, vừa đối ứng ngâm thơ, vừa tìm hỏi sách quí trong các
thư phòng, thư viện các tư gia: “Đêm qua vừa nói chuyện văn thơ ở nơi phòng
sách” (Bài 183 - Tặng Thuỷ Đường tư đạc Nguyễn Chính); lại: “Việc công khi
rỗi, trước phòng sách xướng hoạ” (Bài 231 - Trần Đại Nhân thi tặng); có lúc
được thưởng hưởng: “Gió xuân thổi đến thư viện gần đây” (Bài 190 - Quang
khánh tự tảo tác tặng Khuê Chương thư thục đại lão ấp Sinh); lại có khi phải
đi nhanh vì: “Trời nóng ruổi xe đến thảo đường” (Bài 197 - Thư đề Phú Mễ xã
sĩ xã)… Tất cả mọi sự vất vả khó khăn cũng như được hưởng những niềm vui
bất ngờ, khi được giao lưu với biết bao người cùng chí nguyện, tâm huyết với
mình suốt cả chặng đường đi… cũng chỉ với một mục đích để tìm sách quí. Bài
199 - Sơ phó Tứ Kỳ huyện thư giản du tường liệt thức nói khá rõ cảm hứng đi
tìm sách của Phan Thúc Trực:
Cầu thư hữu mệnh thánh tâm ân
Đáo xứ tuân tư thiết (?) niệm quần
Tứ hải tư văn liên khí mạch
Thử bang vãng sự tại truyền văn
Cảm vân khuynh cái tình tương hậu
Bất đãi hàm bôi hứng chuyển huân
Minh mỵ kháp phùng tam nguyệt hảo
Thôn trai tiểu toạ tá phong huân.
Dịch nghĩa:
Tìm sách theo lệnh nhà vua ân cần giao phó
Đến đâu cũng tìm đến mọi người hỏi han cặn kẽ
Tư văn bốn biển liền mạch khí
Chuyện xưa nơi ấy vẫn nghe truyền
Dám xin ngả mũ chào hỏi làm quen cho tình thêm nặng
Chẳng chờ đến khi uống rượu cho cảm hứng chuyển thành say
Cái trong sáng và đẹp đẽ lại gặp đúng vào tháng ba tươi tắn
Tạm ngồi bên phòng trai (?) của làng đón luồng gió ấm.
Cảm hứng đi tìm sách của ông cũng như đi tìm bạn: “Đi tìm sách lại cũng
là đi tìm bạn cũ” (Bài 200 - Tín tức Tứ Kỳ học xá hý trình thục trưởng
Đặng Long Luyện); việc đó cũng: “Chỉ cốt nhặt nhạnh cái văn chương trước
đây đã làm ra” (Bài 201 - Tứ Kỳ Huấn đạo Đặng thi tặng); cũng là để: “Văn
chương còn lại hãy cùng nhau đem ra mà bàn luận” (Bài 201). Ông quí mỗi
cuốn sách tìm được, trân trọng coi như sách quí của ngàn năm: “Di văn trân
trọng từng gói thẻ tre” (Bài 202 - Trùng phỏng Tứ Kỳ tư đạc Đặng khê nghị
nhân đồng chu dạ phiếm lâm giang chi tác). Thẻ tre là sách viết trên các
thanh tre xâu cuộn lại chỉ có ở thời Tần - Hán - Đường cách nay trên dưới
2.000 năm. Khi gặp được nơi có nhiều sách quí, ông phải lặn lội đi cho hết vì
sợ bỏ sót sách quí: “Đi tìm sách vòng quanh vùng đất biển” (Bài 223 - Thư
thị Đông quận chư văn hữu). Đặc biệt, tỉnh Hải Dương là nơi ông lưu lại lâu
ngày hơn và dùng dằng không muốn rời, vì ở đây vừa có nhiều cảnh đẹp, vừa
có nhiều sách quí nhất, lại vốn có nghề in sách lâu đời nhất (làng Hồng Lục và
Liễu Tràng, huyện Gia Lộc). Đây lại là nơi thờ ông tổ của nghề in sách nước
ta là Thám hoa Lương Nhữ Hộc (1420-1501; đỗ tiến sĩ năm 1442, làm quan
Tả Thị lang bộ Lễ, 2 lần đi sứ nhà Minh, học được nghề in bản khắc gỗ, đem
về dạy cho dân làng, nên được lập đền thờ và tôn là Tổ sư nghề khắc gỗ in
sách). Điều này được thể hiện qua bài 208 - Thục đường dạ toạ biệt Đặng
Huấn đạo lưu đề nhất luật (Đêm chia tay quan Huấn đạo
họ Đặng ở trường học để lại một bài thơ):
Vũ hậu cầu thư quá Tứ Kỳ
Lâm hành hà sự khước trì tri
Cựu giao tân nghị hân tương ngộ
Đoạn giản tàn biên khủng hoặc di
Nguyệt hạ bồi hồi cầm vận tịch
Đăng tiền tỉ ỷ tửu bôi si
Minh triêu hựu giá thiên chu khứ
Bích thượng đề thi uý sở trị.
Dịch nghĩa:
Sau cơn mưa ta đi tìm sách qua huyện Tứ Kỳ
Ra đi sao cứ thấy lề mề không dứt ra được
Bạn cũ chuyện mới vui mừng khôn xiết khi gặp lại nhau
Sách cũ long lề sợ lại bị mất đi
Dưới ánh trăng bồi hồi nghe tiếng đàn bịn rịn
Trước ngọn đèn nhấp nhỏm với chén rượu say
Sáng mãi đã phải ra đi theo chiếc thuyền con
Để lại bức thư trên vách làm vui lòng người tri kỷ.
Ông là người có trách nhiệm cao trong công việc, nên luôn lo lắng sợ không
làm tròn công việc được giao: “Mấy độ nhận việc vua giao mà chưa hoàn
thành” (Bài 219 - Trùng ngọ tiên nhất nhật thư hoài), nên luôn trăn trở: “Ra đi
từ buổi đầu thu, nay đã vào mùa hạ, Đến tận đầu nguồn mới thấy thẹn là mình
chẳng có tài” (Bài 221 - Mạn hứng)… nhưng ông vẫn rất vui với tâm niệm:
“Thi thư không thẹn với danh giá của gia đình xưa nay” và “Gặp xuân, nhờ
xuân nói giúp nguyện vọng của chúng tôi” (Bài 235 - Tặng Đường Trạch Tiên
Thuỷ tú tài Vũ Kỳ Niên). Khi hoàn thành công việc đi tìm sách quí ở hầu khắp
các tỉnh Bắc Hà, ông cảm thấy yên lòng và vô cùng phấn khởi và được thể hiện
qua bài “Thư thị Đông quận chư văn hữu” (Nhân cùng các bạn làng văn quận
Đông):
Cầu thư chu hải quận
đối khách thượng thành Đông
Chiếu toạ hữu minh nguyệt
Mãn liêm lai thanh phong
Kim tiêu phùng ngã bối
Minh nguyệt thị thiên trung
Thi tửu kham hành lạc
Thanh ca thử dạ đồng.
Dịch nghĩa:
Đi tìm sách vòng quanh vùng đất biển
Được làm bạn cùng khách quí thành Đông
Trăng sáng soi vào chỗ ngồi
Gió mát bay tràn rèm cửa
Đêm nay ta gặp nhau đây
Có trăng sáng giữa bầu trời
Thơ với rượu tha hồ vui sướng
Đêm nay ta cùng cất cao tiếng hát trong trẻo.
Trên đây cũng là những vần thơ kết thúc chuyến đi tìm sách ở Bắc Hà của
Phan Thúc Trực.
Là người làm công tác Địa chí Thư viện tỉnh Nghệ An lâu năm, tôi thật sự
cảm phục và trân trọng về danh nhân văn hoá Phan Thúc Trực, về sức học và
đọc, tinh thông sử sách, nên đã thi đậu đầu một khoa thi Tiến sĩ - (Đình nguyên
- Thám hoa), xứng danh với tấm biển vua ban khi ông vinh qui bái tổ: “Khôi đa
sĩ” (Người đứng đầu trong nhiều nho sĩ). Với trọng trách thực hiện nhiệm vụ
vua giao cho đi tìm sách quí trong dân gian, ông xứng đáng là người đi tiên
phong trong công tác sưu tầm sách và xây dựng đài ngọc - “Tàng thư lâu” - cho
cung đình Huế và cho ngành Thư viện Việt Nam. Ông là tấm gương sáng cho
đội ngũ cán bộ thư viện học tập và noi theo. Cán bộ thư viện phải là những
người yêu quí sách và tuyên truyền để mọi người dân cũng đều yêu quí sách,
bảo vệ sách và năng đọc sách để góp phần chung tay xây dựng đất nước ta ngày
càng giàu mạnh, phát triển, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.
Phan Thúc Trực thật xứng đáng với câu khen ngợi mà quan Tham tri
Trương Quốc Dụng đã dành cho: Một nhành mai trên cả trăm đoá hoa
(Bách hoa đầu thượng nhất chi mai)./.
(*) Phần phiên âm và dịch nghĩa thơ từ chữ Hán Phan Thúc Trực trong bài viết
này của Nhà giáo Nguyễn Thế Đạt (Câu lạc bộ Hán Nôm Nghệ An). Xin chân
thành cảm ơn Nhà giáo đã bỏ nhiều công sức phiên âm, dịch nghĩa tác phẩm
Cẩm Đình thi tuyển tập để tôi có đủ thông tin, tài liệu thực hiện bài viết này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lich_su_vhoa_35__1788.pdf