Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ đổi mới là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đường lối, chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, tình hình kinh tế của nước ta đang tăng trưởng và ổn định, đời sống xã hội được nâng cao. Tuy nhiên quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế là xu hướng khách quan, dẫn đến quá trình vừa phải hợp tác để phát triển, vừa phải cạnh tranh rất phức tạp, đặc biệt là giữa các nước đang phát triển. Đối với nước ta, trong tình hình và bối cảnh quốc tế như vậy, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới phải được nâng lên một bước mới, gắn với việc cam kết quốc tế. Do vậy phải ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Trước những vận hội lớn của Đất nước, các doanh nghiệp Nhà nước một thành phần quan trọng và cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng phải có những bước đi thích hợp để tồn tại và phát triển, đồng thời nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Trong mỗi doanh nghiệp đội ngũ cán bộ quản lý có một vai trò vô cùng quan trọng nó quyết định đến việc hoạt động sản xuất kinh doanh thắng lợi hay thất bại của mỗi doanh nghiệp.
Để có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, có đầy đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng được những đòi hỏi trong giai đoạn mới thì việc nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ quản lý trong doanh nghiệp là hết sức cần thiết và cấp bách.
Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội là Trung tâm chuyên ngành Bưu chính, đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt nam (nay là Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông). Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước, trong những năm qua đặc biệt sau 2 giai đoạn tăng tốc, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phục vụ trên cả hai lĩnh vực Bưu chính và Viễn thông. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, bên cạnh những thành quả không khỏi còn nhiều hạn chế bất cập. Phương án đổi mới quản lý khai thác kinh doanh Bưu chính - Viễn thông trên địa bàn tỉnh, thành phố ban hành kèm theo quyết định số 226/QĐ-TCCB/HĐQT ngày 04/6/2004 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam đã nêu “Việc hạch toán không rõ ràng giữa hai dịch vụ Bưu chính và Viễn thông đã tạo ra sự thiếu năng động, kém phát triển trong lĩnh vực Bưu chính, năng suất lao động Bưu chính thấp”. Ngày 18/10/2005 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 158/2001/QĐ-TTG, phê duyệt chiến lược phát triển Bưu chính Viễn thông Việt nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trong đó phần định hướng phát triển Bưu chính chỉ rõ “Phát triển Bưu chính Việt nam theo hướng cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, nhằm đạt trình độ hiện đại ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Tổ chức Bưu chính tách ra khỏi Viễn thông, hoạt động độc lập có hiệu quả, cung cấp các dịch vụ đa dạng theo tiêu chuẩn quốc tế”.
Là một cán bộ đang công tác tại Trung tâm, bản thân tôi tự nhận thức: Với những tồn tại, hạn chế của ngành Bưu chính, đứng trước những thách thức của sự phát triển trong tương lai, hơn bao giờ hết vấn đề đặt ra đối với Trung tâm là cần thiết phải có những con người đủ năng lực, phẩm chất và đầy nhiệt huyết để khắc phục điểm yếu, tổ chức thực hiện thành công mục tiêu và định hướng phát triển đã đề ra. Chính vì vậy, tôi chọn chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài:
Những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ở Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội trong giai đoạn hiên nay.
57 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1241 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ở Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội trong giai đoạn hiên nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
Mục lục
Lời mở đầu
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp Nhà nước
1.1-Khái niệm, vai trò và yêu cầu về cán bộ quản lý
1.1.1- Khái niêm cán bộ quản lý
1.1.2- Vai trò của cán bộ quản lý
1.1.3- Yêu cầu đối với cán bộ quản lý
1.1.3.1- Yêu cầu về kỹ năng đối với cán bộ quản lý
1.1.3.2- Yêu cầu về phẩm chất cá nhân
1.2- Công tác của cán bộ quản lý
1.2.1- Nội dung công tác của cán bộ quản lý
1.2.2- Phong cách làm việc của cán bộ quản lý
1.3- Tính cấp thiết của việc xây dựng đôi ngũ cán bộ trong doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng đội ngũ cán bộ ở Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội
2.1- Đặc điểm tình hình hoạt động của Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm
2.1.2- Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm
2.1.3- Cơ cấu tổ chức của Trung tâm
- Sơ đồ cơ cấu tổ chức
2.1.4- Tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tại Trung tâm
a- Tổ chức mạng vận chuyển
b- Tổ chức mạng khai thác
2.2- Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý của Trung tâm
2.2.1- Cơ cấu đội ngũ cán bộ quản lý của Trung tâm
2.2.2- Tình hình công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý của Trung tâm từ năm 2005 - 2007
2.3- Mặt mạnh, mặt yếu, nguyên nhân và các tồn tại của đội ngũ cán bộ trong Trung tâm
2.3.1- Mặt mạnh
2.3.2- Mặt hạn chế và những nguyên nhân
2.3.3- Những bài học kinh nghiệm cần rút ra
Chương III- Những giải pháp cơ bản xây dựng đôi ngũ cán bộ ở Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội
3.1- Phương hướng và mục tiêu phát triển của Trung tâm
3.1.1- Phương hướng phát triển chung
3.1.2- Phương hướng và mục tiêu phát triển của Tổng Công ty
3.1.3- Phương hướng và mục tiêu phát triển của trung tâm khai thác vận chuyển
3.2- Những giải pháp để hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn cán bộ của Trung tâm
3.2.1- Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng
3.2.2- Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
3.2.3- Đổi mới công tác kế hoạch hóa cán bộ
3.2.4- Đổi mới công tác nhận xét đánh giá cán bộ
3.2.5- Tăng cường công tác kiểm tra
3.2.6- Đổi mới bộ máy làm công tác cán bộ
3.2.7- Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
3.2.8- Xây dựng tiêu chuẩn cho cán bộ quản lý tại Trung tâm
3.3- Các kiến nghị về cơ chế, chính sách để đảm bảo thực hiện các đề xuất có hiệu quả
Kết luận
Tài liệu tham khảo
1
3
6
6
6
6
7
9
11
12
12
13
14
17
17
17
19
19
23
25
25
26
27
27
30
31
31
32
33
34
34
34
35
38
40
40
41
43
44
48
49
50
51
55
55
57
LỜI MỞ ĐẦU
1/ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ đổi mới là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong những năm qua, thực hiện chủ trương đường lối, chủ trương phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đất nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, tình hình kinh tế của nước ta đang tăng trưởng và ổn định, đời sống xã hội được nâng cao. Tuy nhiên quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế là xu hướng khách quan, dẫn đến quá trình vừa phải hợp tác để phát triển, vừa phải cạnh tranh rất phức tạp, đặc biệt là giữa các nước đang phát triển. Đối với nước ta, trong tình hình và bối cảnh quốc tế như vậy, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới phải được nâng lên một bước mới, gắn với việc cam kết quốc tế. Do vậy phải ra sức nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Trước những vận hội lớn của Đất nước, các doanh nghiệp Nhà nước một thành phần quan trọng và cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng phải có những bước đi thích hợp để tồn tại và phát triển, đồng thời nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Trong mỗi doanh nghiệp đội ngũ cán bộ quản lý có một vai trò vô cùng quan trọng nó quyết định đến việc hoạt động sản xuất kinh doanh thắng lợi hay thất bại của mỗi doanh nghiệp.
Để có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, có đầy đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng được những đòi hỏi trong giai đoạn mới thì việc nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ quản lý trong doanh nghiệp là hết sức cần thiết và cấp bách.
Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội là Trung tâm chuyên ngành Bưu chính, đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty Bưu chính viễn thông Việt nam (nay là Tập đoàn Bưu chính - Viễn thông). Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước, trong những năm qua đặc biệt sau 2 giai đoạn tăng tốc, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và phục vụ trên cả hai lĩnh vực Bưu chính và Viễn thông. Tuy nhiên trong quá trình phát triển, bên cạnh những thành quả không khỏi còn nhiều hạn chế bất cập. Phương án đổi mới quản lý khai thác kinh doanh Bưu chính - Viễn thông trên địa bàn tỉnh, thành phố ban hành kèm theo quyết định số 226/QĐ-TCCB/HĐQT ngày 04/6/2004 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt nam đã nêu “Việc hạch toán không rõ ràng giữa hai dịch vụ Bưu chính và Viễn thông đã tạo ra sự thiếu năng động, kém phát triển trong lĩnh vực Bưu chính, năng suất lao động Bưu chính thấp”. Ngày 18/10/2005 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 158/2001/QĐ-TTG, phê duyệt chiến lược phát triển Bưu chính Viễn thông Việt nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, trong đó phần định hướng phát triển Bưu chính chỉ rõ “Phát triển Bưu chính Việt nam theo hướng cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá, nhằm đạt trình độ hiện đại ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực. Tổ chức Bưu chính tách ra khỏi Viễn thông, hoạt động độc lập có hiệu quả, cung cấp các dịch vụ đa dạng theo tiêu chuẩn quốc tế”.
Là một cán bộ đang công tác tại Trung tâm, bản thân tôi tự nhận thức: Với những tồn tại, hạn chế của ngành Bưu chính, đứng trước những thách thức của sự phát triển trong tương lai, hơn bao giờ hết vấn đề đặt ra đối với Trung tâm là cần thiết phải có những con người đủ năng lực, phẩm chất và đầy nhiệt huyết để khắc phục điểm yếu, tổ chức thực hiện thành công mục tiêu và định hướng phát triển đã đề ra. Chính vì vậy, tôi chọn chuyên đề tốt nghiệp của mình với đề tài:
Những giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ở Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội trong giai đoạn hiên nay.
2/ MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Thông qua khảo sát đánh giá thực tiễn đội ngũ cán bộ quản lý trong Trung tâm, tìm ra mặt mạnh, mặt yếu của đội ngũ cán bộ. Từ đó đề ra các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trong Trung tâm nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới, giai đoạn đất nước tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
3/ PHẠM VI GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu đội ngũ cán bộ quản lý phân loại theo chức năng chuyên môn trong bộ máy quản lý ở Trung tâm khai thác vận chuyển Bưu điện Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
4/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu viết đề tài này, tôi chọn phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - LêNin, cụ thể là:
- Kết hợp với những phương pháp điều tra khảo sát.
- Phương pháp thống kê, phân tích.
- Phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích dự báo.
- Phương pháp trừu tượng hoá, khái quát hoá để rút ra những vấn đề cốt lõi và bản chất nhằm góp phần nâng cao năng lực của cán bộ quản lý trong doanh nghiệp.
5/ KẾT CẤU CHÍNH CỦA CHUYÊN ĐỀ:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, chuyên đề có kết cấu chính gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý trong doanh nghiệp Nhà nước
Chương II: Thực trạng đội ngũ cán bộ quản lý trong Trung tâm khai thác vận chuyển
Chương III: Những giải pháp cơ bản xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý của Trung tâm khai thác vận chuyển
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.1- Khái niệm, vai trò và yêu cầu về cán bộ quản lý
1.1.1- Khái niệm cán bộ quản lý:
Cán bộ quản lý là những người thực hiện các chức năng quản lý nhằm đảm bảo cho tổ chức đạt được những mục đích của mình với kết quả và hiệu quả cao.
Một cán bộ quản lý được xác định bởi ba yếu tố cơ bản. Thứ nhất, có vị thế trong tổ chức với những quyền hạn nhất định trong quá trình ra quyết định. Thứ hai, có chức năng thể hiện những công việc cần thực hiên trong toàn bộ hoạt động của tổ chức. Và thứ ba, có nghiệp vụ thể hiện phải đáp ứng những đòi hỏi nhất định của công việc.
1.1.2 -Vai trò của cán bộ quản lý:
Có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về vai trò của các cán bộ quản lý tổ chức trong đó có môt quan điểm được nhiều người chia sẻ là quan điểm của Henry Mintzberg. Ông cho rằng các cán bộ quản lý là nhân tố cơ bản quyết định sự thành công hay thất bại của đường lối phát triển tổ chức. Trong hoạt động hàng ngày, các nhà quản lý thường xuyên thực hiện ba vai trò là vai trò liên kết con người, vai trò thông tin và vai trò ra quyết định
Vai trò liên kết bao hàm những công việc trực tiếp với những người khác. Nhà quản lý là người đại diện cho đơn vị mình trong các cuộc gặp mặt chính thức (vai trò người đại diện), tạo ra và duy trì đôộng lực cho người lao động nhằm hướng cố gắng của họ tới mục đích chung của tổ chức (vai trò lãnh đạo), đảm bảo mối quan hệ với các đối tác (vai trò người liên lạc).
Vai trò thông tin bao hàm sự trao đổi thông tin với những người khác. Nhà quản lý tìm kiếm những thông tin phản hồi cần thiết cho quản lý (vai trò người giám sát), chia sẻ thông tin với những người trong đơn vị (vai trò người truyền tin), và chia sẻ thông tin với những người bên ngoài (vai trò người phát ngôn).
Vai trò quyết định bao hàm việc ra quyết định để tác động lên con người. Nhà quản lý tìm kiếm cơ hội tận dụng, xác định vấn đề để giải quyết (vai trò người ra quyết định), chỉ đạo việc thực hiện quyết định (vai trò người đIều hành), phân bổ nguồn lực cho những mục đích khác nhau (vai trò người đảm bảo nguồn lực), và tiến hành đàm phán với những đối tác (vai trò người đàm phán).
Những vai trò trên của các nhà quản lý là tất yếu, giúp họ thực hiện có kết quả và hiệu lực chức năng, nhiệm vụ của mình.
1.1.3 -Yêu cầu đối với cán bộ quản lý:
Cán bộ nói chung là những người làm công tác có nghiệp vụ, có chuyên môn trong các cơ quan Nhà nước, trong cả hệ thống chính trị, có trình độ từ đại học, cao đẳng trở lên, được hình hành trong quá trình đào tạo ở nhà trường. Số người có trình độ thấp hơn như trung cấp, sơ cấp được gọi là nhân viên. Cán bộ lãnh đạo là những người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức cả trong hệ thống chính trị thông qua con đường bầu cử, đề bạt, bổ nhiệm; Cán bộ lãnh đạo chủ chốt là người đứng đầu quan trọng nhất, có tác dụng chi phối toàn bộ hoạt động của một tổ chức nhất định.
Nội dung quá trình quản lý biểu hiện ở hệ thống cơ cấu các chức năng; để thực hiện hiệu quả các chức năng này trong quá trình quản lý phải được hình thành hệ thống những cán bộ chức năng có cấu trúc chuyên môn hoá chặt chẽ, đó là bộ máy quản lý. Cán bộ quản lý trong doanh nghiệp là người lao động thực hiện những chức năng và nhiệm vụ nhất định trong các quá trình quản lý, là những người làm việc trong bộ máy quản lý. Cán bộ lãnh đạo quản lý là người đứng đầu một tổ chức, điều hành hoạt động của tổ chức, sử dụng công cụ, phương tiện để điều khiển một hoạt động nào đó của tổ chức. Cán bộ quản lý là người có trách nhiệm, nghĩa vụ quyền hạn và lợi ích nhất định tuỳ theo vị thế vai trò đảm nhiệm chức năng quản lý.
Quản lý ngày nay có vị trí cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội. Trong đó đội ngũ cán bộ quản lý đang là những nhân tố có tính quyết định đến hiệu quả hoạt động và sự thành công hay thất bại của mỗi hệ thống kinh tế xã hội. Xét trong một tổ chức cụ thể thì cán bộ quản lý là khâu nối có tính quyết định đảm bảo sự phối hợp có hiệu quả các hoạt động trong mỗi tập thể để thực hiện mục tiêu chung. Ngày nay, cán bộ quản lý là khâu nối quyết định đảm bảo sự thống nhất giữa Đảng, Nhà nước và người lao động trong xây dựng và thực hiện các mục tiêu phát triển Đất nước; là khâu nối quyết định trong việc đảm bảo hài hoà giữa các lợi ích quốc gia - tập thể - người lao động tạo động lực cho sự phát triển. Do vị trí, ý nghĩa quan trọng của cán bộ quản lý đối với hoạt động của toàn bộ hệ thống tổ chức từ kinh tế đến chính trị, xã hội đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản về phẩm chất và năng lực sau:
Yêu cầu về phẩm chất chính trị: Người cán bộ quản lý phải có quan điểm lập trường chính trị vững vàng, kiên định; phải nắm được đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn; có khả năng tự hoàn thiện, tự đánh giá kết quả công việc của bản thân, đánh giá con người mà mình quản lý theo tiêu chuẩn chính trị; biết biến nhận thức chính trị của mình thành nhận thức của mọi người; tạo được lòng tin và lôi cuốn được mọi người cùng tham gia.
Yêu cầu về pháp lý: Cán bộ quản lý phải am hiểu và nắm được pháp luật, nhất là những ngành luật có liên quan đến chuyên môn, ngành nghề của mình sao cho trong quá trình làm việc không vi phạm pháp luật.
Yêu cầu về chuyên môn: Cán bộ quản lý phải am hiểu tri thức chuyên môn, đủ tri thức để quản lý ngành nghề chuyên môn. Có trình độ cao và am hiểu tường tận chuyên môn của ngành mình quản lý sẽ giúp cán bộ quản lý hoạch định được chiến lược phát triển ngành đúng hướng, tổ chức thực hiện mục tiêu quản lý của mình hiệu quả nhất.
Yêu cầu về năng lực tổ chức quản lý: Là người vạch mục tiêu và thông qua các cộng sự thực hiện mục tiêu đã đề ra. Vì vậy cán bộ quản lý phải là người có bản lĩnh, có khả năng nhạy cảm, linh hoạt, khả năng quan sát, nắm được các nhiệm vụ từ tổng thể đến chi tiết để tổ chức hệ thống hoạt động linh hoạt, đồng bộ và có hiệu quả; là người biết cách tổ chức lao động, biết sử dụng đúng tài năng của từng cộng sự, đánh giá đúng con người và biết xử lý tốt các mối quan hệ trong và ngoài hệ thống.
Yêu cầu về phẩm chất đạo đức tác phong: Đạo đức là chuẩn mực về phẩm chất của con người, được xã hội chấp nhận. Tiêu chuẩn đạo đức đòi hỏi cán bộ quản lý phải tuân theo các chuẩn mực nhất định biểu lộ qua ý thức đối với xã hội; qua thái độ công tác; qua hành vi đối với lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, được mọi người đồng tình ủng hộ và thừa nhận. Tác phong thể hiện thông qua các phương pháp và nghệ thuật ứng xử để thực hiện nhiệm vụ. Tuỳ thuộc vào phẩm chất đạo đức, tài năng cá nhân và môi trường cụ thể, mỗi người cán bộ quản lý có tác phong riêng. Nhưng muốn quản lý và động viên được người khác thì tác phong thích hợp nhất là tác phong quần chúng, có nghĩa là xuất phát từ quần chúng, vì quyền lợi của quần chúng, tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng. Muốn vậy người cán bộ quản lý phải biết lắng nghe quần chúng, thuyết phục quần chúng, tin yêu quần chúng.
Ngoài ra các cán bộ quản lý phải đạt được ở mức nhất định những yêu cầu về kỹ năng quản lý và phẩm chất đạo đức cá nhân.
1.1.3.1- Những yêu cầu về kỹ năng đối với cán bộ quản lý
Kỹ năng là khả năng của con người có thể đưa kiến thức vào thực tế nhằm đạt được những kết quả mong muốn với hiệu quả cao. Daniel Katz đã phân các kỹ năng cần thiết đối với các nhà quản lý thành ba nhóm: kỹ năng kỹ thuật, kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người, kỹ năng nhận thức.
*Kỹ năng kỹ thuật
Kỹ năng kỹ thuật là khả năng của nhà quản lý thể hiện được kiến thức và tài năng trong quá trình quản lý các hoạt động thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình. Nó bao gồm kỹ năng thực hiện các hoạt động chuyên môn và kỹ năng thực hiện các quy trình quản lý. Muốn quản lý tốt những hoạt động nhất định, nhà quản lý phải hiểu và thực hiện được những hoạt động đó.
Cụ thể như là các thợ cơ khí làm việc với các dụng cụ, và người đốc công phải có khả năng dạy các kỹ năng sử dụng dụng cụ cho cấp dưới của mình. Các kế toán viên thực hiện các quy trình kế toán và người kế toán trưởng phải có khả năng hướng dẫn cho họ những quy trình đó. Để quản lý bộ phận marketing, trưởng phòng phải nắm được công nghệ thực hiện các hoạt động mảketing cơ bản. Đồng thời mọi nhà quản lý phải có khả năng thực hiện các quá trình quản lý bao gồm việc lập kế hoạch, tổ chức lãnh đạo và kiểm tra đối với các hoạt động trong phạm vi trách nhiệm của mình.
Gắn liền với việc sử dụng các phương pháp, quá trình và công cụ cụ thể, để có kỹ năng kỹ thuật nhà quản lý phải được đào tạo và phải được trải qua kinh nghiệm thực tế. Điều đó chứng tỏ được tại sao khi tuyển dụng cán bộ vào các chức vụ quản lý, bên cạnh yêu cầu về bằng cấp bao giờ cũng có những yêu cầu về kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn của tổ chức.
*Kỹ năng nhận thức
Kỹ năng nhận thức là khả năng phát hiện, phân tích và giải quyết những vấn đề phức tạp.
Nhà quản lý phải thấy được bức tranh toàn cảnh thực trạng và xu thế biến động của đơn vị do mình phụ trách, của toàn tổ chức và của môi trường, nhận ra được những yếu tố chính trong mỗi hoàn cảnh, nhận thức được mối quan hệ giữa các phần tử, bộ phận trong tổ chức và mối quan hệ của tổ chức với môi trường.
Trong tất cả kỹ năng được cho là cần phải có đối với người quản lý có lẽ kỹ năng được đánh giá cao và được nhấn mạnh nhất chính là năng lực phân tích và giải quyết vấn đề. Người quản lý phải có khả năng xác định rõ các vấn đề, hiểu rõ và giải thích được dữ liệu thônh tin, sử dụng được thông tin để xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề. Lựa chọn được những giải pháp tối ưu nhất cho vấn đề, biết cách lập luận và đưa ra các cam kết trong những tình huống phức tạp.
Kỹ năng kỹ thuật có vai trò quan trọng lớn nhất ở cấp quản lý cơ sở, giảm dần với cấp quản lý bậc trung và có ý nghĩa khá nhỏ đối với cấp cao. Kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người có ý nghĩa quan trọng đối với mọi cấp quản lý.
Kỹ năng nhận thức có vai trò nhỏ đối với cán bộ quản lý cấp cơ sở, trở nên quan trọng hơn đối với cấp trung và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cấp cao
*Kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người
Kỹ năng thực hiện các mối quan hệ con người là khả năng của một người có thể làm việc được với những người khác, bao hàm những kỹ năng cụ thể sau:
+ Đánh giá đúng con người, có khả năng thấu hiểu và thông cảm với những tâm tư, tình cảm nguyện vọng của con người
+ Mềm dẻo trong hành vi, có kỹ năng giao tiếp và đàm phán
+ Có khả năng tạo quyền lực và tạo ảnh hưởng
+ Sử dụng một cách có nghệ thuật các phương pháp lãnh đạo con người
+ Có khả năng xây dựng và làm việc theo nhóm
+ Có khả năng chủ trì các cuộc họp
+ Giải quyết tốt các mâu thuẫn trong tập thể
+ Quản lý có hiệu quả thời gian và sự căng thẳng của bản thân mình, không để các vấn đề cá nhân làm ảnh hưởng đến công việc chung …
Nhà quản lý có kỹ năng làm việc với con người sẽ tham gia tích cực vào công việc của tập thể, tạo ra được một môi trường trong đó mọi người cảm thấy an toàn, dễ bộc bạch ý kiến và phát huy triệt để tính sáng tạo của mình
1.1.3.2- Yêu cầu về phẩm chất cá nhân
Để làm việc có hiệu quả, bên cạnh kỹ năng nhà quản lý còn cần mang những đặc tính cá nhân nhất định. Có thể tổng kết những đòi hỏi về đặc điểm cá nhân đối với cán bộ quản lý bao gồm:
+ Người quản lý thành đạt có ước muốn mãnh liệt được làm quản lý, nó được ảnh hưởng đối với những người khác và thu được kết quả thông qua những cố gắng tập thể của cấp dưới. Trong thực tế nhiều người muốn có sự thú vị được ở các cương vị quản lý, bao gồm cả địa vị lẫn lương bổng cao, nhưng họ lại thiếu mất động lực cơ bản là tạo ra môi trường thuận lợi trong đó mọi người có thể hợp tác với nhau vì mục đích chung. Lòng mong muốn đối với công việc quản lý đòi hỏi sự nỗ lực, thời gian sức lực và sự kiên nhẫn.
+ Nhà quản lý phải là người có văn hóa, có kiến thức, có thái độ dúng mực với những người xung quanh, tạo được ấn tượng tốt, gây được sự chú ý và kính trọng, tỏ ra tự tin trong hành động và lời nói. Hành động một cách đúng đắn và có sáng tạo theo pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội.
+ Nhà quản lý phải là người có ý chí, chấp nhận rủi ro, có khả năng duy trì công việc ngay cả khi phải chịu những áp lực nặng nề.
Các yêu cầu trên đều cần được tiêu chuẩn hóa và thể chế hóa để làm căn cứ cho quá trình tuyển chọn, sử dụng ,đánh giá và đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý tổ chức.
1.2- Công tác của cán bộ quản lý
1.2.1- Nội dung công tác của cán bộ quản lý
Công tác cán bộ quản lý là quá trình đảm bảo nguồn nhân lực cho hoạt động quản lý với những nhiệm vụ cơ bản sau đây :
+ Phân tích nhu cầu về nhân lực quản lý và nguồn cán bộ quản lý tổ chức.
+ Tuyển chọn , bố trí và hòa nhập cán bộ quản lý.
+ Di chuyển và đề bạt cán bộ quản lý.
+ Đánh giá cán bộ quản lý.
+ Đãi ngộ cán bộ quản lý.
+ Đào tạo và phát triển cán bộ quản lý.
Công tác cán bộ, ảnh hưởng đến chức năng lãnh đạo và kiểm tra. Những người quản lý được đào tạo tốt sẽ có khả năng tạo dựng môi trường làm việc thuận lợi để mọi người, khi làm việc theo nhóm, có thể đạt được các mục tiêu của tổ chức và mục đích cá nhân của mình. Nói cách khác, công tác cán bộ hợp lý sẽ làm cho lãnh đạo hiệu quả hơn. Tương tự, việc lựa chọn được những người quản lý có chất lượng cũng ảnh hưởng tốt đến công tác kiểm tra, ví dụ như qua việc họ có thể loại trừ được nhiều sai lệch so với các kế hoạch, không để chúng trở thành những vấn đề lớn .
Công tác cán bộ đòi hỏi phải áp dụng phương pháp tiếp cận hệ thống mở. Tuy được thực hiện trong tổ chức, công tác này có mối quan hệ chặt chẽ với môi trường bên ngoài. Vì vậy, các yếu tố nội bộ tổ chức, chẳn hạn như các chính sách quản lý nguồn nhân lực hay bầu không khí trong tổ chức phải được tính đến, đồng thời không bỏ qua các yếu tố của môi trường bên ngoài. Ví dụ, xu thế sử dụng công nghệ cao đòi hỏi phải có nhà quản lý được đào tạo cẩn thận, bồi dưỡng chu đáo và rất lành nghề. Việc không thể đáp ứng những nhu cầu về những người quản lý như vậy có thể sẽ gây trở ngại cho tổ chức trong việc phát triển với tốc độ mong muốn.
1.2.2- Phong cách làm việc của cán bộ quản lý
Phong cách làm việc của cán bộ quản lý là tổng thể các biện pháp, các thói quen, các cách cư xử đặc trưng mà người đó sử dụng trong quá trình giải quyết công việc hàng ngày để hoàn thành nhiệm vụ.
* Các phong cách làm việc cơ bản:
- Phong cách cưỡng bức
Là phong cách làm việc trong đó nhà quản lý chỉ dựa vào kiến thức, kinh nghiệm, quyền hạn của mình để tự đề ra các quyết định rồi bắt buộc cấp dưới phải thực hiện nghiêm chỉnh, không được thảo luận hoặc bàn bạc gì thêm. Phong cách cưỡng bức có ưu điểm là giải quyết mọi vấn đề một cách nhanh chóng và giữ được bí mật ý đồ. Tuy nhiên với phong cách này nhà quản lý sẽ triệt tiêu tính sáng tạo của mọi người trong tổ chức.
Phong cách cưỡng bức đặc biệt cần thiết khi tổ chức hay bộ phận mới thành lập, khi có nhiều mâu thuẫn và sung đột phát sinh trong hệ thống, khi cần phải giải quyết những vấn đề khẩn cấp và cần giữ bí mật.
- Phong cách dân chủ
Nhà quản lý có phong cách làm việc dân chủ rất quan tâm thu hút tập thể tham gia thảo luận đẻ quyết định các vấn đề của đơn vị, thực hiện rộng rãi chế độ ủy quyền.
Phong cách dân chủ phát huy được tính sáng tạo của đội ngũ nhân lực và tạo được bầu không khí phấn khởi, nhất chí trong tập thể. Nhung phong cách này có thể làm chậm quá trình ra quyết định dẫn đến mất thời cơ.
Với khả năng và trình độ ngày càng cao của đội ngũ nhân lực phong cách dân chủ ngày càng được sử dụng rộng rãi và trở thành phong cách làm việc có hiệu quả nhất đối với các cán bộ quản lý ở hầu hết các tổ chức, đặc biệt là các doanh nghiệp.
- Phong cách tự do
Người cán bộ quản lý có phong cách này tham gia rất ít vào công việc tập thể thường chỉ xác định các mục tiêu cho đơn vị mà mình phụ trách rồi để cho các cấp dưới tự do hành động để đi đến mục tiêu.
Phong cách tự do có ưu điểm là tạo ra khả năng chủ động sáng tạo tối đa cho con người. Tuy nhiên, nó dễ đưa tập thể tới tình trạng vô chính phủ và đổ vỡ.
Phong cách này chỉ có thể áp dụng có hiệu quả đối với những đơn vị có các mục tiêu độc lập, rõ ràng và có đội ngũ nhân lực có kỹ năng và ý thức kỷ luật cao. Trong các tổ chức khác, chỉ nên sử dụng phong cách tự do khi thảo luận những vấn đề nhất định mà thôi.
Cán bộ quản lý là những người giữ chức vụ và trách nhiệm cao trong mỗi tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của bộ máy, có vai trò tham gia định hướng điều khiển hoạt động của bộ máy đó. Cán bộ quản lý là người xây dựng kế hoạch, ra quyết định, tổ chức, điều hành, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp, để duy trì hoạt động thường xuyên một cách tối ưu để thực hiện các chương trình kế hoach mục tiêu của doanh nghiệp đó
1.3- Tính cấp thiết của việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp
Yêu cầu, nhiệm vụ của việc xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay là phải phát huy được những lợi thế, tận dụng được mọi khả năng để đạt trình độ công nghiệp tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111461.doc