Trong hơn mười năm qua , nhờ vận hành theo cơ chế thị trường mà nền kinh tế của nước ta đã đạt được những tiến bộ vượt bậc so với nền kinh tế theo cơ chế tập trung trước kia. Cùng với sự biến chuyển của cả nền kinh tế , hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam , sau khi được tổ chức lại thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định 53/HĐBT , đã có nhiều đóng góp đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước . Nhờ sự thay đổi này mà hệ thống ngân hàng thương mại cũng trở nên độc lập , linh hoạt và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên cơ chế thị trường cũng đặt ra nhiều thách thức cho tất cả các đơn vị kinh tế nói chung , cũng như các ngân hàng thương mại nói riêng . Rủi ro luôn là người bạn đồng hành với tất cả các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế thị trường , và ngân hàng thương mại với tư cách là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cũng không phải là một ngoại lệ .
Những dịch vụ cũng như các hình thức tín dụng mà ngân hàng cung cấp đã giúp cho các doanh nghiệp có thể tiến hành một cách dễ dàng hơn hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng qui mô sản xuất. Hiện nay có thể nói không có một doanh nghiệp nào có thể phát triển hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi mà không cần các dịch vụ hay các hình thức tín dụng ngân hàng . Nguồn vốn vay từ ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , và chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp .
Mặt khác hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng , cho nên bất kì một rủi ro nào mà doanh nghịêp gặp phải đều có khả năng mang đến rủi ro cho ngân hàng , và ngược lại bất cứ rủi ro nào mà ngân hàng gặp phải đều có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bản thân ngân hàng và cho các đối tác liên quan. Mà trong điều kiện kinh tế đầy biến động như hiện nay những nguy cơ tiềm ẩn như : sự biến động bất lợi của bối cảnh kinh tế , những kẻ hở pháp luật , vốn vay bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản, luôn có thể biến khoản vay tôt thành nợ khó đòi. Đó là nguy cơ mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đương đầu .
Chính vì thế mà rủi ro và vấn đề phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng bao giờ cũng là một vấn đề được quan tâm hàng đầu để tránh những tác động xấu đến hoạt động của các ngân hàng và có thể của nhiều doanh nghiệp hay của cả nền kinh tế.
Xuất phát từ lý do trên cùng với quá trình thực tập tại sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam , em xin mạnh dạn chọn đề tài “Những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam”
90 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1090 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Mục lục
Trang
Chương I lý luân tổng quan về ngân hàng thương mại
I.
Ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
5
1.
Khái niệm ngân hàng
5
2.
Nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại
5
2.1
Nghiệp vụ nợ
5
2.2
Nghiệp vụ có
7
2.3
Nghiệp vụ trung gian
11
3.
Vai trò của tín dụng ngân hàng
12
3.1
Khái niệm tín dụng ngân hàng
12
3.2
Các loại hình tín dụng ngân hàng
12
3.3
Vai trò của tín dung ngân hàng
15
II.
Rủi ro tín dụng
17
1.
Khái niệm về rủi ro và phân loại rủi ro
17
2.
Các loại rủi ro chủ yếu mà ngân hàng thương mại thường gặp
19
2.1
Rủi ro thuần tuý
19
2.2
Rủi ro lãi suất
19
2.3
Rủi ro tín dụng
19
2.4
Rủi ro hối đoái
20
2.5
Rủi ro nguồn vốn
20
3.
Rủi ro tín dụng
21
3.1
Hậu quả của rủi do tín dụng
21
3.2
Nguyên nhân gây rủi ro tín dụng
23
3.3
Những dấu hiệu của rủi ro tín dụng
27
3.4
Đo lường rủi ro tín dụng
31
Chương II : Thực trạng về rủi ro tín dụng tại SGD1
I.
Tổng quan về sở giao dịch 1
34
1.
Giới thiệu về sở giao dịch 1
34
2.
Đặc điểm về thị trường của sở giao dịch 1
36
II.
Tình hình hoạt động kinh doanh của sở giao dịch 1 ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
38
1.
Tình hình huy động vốn
39
2.
Hoạt động tín dụng
41
3.
Công tác khách hàng
42
4.
Dịch vụ ngân hàng
43
III.
Thực trạng rủi ro tín dụng
45
1.
Tình hình cho vay và thu nợ tại sở giao dịch
45
2.
Thực trạng rủi ro tín dụng tại sở giao dịch 1 ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
47
2.1
Tình hình nợ quá hạn tại sở giao dịch
47
2.2
Nguyên nhân gây nợ quá hạn tại sở giao dịch 1
53
2.2.1
Nguyên nhân khách quan
53
2.2.2
Nguyên nhân chủ quan từ phía sở giao dịch
58
3.
Những biện pháp mà sở giao dịch đã áp dụng nhằm ngăn ngừa và xử lí rủi ro tín dụng
61
3.1
Nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng tín dụng
61
3.2
Ngăn ngừa và xử lí các khoản nợ khó đòi
62
3.3
Thực hiện san sẻ rủi ro tín dụng
62
3.4
Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng
63
Chương III : Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại sở giao dịch 1 ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
I.
Định hướng phát triển của sở giao dịch 1 ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
64
1.
Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính
64
2.
Cải thiện cơ cấu nợ có
65
2.1
Tăng trưởng nguồn vốn
65
2.2
Tăng trưởng nâng cao chất lượng tín dụng
66
3.
Dịch vụ và công nghệ ngân hàng
67
4.
Công tác tổ chức và đào tạo cán bộ
67
II.
Giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đưa ra cho sở giao dịch 1
67
1.
Tổ chức hợp lý khoa học qui trình cho vay
68
1.1
Nghiên cứu khách hàng
68
1.2
Giám sát khách hàng vay
69
1.3
Thu nợ
71
2.
Chuyên môn hoá một số khâu cơ bản của qui trình cho vay
71
3.
Thực hiện phân tán rủi ro tín dụng
72
4.
Không nên quá chú trọng đến vai trò của tài sản thế chấp trong cho vay
75
5.
Ngăn ngừa các khoản cho vay có khả năng dẫn tới nợ quá hạn
77
6.
Xử lý nợ quá hạn
78
6.1
Tổ chức khai thác
79
6.2
Thanh lý các khoản nợ khó đòi
80
7.
Xây dựng chiến lược kinh doanh
80
8.
Nâng cao quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ tín dụng
81
9.
Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ
82
10.
Đa dạng hoá việc cung cấp dịch vụ tư vấn kinh doanh cho khách hàng
83
III.
Một số kiến nghị với các cơ quan chức năng
84
1.
Nâng cao vai trò của qũi bảo hiểm tín dụng
84
2.
Tăng cường hiệu quả hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng ( CIC )
85
3.
Hoàn thành văn bản pháp luật về tài sản thế chấp
86
4.
Các biện pháp khác
87
5.
Một số kiến nghị với ngân hàng đầu tư và phát triển trung ương
87
Kết luận
90
Lời mở đầu
Trong hơn mười năm qua , nhờ vận hành theo cơ chế thị trường mà nền kinh tế của nước ta đã đạt được những tiến bộ vượt bậc so với nền kinh tế theo cơ chế tập trung trước kia. Cùng với sự biến chuyển của cả nền kinh tế , hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam , sau khi được tổ chức lại thành hệ thống ngân hàng hai cấp theo nghị định 53/HĐBT , đã có nhiều đóng góp đáng kể trong công cuộc xây dựng đất nước . Nhờ sự thay đổi này mà hệ thống ngân hàng thương mại cũng trở nên độc lập , linh hoạt và hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên cơ chế thị trường cũng đặt ra nhiều thách thức cho tất cả các đơn vị kinh tế nói chung , cũng như các ngân hàng thương mại nói riêng . Rủi ro luôn là người bạn đồng hành với tất cả các đơn vị kinh tế trong nền kinh tế thị trường , và ngân hàng thương mại với tư cách là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cũng không phải là một ngoại lệ .
Những dịch vụ cũng như các hình thức tín dụng mà ngân hàng cung cấp đã giúp cho các doanh nghiệp có thể tiến hành một cách dễ dàng hơn hoạt động sản xuất kinh doanh và mở rộng qui mô sản xuất. Hiện nay có thể nói không có một doanh nghiệp nào có thể phát triển hoạt động kinh doanh một cách thuận lợi mà không cần các dịch vụ hay các hình thức tín dụng ngân hàng . Nguồn vốn vay từ ngân hàng luôn đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , và chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp .
Mặt khác hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng , cho nên bất kì một rủi ro nào mà doanh nghịêp gặp phải đều có khả năng mang đến rủi ro cho ngân hàng , và ngược lại bất cứ rủi ro nào mà ngân hàng gặp phải đều có khả năng gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho bản thân ngân hàng và cho các đối tác liên quan. Mà trong điều kiện kinh tế đầy biến động như hiện nay những nguy cơ tiềm ẩn như : sự biến động bất lợi của bối cảnh kinh tế , những kẻ hở pháp luật , vốn vay bị sử dụng sai mục đích, khách hàng phá sản, luôn có thể biến khoản vay tôt thành nợ khó đòi. Đó là nguy cơ mà bất cứ ngân hàng nào cũng phải đương đầu .
Chính vì thế mà rủi ro và vấn đề phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng bao giờ cũng là một vấn đề được quan tâm hàng đầu để tránh những tác động xấu đến hoạt động của các ngân hàng và có thể của nhiều doanh nghiệp hay của cả nền kinh tế.
Xuất phát từ lý do trên cùng với quá trình thực tập tại sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam , em xin mạnh dạn chọn đề tài “Những biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tại SGDI ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam”
Chương I
Lý luận tổng quan về ngân hàng thương
mại và rủi ro tín dụng
I. Ngân hàng thương mại và tín dụng ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại xuất hiện trước từ thời trung cổ với hoạt động chủ yếu là đổi tiền. Tính chất vô danh của đồng tiền khiến cho những người kinh doanh tiền tệ có thể chuyển từ việc chỉ giữ hộ tiền (vàng) sang đổi hộ tiền, vận chuyển hộ tiền và dần dần khi họ tích luỹ được một số vốn nhất định họ sẽ tiến hành cho vay lấy lãi. Để có thể cho vay nhiều và thu được nhiều lợi nhuận những thương gia kinh doanh tiền tệ sẽ phải khuyến khích khách hàng gửi tiền nhiều bằng cách không thu phí giữ tiền và hơn nữa là trả lãi .Ngoài ra họ còn tiến hành nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng. Khi cả ba nghiêp vụ nợ (huy động vốn), nghiệp vụ có (cho vay) và nghiệp vụ trung gian (thanh toán) được hình thành thì lúc đó ngân hàng thực thụ đã xuất hiện. Và kể từ đó ngân hàng ngày càng phát triển về số vốn, về thị trường , về hoạt động và cả về công nghệ .
Như vậy có thể nói Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ . Hoạt động thường xuyên của nó là huy động vốn, cho vay và thực hiện những hoạt động trung gian khác .
2. Những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại
2.1. Nghiệp vụ nợ
Nghiệp vụ nợ hay còn gọi là nghiệp vụ tạo nguồn vốn và huy động vốn là một trong những nghiệp vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại. Thực hiện nghiệp vụ này Ngân hàng thương mại đã thực hiện được một phần chức năng tạo tiền.
Nếu không có hoạt động của các ngân hàng thương mại thì các doanh nghiệp nhất là những doanh nghiệp kinh doanh theo mùa sẽ gặp trường hợp có thời gian bị ứ đọng vốn nhưng lại cũng có khi không có vốn để sản xuất. Nhờ hoạt động của các ngân hàng mà các doanh nghiệp có thể gửi tiền vào khi không cần hoặc vay tiền khi thiếu vốn ngoài ra các doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng để sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng đây là một nguồn quan trọng mà ngân hàng có thể huy động được . Ngoài tiền gửi thanh toán của dân cư và các tổ chức kinh tế với kì hạn và lãi suất khác nhau ngân hàng còn có thể tạo nguồn vốn bằng cách phát hành trái phiếu , cổ phiếu hoặc cũng có thể vay ngân hàng khác hoặc các ngân hàng nước ngoài .
Nếu như ngân hàng thực hiện công tác tạo nguồn và huy động một cách thuận lợi thì các hoạt động khác của ngân hàng , đặc biệt là hoạt động tín dụng của ngân hàng cũng ít gặp khó khăn do được cung cấp đầy đủ vốn. Tuy nhiên yêu cầu đặt ra đối với ngân hàng là : luôn phải đảm bảo một khối lượng tiền gửi phù hợp với khả năng sử dụng của chính ngân hàng . Nhưng để xác định được nhu cầu sử dụng vốn của ngân hàng cần phải căn cứ vào nhu cầu của nền kinh tế mà cụ thể là nhu cầu của khách hàng của ngân hàng. Nếu lượng vốn huy động thừa ngân hàng sẽ phải chi trả một phần chi phí mà không mang lại lợi nhuận, còn nếu thiếu thì hoạt động của ngân hàng sẽ bị hạn chế.Cho nên có thể nói hoạt động huy động và tạo nguồn vốn là hoạt động cơ bản có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng , quyết định tới qui mô sử dụng vốn và cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng Chính vì vậy mà hoạt động này cần phải được chú trọng
2.2 Ngiệp vụ có
Ngiệp vụ có hay còn gọi là hoạt động sử dụng vốn là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng . Những hoạt động này rất đa dạng và phong phú nhưng có thể chia thành ba nhóm bao gồm : các hoạt động về ngân quĩ, các hoạt động cho vay, các hoạt động đầu tư.
Các hoạt động về ngân quĩ
Mục đích của các hoạt động về ngân quĩ là nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của ngân hàng , chính vì thế mà mỗi ngân hàng đều cần phải có một mức độ dự trữ thích hợp. Quản lý khoản mục dự trữ là một trong những trách nhiệm hàng đầu của ngân hàng , bởi xuất phát từ trách nhiệm đối với người gửi . Ngân hàng phải có trách nhiệm thanh toán tiền gửi cho khách hàng bất cứ lúc nào họ muốn rút vì quyền lợi của chính ngân hàng , vì nếu ngân hàng không thể hoàn trả cho khách hàng khi họ có nhu cầu , thì khách hàng sẽ mất lòng tin và gây khó khăn cho công tác huy động vốn của ngân hàng , còn nếu ngân hàng hoàn trả kịp thời thì có thể tạo niềm tin cho khách hàng và có thể nhận được nhiều tiền gửi, cho vay nhiều hơn.
Vì ngân hàng có ảnh hưởng lớn tới hoạt động của nền kinh tế cho nên cần phải có sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước để tránh tình trạng ngân hàng cho vay quá nhiều, mất khả năng thanh toán , gây ảnh hưởng tiêu cực. Thêm vào đó , hoạt động của ngân hàng cũng tạo thêm phương tiện thanh toán cho nền kinh tế , nhưng dư thừa quá cũng không tốt, cho nên nhà nước cần phải qui định mức dự trữ của ngân hàng thương mại để khống chế khả năng tạo tiền , nhằm thực hiện chính sách tiền tệ.
Như vậy khoản mục dự trữ của ngân hàng thương mại có thể được hình thành vì các lý do khác nhau nhưng có thể chia thành hai bộ phận bao gồm :
- Dự trữ bắt buộc theo qui định của nhà nước
- Dự trữ tự nguyện có thể để phục vụ khả năng thanh toán , hoặc cũng có thể do ngân hàng không thể cho vay được , hoặc cũng có thể ngân hang để lại để chờ cơ hội có lợi nhuận cao hơn
Dự trữ của một ngân hàng có thể tồn tại dưới các hình thái : Tiền mặt ở trong két , tiền gửi ngân hàng khác , số dư trong tài khoản của khách hàng , giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc.
Xác định đúng mức dự trữ phù hợp là một hoạt động quan trọng đối với mỗi một ngân hàng vì nếu dự trữ không đủ thì có thể gây mất khả năng thanh toán , nhưng nếu dự trữ dư thừa thì không tận dụng được nguồn vốn , làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Để xác định đúng mức dự trữ cho ngân hàng phải căn cứ vào nhiều yếu tố , trước hết là dự đoán một cách tương đối chính xác nhu cầu rút tiền của khách hàng dựa trên việc phân tích những kết quả thống kê trước đó cũng như dựa trên việc phân tích những biến động có thể có của nền kinh tế , đồng thời cũng phải dựa vào luồng tiền có thể trở về ngân hàng như : các khoản vay đến kì hạn thanh toán , các khoản lãi có thể thu được để xác định mức dự trữ phù hợp. Ngoài ra còn cần phải xác định các hình thái dự trữ cho phù hợp sao cho có lợi nhất cho ngân hàng .
b. Các hoạt động cho vay
Đây là hoạt động mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng nhưng có độ rủi ro rất cao. Vốn mà Ngân hàng thương mại sử dụng để cho vay chủ yếu suất phát từ nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế ngoài ra ngân hàng còn có thể sử dụng vốn tự có để cho vay. Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các ngân hàng thương mại đã và đang thực hiện các chức năng xã hội của mình làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó dẫn đến lợi nhuận nhiều hơn, đời sống kinh tế của nhân dân được nâng cao. Rõ ràng tín dụng ngân hàng có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của nền kinh tế, nó tạo ra khả năng tài trợ cho hoạt động công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp của đất nước. Vì thế nên mọi hoạt động cho vay của ngân hàng đều phải chịu sự giám sát nghiêm ngặt và phải tuân theo những qui định của các nhà chức trách cũng như các qui định của bản thân ngân hàng .
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ tới bản thân ngân hàng và những khách hàng mà nó phục vụ nên chính sách cho vay phải được thiết lập một cách cẩn thận sau khi xem xét đến toàn bộ những yếu tố ảnh hưởng . Hoạt động cho vay của một ngân hàng trước hết phụ thuộc vào tình hình vốn của nó, vốn của bản thân ngân hàng được xem như là lớp lá chắn cho các khoản tiền gửi của khách hàng, vì thế nên qui mô vốn có ảnh hưởng tới số lượng rủi ro mà một ngân hàng có thể chấp nhận được. Các ngân hàng có qui mô vốn lớn có thể cho vay với các kì hạn dài hơnvà nhiều rủi ro tín dụng hơn. Sau khi đã giành một lượng tài sản thích hợp cho dự trữ , các ngân hàng buộc phải xem xét tới tính ổn định của các khoản tiền gửi để tiến hành hoạch định chính sách cho vay. Ngoài ra khi hoạch định chính sách cho vay ngân hàng cũng cần phải tính tới các điều kiện kinh tế và những ảnh hưởng của chính sách tài chính tiền tệ của quốc gia. Nếu điều kiện kinh tế không thuận lợi thì các khoản vay cũng trở nên tự do hơn so với khi điều kiện kinh tế không thuận lợi.
Chính sách cho vay hợp lý chính là điều kiện quyết định sự thành công của một ngân hàng , nó cho phép ngân hàng khai thác tối đa nguồn vốn mà ngân hàng có và có thể huy động được đem lại lợi nhuận tối ưu cho ngân hàng.
c.Các hoạt động đầu tư
Khác với hoạt động cho vay ngân hàng chỉ đóng vai trò là chủ nợ, không trực tiếp tham gia quá trình sử dụng tiền mà chỉ có thể giám sát , thì khi đâu tư các ngân hàng có thể can thiệp vào quá trình sản xuất kinh doanh. Hoạt động đầu tư thông thường phải chịu rủi ro nhiều hơn hoạt động tín dụng nhưng lợi nhuận lại cao hơn và không dự tính trước một cách rõ ràng vì còn phụ thuộc vào hiệu quả của quá trình kinh doanh.
Mục đích của hoạt động đầu tư là nhằm cung cấp cho ngân hàng tính đa dạng , lợi nhuận , và là một khoản dự trữ thứ cấp khi cần thiết. Mỗi ngân hàng đều có một chính sách đầu tư riêng bởi vì sẽ là không khôn ngoan nếu không có một hoạt động đầu tư nào ngoài khu vực nó cho vay do một nguyên tắc đầu tiên , cốt yếu của hoạt động đầu tư là phân tán rủi ro . Chính sách đầu tư của một ngân hàng phụ thuộc vào lợi nhuận , nhu cầu thanh khoản và mức độ sẵn sàng chấp nhận rủi ro của chính ngân hàng đó.
Các hoạt động đầu tư của ngân hàng có thể dưới dang góp vốn liên doanh hoặc ngân hàng cũng có thể sử dụng vốn của mình để mua các chứng khoán trên thị trường . Tuy nhiên dù dưới hình thức nào , và với mục đích nào thì ngân hàng luôn phải quan tâm tới chất lượng và kì hạn của mỗi khoản đầu tư đặc biệt là chất lượng vì hoạt động đầu tư cũng đóng góp phần không nhỏ vào lợi nhuận của ngân hàng. Để đảm bảo chất lượng cho các khoản đầu tư ngân hàng thương mại phải đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm chống lại và hạn chế những rủi ro bất ngờ mà nó có thể gặp trong hoạt động đầu tư của mình. Ngoài ra kì hạn của các khoản đầu tư cũng là yếu tố mà ngân hàng cần phải quan tâm , bởi ngoài mục đích lợi nhuận ra , những tài sản này còn phải hỗ trợ cho nhu cầu thanh khoản của ngân hàng .
Chính sách đầu tư không những phải phù hợp với tình hình và nhu cầu của bản thân mỗi ngân hàng mà còn phải điều chỉnh sao cho phù hợp với tình hình kinh tế và những thay đổi khác có thể ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư như thay đổi về mặt chính sách , luật pháp ,và tình hình chính trị .Một chính sách đầu tư đúng đắn là lá chắn an toàn cho mọi ngân hàng thương mại .
2.3 Nghiệp vụ trung gian
Ngày nay cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ , với sự hỗ trợ của những thiết bị hiện đại , những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng ngày càng phong phú và đa dạng . Những dịch vụ này ngày càng mang lại nhiều lợi nhuận và đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng
Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa, nghiệp vụ thanh toán của ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần là trung gian thanh toán mà còn quản lý các phương tiện thanh toán một cách có hiệu quả. Hiện nay ở nhiều nước ngân hàng đã và đang trang bị hệ thống máy vi tính và các phương tiện kỹ thuật hiện đại khác nhằm làm cho quá trình thanh toán bù trừ, thanh toán liên hàng được thực hiện nhanh chóng, giảm bớt chi phí và đạt độ chính xác cao .
Ngoài hoạt động thanh toán Ngân hàng thương mại còn thực hiện một số dịch vụ như :nhận bảo quản tài sản cho cá nhân , dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ bảo quản vật có giá , quản lý chứng từ có giá , tư vấn cung cấp thông tin về kinh tế cho khách hàng ...
Những hoạt động này luôn phát triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế và càng khẳng định sự hữu ích và vai trò quan trọng của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường.
3. Vai trò của tín dụng ngân hàng
3.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Ngày nay , các ngân hàng thương mại là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống kinh tế –xã hội. Thông qua cơ chế thị trường, ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển giao đúng nơi , đúng lúc, phù hợp với nhu cầu vốn trong sản xuất kinh doanh. Các ngân hàng thương mại , thực hiện việc cung cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng , đồng thời thông qua hoạt động này ngân hàng cũng thu được lợi nhuận cho mình.
Về bản chất tín dụng là một quan hệ kinh tế , trong đó các chủ thể chuyển nhượng cho nhau quyền sử dụng một lượng giá trị hoặc hoặc hiện vật với những điều kiện do cả hai bên thoả thuận , những điều kiện đó có thể là những điều kiện về lượng tiền hoặc hàng hoá , về thời hạn , về lãi trả , phương thức trả , điều kiện đảm bảo.... Như vậy tín dụng ngân hàng thực chất là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lưọng vốn nhất định của ngân hàng cho người khác (người đi vay) trong một khoảng thời gian nhất định với những điều kiện cụ thể về thời gian hoàn trả và về lãi suất.
Trong tất cả các hình thức khác nhau của quan hệ tín dụng thì tín dụng ngân hàng là loại hình tín dụng phát triển nhanh chóng và đa dạng nhất . Cùng với sự phát triển của mọi mặt đời sống kinh tế xã hội các hình thức tín dụng ngân hàng ngày càng trở nên quan trọng và đáp ứng kịp thời nhu cầu sản xuất kinh doanh.
3.2 Các loại hình tín dụng ngân hàng
Hiện nay phạm vi hoạt động của tín dụng ngân hàng là khá rộng lớnvà đa dạng , việc phân loại chỉ có tính chất tương đối , dựa vào những căn cứ khác nhau mà có thể phân chia thành các loại tín dụng ngân hàng khác nhau
Căn cứ vào thời hạn có thể chia thành
- Tín dụng ngắn hạn : là các khoản cho vay mà thời hạn không quá một năm. Mục đích chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp về mua nguyên vật liệu , chi phí sản xuât.
- Tín dụng trung hạn : là các khoản vay thường có thời hạn từ trên một năm đến ba, năm , hoặc bảy năm , tuỳ vào qui định của mỗi quốc gia. Mục đích là vay vốn để sữa chữa, khắc phục, thay thế tài sản cố định hoặc cải tiến kỹ thuật , hợp lý hoá sản xuất , đổi mới công nghệ và xây dựng mới những công trình loại nhỏ , thời hạn thu hồi vốn nhanh
- Tín dụng dài hạn : Là những khoản vay có thời hạn trên ba, năm , hoặc bảy năm tuỳ thuộc vào qui định của mỗi quốc gia. Mục đích của những khoản vay này giống nhưtín dụng trung hạn nhưng với những công trình có qui mô và thời hạn dài hơn.
Căn cứ vào mục đích tín dụng
- Tín dụng tiêu dùng : là những khoản vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như mua chịu hàng hoá , xây dựng nhà ở và các phương tiện cần thiết khác. Thông thường những khoản vay này được thực hiện cho cá nhân hoặc các hộ gia đình .
- Tín dụng phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá : là loại tín dụng được cung cấp cho các nhà sản xuất và kinh doanh hàng hoá .Nó đáp ứng nhu cầu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh để dự trữ nguyên vật liệu , cho vay chi phí sản xuất hoặc đáp ứng nhu cầu vốn trong quan hệ thanh toán giữa các doanh nghiệp . Trong tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh người ta còn có thể chia thành tín dụng phục vụ kinh doanh thưong mại , tín dụng phục vụ sản xuất công nghiệp , tín dụng phục vụ sản xuất công nghiệp , tín dụng phục vụ sản xuất nông nghiệp .
c. Căn cứ vào thành phần kinh tế
Căn cứ vào thành phần kinh tế có thể chia thành
- Tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh : là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm : công ty trách nhiệm hữu hạn , công ty cổ phần , doanh nghiệp tư nhân ,hộ cá thể , tổ sản xuất và hợp tác xã .
- Tín dụng đối với kinh tế quốc doanh : là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các doanh nghiệp nhà nước.
d. Phân loại theo đặc điểm luân chuyển vốn
- Tín dụng vốn cố định : là loại tín dụng được cung cấp để hình thành nên tài sản cố định cho các tổ chức kinh tế
- Tín dụng vốn lưu động : là loại tín dụng được cung cấp để bổ sung vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế
e. Căn cứ vào điều kiện đảm bảo
- Tín dụng có đảm bảo là những khoản vay mà ngân hàng nắm giữ tài sản của người vay với mục đích xử lý tài sản đó để thu hồi tiền chovay khi khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụgn
-- Tín dụng không có đảm bảo :là những khoản vaymà ngân hàng không nắm giữ tài sản của người vay để xử lý thu hồi , mà thay vào đó là những điều kiện ràng buộc khác.
f. Ngoài ra còn có một số ngiệp vụ khác
- Ngiệp vụ chiết khấu :là nghiệp vụ mà theo đó ngân hàng cung cấp tiền cho người mang chứng từ đến ngân hàng chiết khấu trên cơ sở mệnh giá của chứng từ chiết khấu , trừ đi một khoản lệ phí chiết khấu . Các chứng từ có thể là kỳ phiếu , hối phiếu , phiếu gửi hàng trong kho...Đây là một hình thức cho vay , có đảm bảo , độ an toàn cao vì nhiều người có trách nhiệm trả tiền cho chứng từ chiết khấu và vì uy tín của những người này khá cao thì chứng từ mới được chấp nhận .
- Nghiệp vụ thuê mua : đây là nghiệp vụ mà ngân hàng tài trợ cho khách hàng dưới hình thức cho thuê tài sản .
3.3.Vai trò tín dụng ngân hàng
a. Trong nền kinh tế thị trường
Ngày nay tín dụng ngân hàng là đòn bẩy quan trọng trong nền kinh tế là nguồn vốn quan trọng , chủ động để phát triển kinh tế trong nước . Cùng với sự phát triển của nền kinh tế theo cơ chế thị trường ở nước ta , tín dụng ngân hàng ngày càng phát huy hết những lợi thế và vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế .
Một vai trò quan trọng của tín dụng ngân hàng đã được khẳng định thông qua quá trình tồn tại và phát triển của nó , đó là tác dụng thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho sản xuất. Với mục đích tối đa hoá lợi nhuận, ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và lại đưa vốn trở lại những nơi thiếu vốn thông qua hoạt động tín dụng .Việc điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu thông qua hoạt động tín dụng đã cho thấy tín dụng ngân hàng được sử dụng như một công cụ quản lý tích cực , có tác dụng to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân .
Trong nền kinh tế thị trường , các tổ chức sản xuất kinh doanh luôn phải cạnh tranh gay gắt , do đó nhu cầu đầu tư phát triển luôn được đặt lên hàng đầu . Tuy nhiên khó khăn đầu tiên đối với các doanh nghiệp khi quyết định đầu tư mở rộng sản xuất bao giờ cũng là thiếu vốn , và thông thường để giải quyết những khó khăn này các doanh nghiệp cần phải có sự giúp đỡ từ các ngân hàng . Thông qua việc cho vay, không những ngân hàng thu được lợi nhuận mà còn góp phần đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng, đồng thời còn góp phần giả quyết các vấn đề kinh tế xã hội .
Khi vay vốn ngân hàng nghĩa là các doanh nghiệp đã tự gắn mình với trách nhiệm hoàn trả cả vốn lẫn lãi cho ngân hàng .Nhưng để có thể trả được nợ thì doanh nghiệp buộc phải làm ăn có hiệu quả , như vậy tín dụng ngân hàng ngoài việc mang lại lợi nhuận cho ngân hàng còn có một tác dụng khác là thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh , nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp . Tuy nhiên điều này có nghĩa là chỉ có những doanh nghiệp có triển vọng ,làm ăn phát đạt mới được vay vố
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 81.doc