Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đã và đang là một đặc điểm nổi bật, một xu hướng tất yếu của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài quá trình hội nhập nếu không muốn bị gạt ra ngoài sự phát triển kinh tế và tụt hậu.
Phù hợp với xu thế này, Việt Nam đang tham gia tích cực và có hiệu quả vào Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hợp tác kinh tế là lĩnh vực quan trọng nhất. Song song với việc thúc đẩy các quan hệ chính trị, các quan hệ kinh tế bắt đầu được đẩy mạnh, thông qua sự tăng trưởng về kim nghạch buôn bán giữa Việt Nam - ASEAN và hoạt động đầu tư ngày càng nhộn nhịp của các nước ASEAN vào Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam đã tham gia vào chương trình hợp tác kinh tế lớn nhất và được coi là triển vọng nhất trong khuôn khổ ASEAN, đó là chương trình xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Việc tham gia AFTA là điểm khởi đầu trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào kinh tế khu vực. Đây chính là điều kiện thuận lợi đối với Việt Nam trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nhanh chóng hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, giảm bớt khoảng cách phát triển kinh tế với các nước khác.
Một trong những biểu hiện của hội nhập kinh tế là vấn đề tự do hóa thương mại, các nước phải hạ thấp, thậm chí loại bỏ rào cản thương mại: hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đối với các nước đang phát triển như nước ta, thuế xuất nhập khẩu là một công cụ bảo hộ để phát triển sản xuất trong nước, điều chỉnh, kiểm soát hoạt động ngoại thương và là một nguồn thu quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong Ngân sách Nhà nước. Việc hạ thấp thuế xuất nhập khẩu sẽ ảnh hưởng tới các mục tiêu trên, chính vì vậy chính sách thuế xuất nhập khẩu đang có những bức xúc đòi hỏi hoàn thiện phù hợp với tiến trình hội nhập ASEAN.
Nhận thức được điều này, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: " Những giải pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong tiến trình Việt Nam hội nhập ASEAN" để nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống chính sách thuế xuất nhập khẩu Việt Nam, tình hình hội nhập ASEAN của Việt Nam và thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Phân tích thực trạng của chính sách thuế xuất nhập khẩu trong thời gian qua, làm rõ tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu và con đường hội nhập AFTA đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam; trên cơ sở đó chỉ ra những mặt hạn chế của chính sách thuế xuất nhập khẩu, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thhiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong thời gian tiếp theo của tiến trình hội nhập.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Đề tài sử dụng các phương pháp biện chứng, kết hợp giữa thực tiễn và lãi suất luận, phân tích tổng hợp, sử dụng các phương pháp thống kê toán học, mô hình đồ thị để làm rõ kết quả nghiên cứu. Đồng thời, thông qua khảo sát thực tiễn để minh họa, có những nhận xét đánh giá và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu.
Kết cấu của luận văn tốt nghiệp này gồm:
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: Thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập ASEAN
CHƯƠNG II: Thực trạng chính sách của Việt Nam và tình hình thực hiện AFTA ở Việt Nam
CHƯƠNG III: Định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong tiến trình Việt Nam hội nhập ASEAN
KẾT LUẬN
Do hiểu biết của bản thân và thời gian nghiên cứu có hạn, nên bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất trân trọng và mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và bạn đọc để bài viết được tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hơn.
128 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1214 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Những giải pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong tiến trình Việt Nam hội nhập ASEAN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
T
rong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đã và đang là một đặc điểm nổi bật, một xu hướng tất yếu của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài quá trình hội nhập nếu không muốn bị gạt ra ngoài sự phát triển kinh tế và tụt hậu.
Phù hợp với xu thế này, Việt Nam đang tham gia tích cực và có hiệu quả vào Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) trên tất cả các lĩnh vực, trong đó hợp tác kinh tế là lĩnh vực quan trọng nhất. Song song với việc thúc đẩy các quan hệ chính trị, các quan hệ kinh tế bắt đầu được đẩy mạnh, thông qua sự tăng trưởng về kim nghạch buôn bán giữa Việt Nam - ASEAN và hoạt động đầu tư ngày càng nhộn nhịp của các nước ASEAN vào Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam đã tham gia vào chương trình hợp tác kinh tế lớn nhất và được coi là triển vọng nhất trong khuôn khổ ASEAN, đó là chương trình xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Việc tham gia AFTA là điểm khởi đầu trong quá trình hội nhập của Việt Nam vào kinh tế khu vực. Đây chính là điều kiện thuận lợi đối với Việt Nam trong việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nhanh chóng hòa nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, giảm bớt khoảng cách phát triển kinh tế với các nước khác.
Một trong những biểu hiện của hội nhập kinh tế là vấn đề tự do hóa thương mại, các nước phải hạ thấp, thậm chí loại bỏ rào cản thương mại: hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Đối với các nước đang phát triển như nước ta, thuế xuất nhập khẩu là một công cụ bảo hộ để phát triển sản xuất trong nước, điều chỉnh, kiểm soát hoạt động ngoại thương và là một nguồn thu quan trọng, chiếm tỷ lệ lớn trong Ngân sách Nhà nước... Việc hạ thấp thuế xuất nhập khẩu sẽ ảnh hưởng tới các mục tiêu trên, chính vì vậy chính sách thuế xuất nhập khẩu đang có những bức xúc đòi hỏi hoàn thiện phù hợp với tiến trình hội nhập ASEAN.
Nhận thức được điều này, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: " Những giải pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong tiến trình Việt Nam hội nhập ASEAN" để nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hệ thống chính sách thuế xuất nhập khẩu Việt Nam, tình hình hội nhập ASEAN của Việt Nam và thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Mục đích nghiên cứu của đề tài là: Phân tích thực trạng của chính sách thuế xuất nhập khẩu trong thời gian qua, làm rõ tác động tích cực của hoạt động xuất nhập khẩu và con đường hội nhập AFTA đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam; trên cơ sở đó chỉ ra những mặt hạn chế của chính sách thuế xuất nhập khẩu, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thhiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong thời gian tiếp theo của tiến trình hội nhập.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài: Đề tài sử dụng các phương pháp biện chứng, kết hợp giữa thực tiễn và lãi suất luận, phân tích tổng hợp, sử dụng các phương pháp thống kê toán học, mô hình đồ thị để làm rõ kết quả nghiên cứu. Đồng thời, thông qua khảo sát thực tiễn để minh họa, có những nhận xét đánh giá và đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu.
Kết cấu của luận văn tốt nghiệp này gồm:
Lời mở đầu
Chương I: Thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập ASEAN
Chương II: Thực trạng chính sách của Việt Nam và tình hình thực hiện AFTA ở Việt Nam
Chương III: Định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế xuất nhập khẩu trong tiến trình Việt Nam hội nhập ASEAN
Kết luận
Do hiểu biết của bản thân và thời gian nghiên cứu có hạn, nên bài viết này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất trân trọng và mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và bạn đọc để bài viết được tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hơn.
Chương I: thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập ASEAN
A. Những vấn đề chung về thuế trong điều kiện hội nhập
I. Những vấn đề chung về thuế
1. Nguồn gốc và bản chất của thuế
Thuế ra đời là một sự cần thiết khách quan gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước. Sự xuất hiện của thuế trong kỷ nguyên của nhân loại gắn liền với nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Nhà nước là một tổ chức chính trị, đại diện cho quyền lợi của giai cấp thống trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống trị đặt ra để cai trị xã hội. Để duy trì sự tồn tại của mình, đồng thời đảm nhận được vai trò cung cấp hàng hoá công cộng thì Nhà nước cần có những nhu cầu chi tiêu chung có tính chất xã hội. Do đó, nhà nước phải dùng quyền lực chính trị vốn có để giành lấy một bộ phận của cải xã hội để phục vụ cho chức năng, nhiệm vụ của mình.
Việc thu động tập trung nguồn của cải đó vào trong tay Nhà nước có thể được thực hiện bằng các phương pháp khác nhau: đóng góp bắt buộc và đóng góp tự nguyện. Công cụ thực hiện yêu cầu tất yêú đó dưới hình thức phân phối có tính chất bắt buộc để chuyển giao một phần thu nhập của xã hội cho Nhà nước được gọi là thuế. Thuế luôn luôn gắn chặt với sự phát triển của Nhà nước. Mặc dù quan niệm về thuế mỗi thời mỗi khác nhưng đều mang những dặc điểm chung sau: Nội dung kinh tế của thuế được dặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt - việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước, xét theo khía cạnh luật pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu và thời hạn nhất định.
Do vậy ta có thể nói: Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
2. Các đặc trưng của thuế
Thuế có những đặc trưng riêng để phân biệt với các công cụ tài chính khác.
* Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập của các tầng lớp trong xã hội cho nhà nước mang tính bắt buộc phi hình sự. Tính bắt buộc phi hình sự là thuộc tính cơ bản vốn có của thuế, nó phân biệt thuế với các hình thức huy động tài chính khác của ngân sách nhà nước. Đặc điểm này vạch rõ nội dung kinh tế của thuế là những quan hệ tiền tệ, được hình thành một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt-việc động viên mang tính chất bắt buộc của nhà nước. Phân phối mang tính chất bắt buộc dưới hình thức thuế là một phương thức phân phối của nhà nước mà kết quả của nó là một bộ phận thu nhập của người nộp thuế được chuyển giao cho nhà nước mà không kèm theo một sự cấp phát hoặc những quyền lợi nào khác cho người nộp thuế. Tính chất bắt buộc của thuế không có nội dung hình sự, nghĩa là hành động đóng thuế cho nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có biểu hiện phạm pháp, mà hành động đóng thuế là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân.
Từ đặc trưng này, thuế không giống như các hình thức huy động tài chính khác của nhà nước như phí, lệ phí, công trái hoặc hình thức phạt bằng tiền.
* Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không mang tính chất hoàn trả trực tiếp.
- Mức thuế mà các tầng lớp trong xã hội chuyển giao cho nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ người nộp thuế thừa hưởng những dịch vụvà hàng hoá công cộng do nhà nước cung cấp. Người nộp thuế không có quyền đòi hỏi nhà nước phải cung cấp hàng hoá công cộng trực tiếp cho mình mới phát sinh khoản chuyển giao thu nhập cho nhà nước, mặt khác mức độ cung cấp dịch vụ công cộng của nhà nước cũng không nhất thiết ngang bằng mức độ chuển giao. Mức độ chuyển giao thu nhập nhiều hay ít chỉ căn cứ vào kết quả hoạt động kinh tế và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội cũng như nhu cầu tài chính chung của nhà nước.
- Khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không được hoàn trả trực tiếp có nghĩa là người nộp thuế suy cho cùng sẽ nhận được một phần các dịch vụ công cộng mà nhà nước cung cấp chung cho cả cộng đồng, giá trị phần dịch vụ đó không nhất thiết tương đồng với khoản tiền thuế mà họ nộp cho nhà nước
* Việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế được quy định trước bằng luật pháp
Điều này thể hiện tính pháp lý cao của thuế, mặt khác phản ánh sự chuyển giao thu nhập này không mang tính chất tuỳ tiện mà dựa trên những cơ sở pháp luật nhất định và đã được xác định trước trong luật thuế (đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, mức thuế phải nộp, thời hạn cụ thể và những chế tài mang tính cưỡng chế khác).
* Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chịu ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị và xã hội trong những thời kỳ nhất định.
* Các khoản chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế chỉ được giới hạn trong phạm vi biên giới quốc gia với quyyền lực pháp lý của nhà nước đối với con người, tài sản.
3. Phân loại thuế
Phân loại thuế là việc sắp xếp các sắc thuế trong hệ thống thuế thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định.
Có nhiều tiêu thức phân loại khác nhau được sử dụng ở nước ta và trên thế giới. Dưới đây là một số cách phân loại chủ yếu:
*Phân loại dựa vào phương thức đánh thuế
Các hình thức thuế suy cho cùng đều đánh vào thu nhập của người nộp thuế. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào phương thức đánh thuế: đánh một cách trực tiếp hay gián tiếp mà người ta chia hệ thống thuế thành 2 loại:
- Thuế trực thu: Là loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế
Thuế trực thu có đặc điểm là đối tượng nộp thuế theo luật quy định đồng nhất với đối tượng chịu thuế. Về nguyên tắc thuế này mang tính chất tthuế luỹ tiến vì nó tính đến khả năng thu nhập của người nộp thuế. ở nước ta thuế trực thu bao gồm: thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất...
- Thuế gián thu: Là loại thuế không đánh trực tiếp vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hoá và dịch vụ. Người tiêu dùng hoặc người cung cấp những hàng hoá và dịch vụ là những người chịu thuế này.
Đặc điểm của thuế gián thu là người nộp thuế theo luật và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Loại thuế này có sự chuyển dịch gánh nặng thuế trong những trường hợp nhất định. Thuế gián thu có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuấtt kinh doanh thông qua cơ chế giá cả trên thị trường. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng đó của thuế gián thu không những chịu sự chi phối của mối quan hệ cung cầu trên thị trường, mà còn phụ thuộc vào bản chất của thị trường đó là cạnh tranh hay độc quyền.
* Phân loại dựa vào cơ sở đánh thuế
Cơ sở đánh thuế chỉ rõ thuế đánh trên cái gì. Nếu dựa vào cơ sở đánh thuế, ta có thể chia sắc thuế thành 3 loại:
- Thuế thu nhập: Bao gồm các sắc thuế có cơ sở đánh thuế là thu nhập kiếm được. Thu nhập kiếm được hình thành từ nhiều nguồn; từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi tức, cổ phần.. Thu nhập được biểu hiện dưới nhiều dạng, do đó thuế thu nhập cũng có nhiều dạng: thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập công ty, thuế lợi nhuận chuyển ra nước ngoài..
- Thuế tiêu dùng là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu nhập được mang tiêu dùng trong hiện tại. Trong thực tế loại thuế tiêu dùng được thể hiện dưới nhiều dạng như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng..
- Thuế tài sản là các loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản. Tài sản có nhiều hình thức biểu hiện: tài sản tài chính gồm có tiền mặt, tiền gửi, chứng khoán, thương phiếu.., tài sản cố định gồm nhà cửa, đất đai, máy moc, nhà máy, xe cộ.., tài sản vô hình như nhãn hiệu, kỹ thuật và thiện trí..v..v..
Nói chung thuế tài sản thường đánh trên giá trị tài sản cố định gọi là thuế bất động sản; đánh trên tài sản tài chính gọi là thuế động sản.
* Phân loại dựa trên tính ưu đãi về khả năng nộp thuế
Căn cứ vào khả năng nộp thuế có thể chia các sắc thuế thành 2 loại:
- Thuế thực: Là loại thuế không dựa vào khả năng của người nộp thuế. Loại thuế này có tính tương đồng với thuế gián thu. Thuế thực tthu vào các dạng tài sản riêng biệt của người nộp thuế trên cơ sở mức sinh lợi trung bình của các tài sản đó mà không phải từ thu nhập tthực tế của người nộp thuế. Các loại thuế thực bao gồm: thuế điền thổ, thuế nhà cửa, thuế tài sản. Người nộp thuế thực là người sở hữu tài sản. Số thuế phải nộp được tính trên mức độ thu nhập trung bình của tài sản.
- Thuế cá nhân là loại thuế dựa trên khả năng của người nộp thuế. Loại thuế này có tính tương đồng với thuế trực thu. Thuế cá nhân là thuế đánh vào thu nhập của người nộp thuế và được thu ngay từ khâu phát sinh thu nhập hoặc do khai báo. Khác với thuế thực, thuế cá nhân có tính đến khả năng thu nhập, hoàn cảnh gia đình và tình hình tài chính của người nộp thuế. Các loại thuế cá nhân bao gồm: thuế thu nhập cá nhân, thuế lợi tức chứng khoán, thuế lợi nhuận công ty, thuế lợi nhuận siêu ngạch, thuế chuyển nhượng tài sản.
II. Thuế xuất nhập khẩu trong điều kiện hội nhập
1. Sự hình thành và bản chất kinh tế của thuế xuất nhập khẩu
Trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung ở nước ta, do Nhà nước thực hiện độc quyền ngoại thương nên chỉ có các tổ chức kinh tế nhà nước mới được phép trao đổi hàng hoá với nước ngoài thông qua các tổ chức xuất nhập khẩu.thị trường buôn bán ngoại thương rất hẹp, chủ yếu được thực hiện trong phạm vi các nước XHCN. Trong bối cảnh đó về phương diện tài chính, Nhà nước thực hiện chế độ bù trừ chênh lệch ngoại thương. Nhiệm vụ chủ yếu của chế độ này là Nhà nước đảm bảo về mặt tài chính cho các tổ chức xuất nhập khẩu. Chế độ bù trừ chênh lệch ngoại thương chưa đặt ra mục tiêu thu NSNN và quản lý các hoạt động ngoại thương.
Việc chuyển sang cơ chế thị trường, cùng với chủ trương mở rộng kinh tế đối ngoại đã làm cho hoạt động ngoại thương nước ta có điều kiện phát triển trên nhiều phương diện: thành phần tham gia, thị trường, mặt hàng...Hoạt động ngoại thươngtrở nên đa dạng, phong phú, mang lại nhiều lợi ích cho quốc gia. Song trong bối cảnh đó, do có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế trong hoạt động ngoại thương đã làm cho bức tranh ngoại thương trở nên lộn xộn phức tạp. Vì vậy sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động ngoại thương là một đòi hỏi khách quan trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường. Khác với sự can thiệp của Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, sự can thiệp của Nhà nước đối với hoạt động ngoại thương hiện nay chủ yếu được thực hiện bằng các chính sách, công cụ kinh tế tài chính. Một trong những chính sách công cụ đó là chính sách thuế xuất nhập khẩu.
Ngày 26/12/1991, Luật thuế xuất nhập khẩu của nước CHXHCN Việt Nam ra đời.
Luật thuế xuất nhập khẩu ra đời nhằm các mục đích chủ yếu sau:
- Quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu
- Góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
- Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu
- Góp phần phát triển và bảo vệ sản xuất hướng dẫn tiêu dùng trong nước
- Huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
2. Vị trí, vai trò của thuế xuất nhập khẩu trong nền kinh tế
a). thuế xuất nhập khẩu là một công cụ của chính sách thương mại
chính sách tự do hóa thương mại: cơ sở của chính sách này là học thuyết về lợi thế so sánh của nhà kinh tế học người Anh David Ricardo. Lý thuyết này được phát biểu như sau: " Mỗi nước sẽ có lợi nếu chuyên môn hóa sản xuất và xuất khẩu các hàng hóa mà mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp; ngược lại, mỗi nước sẽ có lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà nó sản xuất với chi phí tương đối cao". Có thể minh họa lý thuyết này bằng ví dụ:
Sản phẩm
Chi phí về lao động để sản xuất 1 đơn vị hàng hóa (giờ)
Luồng thương mại
Châu á
Châu Âu
Châu á
Châu Âu
1/ 01 đơn vị quần áo
2/ 01 đơn vị thực phẩm
2
1
4
3
Xuất khẩu thực phẩm và nhập khẩu quần áo từ Châu Âu
Xuất khẩu quần áo và nhập khẩu thực phẩm từ Châu á
Trước thương mại: Theo nguyên tắc trao đổi ngang giá thì
Tại Châu á: 1 đơn vị thực phẩm = 0,5 đơn vị quần áo
Tại Châu Âu: 1 đơn vị thực phẩm = 3/4 đơn vị quần áo
Qua tỷ lệ trao đổi ở 2 khu vực cho thấy, ở Châu á có giá thực phẩm tương đối rẻ hơn so với giá quần áo. Còn ở Châu Âu có giá thực phẩm tương đối đắt so với giá quần áo.
Sau thương mại: Bây giờ, giả định xóa bỏ hàng rào bảo hộ mậu dịch, thực hiện sự tự do thương mại và chi phí vận tải không đáng kể. Khi đó, Châu á chuyên môn hóa sản xuất thực phẩm và mang một phần sản phẩm của mình sang châu Âu, nơi có giá hực phẩm tương đối cao và giá quần áo tương đối rẻ hơn ở Châu á. Còn ở Châu Âu thì ngược lại. Như vậy, cả hai khu vực đều có lợi thông qua thương mại. Ngoài ra, sau khi có thương mại, một giờ lao động của công nhân Châu á mua được nhiều quần áo nhập khẩu hơn còn công nhân Châu Âu mua đưọc nhiều thực phẩm hơn, đời sống của mọi người khá hon trước do tiền lương thực tế cao hơn.
Với những quốc gia theo đuổi chính sách này thì sự cần thiết là xóa bỏ hàng rào thuế quan.
- chính sách bảo hộ mậu dịch: để bảo hộ nền kinh tế trong nước trước sự cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài, những quốc gia theo đuổi chính sách bảo hộ mậu dịch thường thi hành chính sách thuế quan cao, nhằm hạn chế những tác động tiêu cực và tạo điều kiện cho các ngành sản xuất trong nước phát triển.
Tuy nhiên trên thực tế, không phải lúc nào những luận điểm nà là luôn đúng, thậm chí có nhiều trường hợp phản tác dụng.
b). thuế xuất nhập khẩu và vấn đề việc làm
Thuế quan làm tăng giá trị hàng nhập khẩu do vậy, có tác dụng hướng cầu vào sản phẩm nội địa, tạo cơ hội cho các ngành sản xuất trong nước phát triển và giảm tỷ lệ thất nghiệp.
c). thuế xuất nhập khẩu và vấn đề công nghệ, đầu tư nước ngoài.
Các nhà kinh tế học cổ điển đã lập luận như sau: Giả sử nước A có lợi thế về lao động, nước B có lợi thế về kỹ thuật. Để tranh thủ được kỹ thuật của nước B, nước A sẽ đánh thuế cao đối với những sản phẩm của nước B. Nước B để tránh bị đánh thuế cao sẽ chuyển giao vốn và kỹ thuật sang nước A (đầu tư nước ngoài) để sản xuất sản phẩm tại nước A. Khi đó A sẽ có được công nghệ của B và cộng với lợi thế về lao động, chi phí trung bình tại A sẽ thấp hơn tại B, do đó hàng hóa của A sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn hàng hóa của B. Tuy nhiên trên thực tế, lập luận này là không vững và không đảm bảo cho điều kiện hoạt động.
d.) thuế xuất nhập khẩu và vấn đề chủ quyền quốc gia
e). thuế xuất nhập khẩu là một bộ phận của chính sách tài chính quốc gia.
3. Chính sách thuế xuất nhập khẩu và vấn đề xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu
3.1 Khái niệm:
Chính sách thuế xuất nhập khẩu là tổng hợp các phương hướng của nhà nước vào từng giai đoạn trong lĩnh vực nộp thuế xuất nhập khẩu và các biện pháp thủ pháp để đạt được các mục tiêu đã định.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập tronh nền kinh tế quốc dân dưới hình thức thuế xuất nhập khẩu. Chính sách thuế xuất nhập khẩu được thể hiện bằng cách thiết lậo các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế xuất nhập khẩu; xác định biểu thuế xuất nhập khẩu và ưu so sánhãi thuế xuất nhập khẩu trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Chính sách thuế xuất nhập khẩu là một bộ phận quan trọng cấu thành của nền kinh tế nói chung, chính sách kinh tế đối ngoại của một quốc gia. Nhiệm vụ cơ bản của nó là góp phần thực hiện chính sách kinh tế đối ngoại đảm bảo an toàn về kinh tế và công nghệ của đất nước, giải quyết các mục tiêu kinh tế, tài chính và chính sách thương mại.
3.2. Vấn đề xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu
a) Xác định mục tiêu của chính sách thuế xuất nhập khẩu
- Mục tiêu ngân sách: thuế xuất nhập khẩu có nhiệm vụ động viên tối đa nguồn tài chính do hoạt động ngoại thương mang lại tập trung và ngân sách nhà nước. Để đạt được mục tiêu này, con đường đúng đắn là mở rộng, thúc đẩy hoạt động ngoại thương. Tuy nhiên, có những nước, đặc biệt là những nước đang phát triển do hoạt động ngoại thương chưa phát triển nên thường coi biện pháp tối đa thuế quan làm biện pháp chủ yếu để đạt được mục đích. Biện pháp này đôi khi lợi bất cập hại.
- Mục tiêu bảo hộ nền sản xuất trong nước: Tuỳ theo đặc điểm kinh tế của mỗi nước mà mục tiêu này được xem xét ở các mức độ khác nhau. ậ những nước có nền kinh tế phát triển cao, khả năng cạnh tranh của hàng hoá nội địa lớn thì biện pháp thuế quan được sử dụng cho mục đích này thương ít được coi trọng. Song đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển hoặc những nước theo đuổi chiến lược công nghiệp hóa thay thế hàng nhập khẩu, phát triển theo mô hình hướng nội, lấy độc lập, tự chủ kinh tế làm trọng thì hết sức coi trọng mục tiêu bảo hộ nền sản xuất trong nước.
- Mục tiêu kiểm soát hoạt động ngoại thương: Có nhiều công cụ được sử dụng để kiểm soát hoạt động ngoại thương như hạn ngạch, tỉ giá, thuế suất nhập khẩu..., nhưng công cụ thuế xuất - nhập khẩu có nhiều ưu điểm và được dùng nhiều hơn cả. Để khuyến khích xuất nhập khẩu một mặt hàng no đó biện pháp đơn giản là hạ thấp mức thuế xuất. Ngược lại, nếu muốn ngăn cản, hạn chế xuất nhập khẩu thì biện pháp tốt là nâng thuế xuất. Nâng cao ở một mức độ nhất định, thuế xuất nhập khẩu sẽ ngăn cản mọi hoạt động buôn bán trao đổi với nước ngoài.
- Mục tiêu thực hiện công bằng xã hội: Là một chính sách kinh tế xã hội, một công cụ điều hành vĩ mô nền kinh tế, chính sách thuế xuất nhập khẩu có mục tiêu thực hiện công bằng xã hội. Chính sách thuế xuất nhập khẩu thực hiện công bằng xã hội thông qua việc đánh thuế vào các mặt hàng xa xỉ nhập khẩu, điều tiết thu nhập của bộ phận dân cư có thu nhập cao, yêu thích hàng nhập khẩu thay cho việc tiêu dùng hàng trong nước.
b) Nguyên tắc cơ bản xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu
Có nhiều nguyên tắc khi xây dựng chính sách thuế xuất nhập khẩu. Nhưng hiện nay, trong xu thế hội nhập, các nhà hoạch định chính sách nhấn mạnh đến nguyên tắc sau:
Nguyên tắc tổng thể: Nguyên tắc này xem xét một cách tổng thể sự tác động của thuế quan đối với nền kinh tế của một nước.
Thuế xuất nhập khẩu là một công cụ để bảo hộ nền sản xuất trong nước, nhưng mặt khác thuế xuất nhập khẩu cũng gây ra những tác động tiêu cực, những phản ứng phụ khi dược áp dụng trong nền kinh tế. Để đánh giá hiệu quả của chính sách thuế xuất nhập khẩu, các nhà hoạch định chính sách phải luôn quan tâm so sánh những tác động tiêu cực, phản ứng phụ này với những mặt tích cực của chính sách.
Sau khi có thuế quan, giá của mặt hàng nhập khẩu ở thị trường nội địa tăng khiến người sản xuất trong nước có lợi, còn người tiêu dùng bị thiệt. điều này cũng tương tự đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Ví dụ: Khi cần bảo hộ một ngành A nào đó bằng cách tăng thuế quan để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoaì, thì cũng vô hình chung làm giảm vốn đầu tư vào các ngành khác mà có lẽ trong điều kiện bình thường các ngành đó sẽ nhận được vốn đầu tư nước ngoài. Người ta không thể chứng minh được một cách chắc chắn liệu làm cách nào thì có lợi hơn. Vấn đề này được minh họa bằng bảng sau:
Mối quan hệ giữa bảo hộ và đầu tư nước ngoài
Ngành C
Ngành B
Ngành A
- Khi không có thuế quan thì đầu tư nước ngoài được phân bổ bằng khả năng sinh lợi của các ngành. Giả sử có 3 ngành sau:
$ $ $
$ $ $
- Khi có thuế quan, các ngành được bảo hộ thu lợi (tăng vốn đầu tư) từ sự mất mát của các ngành khác.
$
$
$
Ngành C
Ngành B
Ngành A
$ $ $
Cũng có quan điểm cho rằng cần phải có một số hình thức bảo hộ để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thực sự sản xuất trong nội địa thay cho việc xuất sang nước đó. Theo quan điểm này, có một sự đánh đổi giữa đầu tư và thương mại, càng nhiều hoạt động thương mại có nghĩa là càng ít đầu tư, do vậy càng nhiều đầu tư càng ít đòi hỏi thương mại.
Nguyên tắc này đòi hỏi khi xây dựng chính sách thuế, các nhà hoạch định chính sách phải tính toán, cân nhắc lựa chọn đúng mục tiêu: bảo hộ, hay thương mại, hay đầu tư cho phù hợp với điều kiện của từng nước.
Tính minh bạch: Nguyên tắc minh bạch trong chính sách thuế quan đòi hỏi mục tiêu chính sách thuế xuất nhập khẩu phải được phân biệt một cách rõ ràng. Nói một cách cụ thể, chính sách thuế phải được thiết kế sao cho xác định được ngành nào, lĩnh vực nào được bảo hộ và cấp độ bảo hộ là bao nhiêu.
Nguyên tắc này là hệ quả hay là bước tiếp theo của nguyên tắc trên, bởi lẽ, bảo hộ kéo theo đánh đổi căn bản. Do vậy, điều này quan trọng là phải làm cho sự đánh đổi này thật minh bạch. Điều này cho phép các nhà hoạch định chính sách hiểu tác động do chính sách của họ đem lại.
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng, nhất là đối với những nước đang phát triển như nước ta, nơi mà chính sách thường không có mục tiêu nhất định, rõ ràng, sự tuỳ tiện thay đổi mục tiêu của chính sách bằng việc tuỳ tiện thay đôi mức thuế quan khiến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực phải gánh chịu hậu quả không xác định trước, gây khó khăn, thậm chí làm phá sản cả kế hoạch sản xuất kinh doanh của một ngành, một lĩnh vực.
Khả năng có thể dự đoán được: Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong bất kỳ ngành nào, lĩnh vực nào cũng đều phải lập kế hoạch. Và như vậy, chính sách của chính phủ phải đảm bảo khả năng có thể dự đoán được, sẽ thật phi lý nếu chính sách của chính phủ luôn thay đổi lam " phá sản" mọi kế hoạch sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đã lập trước.
Quan hệ giữa ba nguyên tắc này được biểu diễn như sau
Bối cảnh kinh tế
Tổng thể
Tính minh bạch Khả năng dự đoán được
b. Hợp Tác kinh tế ASEAN, căn cứ lý do dẫn đến hiệp ước AFTA
I. Bối cảnh lịch sử và sự cần thiết khách quan dẫn đến hiệp ước AFTA
Hiệp hội các nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100241.doc