Tiết kiệm là một nhân tố quan trọng làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm dịch vụ. Vì thế tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên thế giới. Tiết kiệm phải được thực hành ở mọi khâu của nền kinh tế quốc dân. Trong các khâu đó thì sản xuất là khâu quan trọng nhất vì sản xuất là nơi sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất như nguyên, vật liệu, máy móc thiết bị và thời gian lao động của người lao động. Đối với ngành thép, các doanh nghiệp đã đề ra các phương hướng và biện pháp tiết kiệm vật tư. Trong đề tài “ nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép ”,
41 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1093 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Tiết kiệm là một nhân tố quan trọng làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm dịch vụ. Vì thế tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên thế giới. Tiết kiệm phải được thực hành ở mọi khâu của nền kinh tế quốc dân. Trong các khâu đó thì sản xuất là khâu quan trọng nhất vì sản xuất là nơi sử dụng các yếu tố của quá trình sản xuất như nguyên, vật liệu, máy móc thiết bị và thời gian lao động của người lao động. Đối với ngành thép, các doanh nghiệp đã đề ra các phương hướng và biện pháp tiết kiệm vật tư. Trong đề tài “ nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở các doanh nghiệp ngành thép ”,
Chương I
Những vấn đề cơ bản về nguồn và biện pháp tiết kiệm đầu tư .
I. Ý nghĩa kinh tế của tiết kiệm đầu tư
1.Khái niệm vật tư, tiết kiệm vật tư
1.1 Khái niệm vật tư
Vật tư là đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất kinh doanh và chiếm một tỉ trọng lớn trong cơ cấu chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp
Vật tư là những vật có chức năng làm tư liệu sản xuất, đang trong quá trình từ vận động đến tiêu dùng sản xuất chưa bước vào tiêu dùng sản xuất trực tiếp
Vật tư là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất. Đó là nguyên, nhiên, vật liệu, điện lực, bán thành phẩm, thiết bị, máy móc, dụng cụ, phụ tùng.
1.2 Khái niệm tiết kiệm .
Chế độ tiết kiệm là hệ thống những biện pháp kinh tế, tổ chức, kĩ thuật và giáo dục được thực hiện theo một chương trình nhất định nhằm sử dụng hợp lí và tiết kiệm các nguồn lực của mỗi doanh nghiệp, hộ tiêu dùng và nền kinh tế quốc dân để phát triển sản xuất kinh doanh .
Tiết kiệm không chỉ là sử dụng dè sẻn tất cả các ngồn tài nguyên, là tránh sự mất mát mà còn là sử dụng hợp lí những nguồn tài nguyên đó, là tiêu dùng có căn cứ khoa học các phương tiện nhằm hoàn thiện công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nói cách khác, tiết kiệm theo nghĩa rộng chính là toàn bộ các giải pháp kinh tế, tổ chức, kĩ thuật ….nhằm giải quyết tốt các vấn đề cơ bản của sản xuất kinh doanh ơ mọi cấp của nền kinh tế quốc dân .
2. Phân loại vật tư
Vật tư gồm nhiều thứ, nhiều loại, từ những thứ có tính năng kĩ thuật cao, đến những thứ, những loại thông thường, từ những thứ có khối lượng và trọng lượng lớn đến những thứ nhỏ nhẹ kích thước nhỏ bé, từ những thứ đắt tiền đến những thứ rẻ tiền ….Tất cả chúng đều là sản phẩm của lao động dùng để sản xuất .Toàn bộ vật tư được phân theo 3 tiêu thức cơ bản .
2.1 Theo công dụng trong quá trình sản xuất .
Toàn bộ vật tư được phân làm 2 nhóm lớn :
Nhóm 1: là những loại vật tư dùng làm đối tượng lao động và những vật tư dùng làm tư liệu lao động .Những vật tư thuộc nhóm thứ nhất có đặc điểm là trong quá trình sử dụng chúng hoàn toàn dùng trong một lần và giá trị chuyển hết sang giá trị thành phẩm .
Nhóm 2 : sử dụng được nhiều lần và giá trị chuyển dần sang giá trị thành phẩm
Sự phân chia vật tư theo tiêu thức trên có ý nghĩa rất lớn và mặt lí luận và thực tiễn. Thật vậy, đối với loại vật tư thuộc nhóm 1 vì tiêu dùng hoàn toàn 1 lần nên muốn lập lại giá trị sản xuất với quy mô nhỏ như trước với những điều kiện khác không đổi thì đòi hỏi doanh nghiệp phải bảo đảm thường xuyên liên tục và với một lượng vật tư như trước. Còn đối với những loại vật tư thuộc nhóm 2 thì không nhất thiết phải như vậy, thậm chí ngay cả trong trường hợp tăng quy mô sản xuất .
2.2 Theo tính chất sử dụng vật tư .
Toàn bộ vật tư chia thành vật tư thông dụng và vật tư chuyên dùng:
Vật tư thông dụng gồm những vật tư dùng phổ biến cho nhiều ngành.
Vật tư chuyên dùng là những loại vật tư dùng cho một ngành nào đó, thậm chí một doanh nghiệp nào đó .
2.3 Theo tỉ lệ vật tư cấu thành trong sản phẩm .
Vật liệu chính: là vật tư cầu thành nên thực thể chủ yếu của sản phẩm.
Vật liệu phụ: là vật tư bổ trợ vào thực thể chủ yếu của sản phẩm.
3. Vai trò của vật tư trong sản xuất ở doanh nghiệp
Quá trình sản xuất là quá trình con người sử dụng tư liệu lao động để tác động đối tượng lao động làm thay đổi hình dáng, kích thước, tính chất lý hóa của đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm với chất lượng ngày càng cao, thỏa mãn đầy đủ nhu cầu đa dạng của con người. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn đòi hỏi phải có các yếu tố của sản xuất, trong đó có vật tư kỹ thuật. Thiếu vật tư thì không thể có hoạt động sản xuất ra của cải vật chất. Khi vật tư đóng vai trò là tư liệu lao động mà bộ phận chủ yếu là máy móc thiết bị, thể hiện trình độ trang bị kỹ thuật cho sản xuất, thì nó là nhân tố cực kỳ quan trọng để nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, tăng quy mô sản xuất, tạo điều kiện sử dụng hợp lý sức lao động và nguyên, nhiên vật liệu, tiết kiệm các yếu tố vật chất trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển một phần phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất, sự nhanh chóng đổi mới công nghệ và do đó phụ thuộc vào vật tư kỹ thuật với tư cách là tư liệu lao động.
Khi vật tư đóng vai trò là đối tượng lao động chủ yếu là nguyên vật liệu, vật tư sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu và do đó đến hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Nguyên vật liệu được đảm bảo đầy đủ, đồng bộ, đúng chất lượng là điều kiện quyết định khả năng tái sản xuất mở rộng. Trong quá trình sản xuất nguyên vật liệu là bộ phận trực tiếp tạo nên sản phẩm, nó chiếm 60%- 70% trong cơ cấu giá thành sản phẩm do đó nguyên vật liệu có vai trò quan trọng trong việc giảm chi phí sản xuất kinh doanh và giá cả sản phẩm.
4. Ý nghĩa của tiết kiệm vật tư.
Tiết kiệm là một nhân tố làm tăng quy mô sản xuất kinh doanh. Việc tiết kiệm cho phép với cùng một yếu tố đầu vào có thể sản xuất ra được nhiều sản phẩm dịch vụ hơn và đáp ứng được nhu cầu của thị trường.
Việc giảm lương tiêu hao vật chất trên một đơn vị sản phẩm dịch vị góp phần làm tăng năng suất lao động sản xuất ( bao gồm lao động sống và lao động vật hoá ).
Tiết kiệm các yếu tố đầu vào làm tăng thiết bị máy móc và giảm tổng chi phí tính bằng tiền để sản xuất ra sản phẩm.
Tiết kiệm các yếu tố vật chất làm tăng thêm khối lượng hàng hoá sẽ sản xuất ra và làm tăng thêm khả năng thoả mãn nhu cầu vật tư hàng hoá của xã hội.
Tiết kiệm các yếu tố vật chất là một nhân tố quan trọng để giảm giá thành sản phẩm, dịch vụ. Hiện nay trong nền kinh tế nước ta tiêu hao vật chất chiếm 51,69%; doanh nghiệp nhà nước 61,34%; doanh nghiệp ngoài quốc doanh 44,81%. Như vậy tiêu hao các yếu tố vật chất lớn, tỉ lệ chất thải cao, gây ô nhiễm môi trường không nhỏ.Tiết kiệm trong sản xuất kinh doanh góp phần khắc phục những khuyết tật đó. Với ý nghĩa kinh tế quốc dân to lớn, tiết kiệm đã trở thành quốc sách của nhiều nước trên thế giới.
II. Nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư
1. Nguồn tiết kiệm vật tư .
Nói đến nguồn tiết kiệm vật tư là nói đến những hướng có thể thực hành tiết kiệm hay nói một cách khác là chon ra những con đường nào, chỗ nào cần phải chú ý tiết kiệm.
Để tiết kiệm vật tư, doanh nghiệp có nguồn tiết kiệm về kỹ thuật, công nghệ của sản xuất, nguồn tiết kiệm về tổ chức quản lí, kinh doanh và nguồn tiết kiệm về người trực tiếp sử dụng nguyên, nhiên, vật liệu.
1.1 Nguồn tiết kiệm về kỹ thuật, công nghệ của sản xuất.
Doanh nghiệp có thể thực hành tiết kiệm ở khâu kỹ thuật công nghệ của sản xuất. Quy trình công nghệ kỹ thuật sẽ ảnh hưởng tới tỷ lệ sản phẩm có đạt chất lượng sản phẩm chính không? Vì thế cải tiến quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất hợp lý cũng góp phần giảm các tổn thất trong quá trình sản xuất. Khi sử dụng nguyên nhiên vật liệu thay thế các loại nguyên nhiên vật liệu rẻ tiền, doanh nghiệp chú ý các biện pháp kỹ thuật để tăng cường chất lượng nguyên vật liệu, vừa đảm bảo yêu cầu của sản phẩm, vừa đảm bảo chi phí trong giai đoạn dài hạn. Đồng thời, doanh nghiệp phải có kế hoạch phát triển kỹ thuật mới và các biện pháp cải tiến về trang thiết bị máy móc. Để tiết kiệm vật tư, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm, chuẩn bị những thiết bị máy móc tốt nhất có thể có. Vì vậy doanh nghiệp phải chú ý tới khâu kỹ thuật công nghệ của sản xuất vì đó là một trong những hướng để thực hành tiết kiệm.
1.2 Nguồn tiết kiệm về tổ chức quản lý kinh doanh.
Doanh nghiệp không những thực hành tiết kiệm ở khâu kỹ thuật, công nghệ sản xuất mà còn có thể thực hành tiết kiệm về tổ chức quản lý kinh doanh. Vì nếu như biện pháp về kỹ thuật công nghệ có tác dụng trực tiếp tiết kiệm nguyên vật liệu về số lượng, chất lượng thì biện pháp thuộc hướng tổ chức quản lí kinh doanh chỉ góp phần tạo điều kiện tiền đề và điều kiện cần thiết để các biện pháp kỹ thuật được thực hành ở doanh nghiệp và tránh được những lãng phí xảy ra trong quá trình sản xuất. Vì thế khâu tổ chức sản xuất kinh doanh là một hướng để doanh nghiệp thực hành tiết kiệm vật tư. Như chúng ta đã biết, vật tư là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động sản xuất ở doanh nghiệp. Nó là điều kiện cần để tổ chức hoạt động sản xuất ở doanh nghiệp nhằm giúp cho doanh nghiệp tối đa hoá lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh. Các yêu cầu cơ bản đặt ra đối với công tác đảm bảo vật tư của phòng tổ chức quản lí kinh doanh là phải đầy đủ, chính xác, kịp thời và đồng bộ. Các yếu tố nhằm đảm bảo vật tư góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ đó doanh nghiệp tiết kiệm nguyên, nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất kinh doanh. Hướng thực hành tiết kiệm ở khâu tổ chức quản lí kinh doanh còn góp phần tích cực ngăn ngừa và kiên quyết chống lại mọi hành vi làm thất thoát nguyên nhiên vật liệu và sản phẩm dưới mọi hình thức. Đồng thời nó góp phần bảo quản tốt nguyên nhiên vật liệu trong thời gian lưu kho, giảm hao hụt và biến chất của nguyên nhiên vật liệu.
1.3 Nguồn tiết kiệm về yếu tố con người trong việc sử dụng nguyên nhiên vật liệu.
Người công nhân là người trực tiếp sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất. Họ là người biết rõ nhất giá trị của các loại nguyên nhiên vật liệu và công dụng của chúng. Vì thế phòng tổ chức cần phải có những lớp giáo dục về ý thức tiết kiệm và lợi ích tiết kiệm đối với doanh nghiệp, đối với từng người như thế nào để người công nhân hiểu được ý nghĩa của việc tiết kiệm. Từ đó họ sẽ có ý thức hơn về việc thực hành tiết kiệm. Đồng thời doanh nghiệp có chế độ giao nhận, chế độ trách nhiệm vật tư, chế độ quán lí sử dụng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu rõ ràng trong doanh nghiệp, trách nhiệm đối với từng người công nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm tinh thần chấp hành kỉ luật lao động để sử dụng tốt các yếu tố vật chất.
2. Biện pháp tiết kiệm vật tư.
2.1 Về kĩ thuật công nghệ sản xuất .
Doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp sau :
2.1.1. Giảm trọng lượng tinh của sản phẩm .
Trọng lượng tuyệt đối của sản phẩm là là phẩm đó cân nặng bao nhiêu kg, tạ, tấn, …
Trọng lượng tương đối của sản phẩm là tỉ số trọng lượng tuyệt đối so với một đơn vị công suất (hoặc công dụng chủ yếu của sản phẩm). Trên cơ sở công dụng của sản phẩm, cần phải cải tiến thiết kế sản phẩm sử dụng các loại vật liệu thay thế có độ bền tốt hơn để giảm trọng lượng tương đối của sản phẩm. Như vậy, với khối lượng ( trọng lượng ) nguyên, nhiên vật liệu như cũ có thể sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn .
2.1.2. Giảm phế liệu, phế phẩm và các tổn thất trong quá trình sản xuất .
Phế liệu là những thứ phát sinh trong qúa trình sản xuất. Phế liệu có 2 loại: Loại sử dụng lại được trong quá trình sản xuất sản phẩm đó và loại phế liệu không sử dụng lại được. Để giảm bớt phế liệu cần phải cải tiến các công cụ lao động, đặc biệt chú ý các công cụ chuyên dùng, cải tiến quy trình công nghệ và sử dụng tối đa loại phế liệu có thể sử dụng lại được trong quá trình sản xuất .
Phế phẩm là những sản phẩm không đạt chất lượng sản phẩm chính. Tỉ lệ phế phẩm cao hay thấp liên quan đến quy trình công nghệ, đến chất lượng nguyên nhiên vật liệu, đến công nghệ sản xuất, đến tay nghề của công nhân và cả những điều kiện khác như điều kiện làm việc, cung cấp các yếu tố của sản xuất, điều kiện thời tiết, khí hậu của nơi sản xuất .
Cải tiến quy trình công nghệ, tổ chức sản xuất hợp lí cũng góp phần giảm các tổn thất trong quá trình sản xuất. Các tổn thất trong quá trình sản xuất bao gồm nhiều khâu, từ khâu thiết kế sản phẩm đến giai đoạn hoàn chỉnh sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm có những tổn thất khác nhau. Cần chú ý đến những khâu tổn hao nhiều để giảm bớt khối lượng nguyên nhiên vật liệu cho mỗi đơn vị sản phẩm hoặc chi tiết sản phẩm.
2.1.3.Sử dụng tổng hợp các loại nguyên vật liệu .
Trong một sản phẩm sản xuất ra, tuỳ theo cơ cấu của nó, các bộ phận kỹ thuật có những yêu cầu kỹ thuật khác nhau. Vì thế, để có thể sử dụng tổng hợp các loại vật liệu khác nhau, với điều kiện vừa đảm bảo chất lượng, tính năng công dụng …của sản phẩm, vừa tiết kiệm các loại nguyên vật liệu quý hiếm, đắt tiền hoặc phải nhập khẩu. Sử dụng tổng hợp nguyên vật liệu đòi hỏi phải đa dạng hoá sản phẩm. Rất nhiều loại nguyên vật liệu, khi dùng để chế tạo loại sản phẩm chính này, loại phế liệu không dùng được lại có thể là nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm chính khác. Vì vậy tận dụng hết các loại phế liệu phế thải, các loại thu hồi được của sản xuất chính vào sản xuất các loại mặt hàng khác là biện pháp sử dụng tối đa nguyên vật liệu trong sản xuất .
2.1.4.Sử dụng các loại nguyên, vật liệu thứ cấp .
Các loại nguyên, nhiên, vật liệu thay thế các loại nguyên vật liệu rẻ tiền. Sử dụng những loại nguyên, nhiên, vật liệu trên cần chú ý đến biện pháp kỹ thuật để tăng cường chất lượng nguyên nhiên vật liệu, vừa đảm bảo yêu cầu của sản phẩm, vừa đảm bảo giảm chi phí trong quá trình dài hạn đối với doanh nghiệp .
2.1.5.Sử dụng nhiều lần nguyên vật liệu .
Có những loại nguyên nhiên vật liệu có thể được sử dụng nhiều lần. Ví dụ: đồng, nhôm, dầu nhớt ….Sau quá trình sủ dụng thải ra cần phải được thu hồi và sử dụng lại. Đây là biện pháp rất kinh tế, đặc biệt trong việc tiết kiệm nguồn tài nguyên tự nhiên mà sau nhiều năm khai thác sẽ cạn kiệt.
2.1.6. Nâng cao chất lượng nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm, công dụng của thành phẩm và các chất có ích trong nguyên nhiên vật liệu .
Nguyên nhiên vật liệu chất lượng cao sẽ cho sản phẩm có chất lượng cao. Trước và trong khi sử dụng cần nâng cao chất lượng nguyên vật liệu vừa đảm bảo sức cạnh tranh của sản phẩm, dễ tiêu thụ, vừa tiết kiệm được các nguồn tiềm năng. Ở một số nguyên vật liệu người ta chỉ sử dụng chất có ích. Để sử dụng tốt hơn nguyên vật liệu người ta nâng cao tỉ lệ sử dụng chất có ích trong nguyên vật liệu để sử dụng tối đa nguyên vật liệu.
2.2 Về tổ chức quản lí kinh doanh .
Những biện pháp thuộc hướng tổ chức quản lí kinh doanh chỉ góp phần tạo điều kiện tiền đề và điều kiện cần thiết để các biện pháp kỹ thuật được thực hiện ở những doanh nghiệp cũng như tránh được những lãng phí xẩy ra trong quá trình sản xuất. Những biện pháp đó là:
Thứ nhất, Đảm bảo cung ứng cho các nơi làm việc trong doanh nghiệp những nguyên nhiên vật liệu đầy đủ về chất lượng và chủng loại, kịp thời gian yêu cầu, đồng bộ để chế tạo sản phẩm hoàn chỉnh. Nếu không đảm bảo những nội dung trên, sẽ gây ra nhiều lãng phí. Lãng phí cả nguyên nhiên vật liệu sử dụng, lãng phí thời gian sử dụng thiết bị máy móc và lãng phí sức lao động của công nhân lãng phí do ngừng sản xuất .
Thứ hai, Thực hiện việc sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu theo định mức: sử dụng theo định mức là cách sử dụng khấu hao. Vì vậy, các loại nguyên vật liệu chính sử dụng khối lượng lớn xây dựng các định mức và sử dụng theo định mức .
Thứ ba, Thực hiện dự trữ các loại nguyên nhiên vật liệu theo định mức. Dự trữ theo định mức bảo đảm việc sử dụng liên tục đều đặn trong doanh nghiệp. Những loại nguyên nhiên vật liệu có nguồn cung ứng khó khăn cần phải có dự trữ: dự trữ thường xuyên, dự trữ chuẩn bị, dự trữ bảo hiểm. Những loại sử dụng theo thời vụ phải có dự trữ thời vụ.
Thứ tư, Tổ chức thu hồi tận dụng tất cả các biện pháp phế liệu, phế phẩm, phế thải trong quá trình sản xuất .
Thứ năm, Tích cực ngăn ngừa và kiên quyết chống mọi hành vi tiêu cực làm thất thoát nguyên nhiên vật liệu, hoá chất, ….và sản phẩm trong thời gian lưu kho của doanh nghiệp. Giảm hao hụt, biến chất. Tích cực phòng chống cháy, mưa, bão, lũ lụt gây tổn thất nguyên vật liệu và sản phẩm .
Thứ sáu, Sử dụng nguyên nhiên vật liệu đúng yêu cầu, đúng định mức, đúng quy trình công nghệ, đúng đối tượng.
Thứ bảy, Tổ chức hoạch toán, kiểm tra phân tích đánh giá sử dụng nguyên nhiên vật liệu ….ở doanh nghiệp .
2.3 Về yếu tố con người trong việc sử dụng nguyên, nhiên vật liệu
Người công nhân là người trực tiếp sử dụng các loại nguyên nhiên vật liệu trong quá trình sản xuất. Họ biết rõ giá trị của các loại nguyên nhiên vật liệu và công dụng của chúng. Vì vậy cần áp dụng các biện pháp sau:
Tăng cường giáo dục về ý thức tiết kiệm ,lợi ích của tiết kiệm đối với doanh nghiệp, đối với từng người.
Nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ, trình độ tay nghề của mọi công dân.
Có các biện pháp khuyến khích vật chất tinh thần thích đáng kịp thời đối với việc tiết kiệm.
Có chế độ giao nhận, chế độ trách nhiệm vật chất, chế độ quản lí sử dụng máy móc, thiết bị, nguyên, nhiên vật liệu rõ ràng trong doanh nghiệp, trách nhiệm đến từng người công nhân để nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần chấp hành kỷ luật lao động, để sử dụng tốt các yếu tố vật chất.
Chương II.
Thực trạng của nguồn và biện pháp tiết kiệm vật tư trong sản xuất ở ngành thép
I. Đặc điểm kinh tế kĩ thuật ảnh hưởng đến việc sử dụng tiết kiệm vật tư ở ngành thép
1. Đặc điểm cung ứng vật tư cho sản xuất
Kế hoạch mua sắm vật tư là một bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất kĩ thuật– tài chính doanh nghiệp. Chúng có quan hệ mật thiết với các kế hoạch khác như kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch sản xuất, kế hoạch xây dựng, kế hoạch tài chính…Trong mối quan hệ này kế hoạch mua sắm vật tư bảo đảm yếu tố vật chất để thực hiện các kế hoạch khác, còn kế hoạch khác là căn cứ để xây dựng kế hoạch mua sắm vật tư. Chẳng hạn như trong mối quan hệ với kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, kế hoạch vật tư không thể xa rời các chỉ tiêu trong các kế hoạch này để xác định nhu cầu vật tư. Nếu xa rời sẽ dẫn đến tình trạng ứ đọng vật tư, ứ đọng vốn hoặc không bảo đảm vật tư cho sản xuất gây gián đoạn sản xuất
Mặt khác, cũng phải thấy rõ những đặc điểm riêng biệt của kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp để có thể nâng cao chất lượng của kế hoạch xây dựng nhằm phục vụ tốt nhất cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, kế hoạch và việc thực hiện kế hoạch mua sắm vật tư sẽ dự kiến trực tiếp thời gian cuả một quá trình sản xuất, sự tiêu dùng trực tiếp các tư liệu sản xuất sẽ phát sinh trong doanh nghiệp.
Thứ hai, kế hoạch mua sắm vật tư của doanh nghiệp rất phức tạp. Tính chất phức tạp của nó thể hiện ở chỗ trong kế hoạch có rất nhiều loại vật tư với quy cách chủng loại rất khác nhau với khối lượng mua sắm rất khác nhau đơn vị khác nhau.
Thứ ba, kế hoạch mua sắm vật tư ở doanh nghiệp có tính chất cụ thể và nghiệp vụ cao. Đặc điểm này xuất phát từ tính chất của sản xuất vì sản xuất bao giờ cũng mang tính cụ thể nên kế hoạch mua sắm vật tư phải rất chi tiết cụ thể, phải đặt mua những vật tư thích hợp nhất, phục vụ tốt cho sản xuất. Tính chất cụ thể và nghiệp vụ cao của kế hoạch mua sắm vật tư ở doạnh nghiệp còn thể hiện ở chỗ số lượng mua sắm sẽ được phân chia ra cho từng phân xưởng nhất định và trong từng thời kì nhất định.
2. Đặc điểm công nghệ sản xuất
Trong những năm gần đây, ngành thép đã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao trình độ công nghệ chung của toàn ngành. Tuy vậy, theo nhận xét của các chuyên gia trình độ công nghệ của ngành vẫn ở mức trung bình thấp. Trình độ công nghệ của ngành được thực hiện theo phương pháp ATLAS công nghệ đối với bốn yếu tố: thành phần kỹ thuật (T), thành phần con người (H), thành phần thông tin (I), thành phần tổ chức(O).
2.1 Thành phần kỹ thuật (T)
Nhìn một cách tổng thể, các ngành công nghiệp nặng đều có thành phần kỹ thuật tương đối khá bởi thời gian qua đã tập trung vào đầu tư đổi mới dây chuyền sản xuất, thay thế những công nghệ sản xuất cũ để theo kịp với trình độ công nghệ của thế giới. Ở ngành thép số các nhà máy cán thép hiện đại chỉ chiếm 38,7% tổng công suất thiết kế, các nhà máy có công nghệ ở mức trung bình chiếm cao nhất, tới 48,9% tổng công suất thiết kế, còn lại là các nhà máy có công nghệ lạc hậu chiếm 12,4% tổng công suất thiết kế. Chi phí sản xuất cho 1 tấn thép ở Việt Nam cao hơn so với thế giới, thêm nữa phần lớn các nhà máy cũng chỉ sản xuất đạt 60% công suất thiết kế nên hiệu quả kinh tế không cao.
2.2 Thành phần con người (H)
Yếu tố con người của các ngành thép được đánh giá ở mức trung bình. Ngành chịu một thực tế là bậc thợ không đi dôi với tay nghề, lực lượng công nhân vận hành máy vạn năng có tay nghề cao chiếm hơn 50% nhưng thực tế đội ngũ này còn xa lạ với kỹ năng công nghệ. Kiến thức có được chủ yếu bằng kinh nghiệm, khả năng đào tạo nâng cao trình độ tiếp cận thiết bị hiện đại là rất hạn chế. Hiện rất thiếu lao động có tay nghề cao như thợ cả, kỹ sư trưởng… do cơ chế đãi ngộ chưa xứng đáng nên các doanh nghiệp trong nước ít thu hút và giữ được các lao động có tay nghề tốt. Khả năng tự đào tạo của các doanh nghiệp rất yếu nên không nâng cao được chất lượng lao động .
Ngành thép có nhiều liên doanh liên kết với công ty nước ngoài nên học được ở các đối tác phương pháp quản lý hiện đại và cách vận hành các dây chuyền hiện đại. Nhưng đa phần trình độ chuyên môn của đội ngũ kỹ thuật còn nhiều hạn chế, nhiều cán bộ không cập nhật những tiến bộ kỹ thuật mới trong ngành nên còn hạn chế trong việc cải tiến công nghệ cũng như trong nghiên cứu phát triển công nghệ mới. Trình độ tin học, ngoại ngữ còn yếu nên hạn chế việc tiếp thu các thông tin về đổi mới công nghệ trên thế giới. Độ tuổi cán bộ công nhân viên chức nhất là cán bộ kỹ thuật tương đối cao
Trong cạnh tranh lao động hiện nay, lượng cán bộ kỹ thuật có tay nghề cao và tuổi trẻ thường tập trung ở doanh nghiệp lớn, các công ty nước ngoài, nơi có thu nhập cao và có môi trường làm việc hiện đại, các doanh nghiệp nhỏ thu nhập thấp thường rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề. Trong những năm tới tình hình này cũng rất khó được cải thiện vì nguồn nhân lực được đào tạo trong các trường của nước ta còn hạn chế mà nhu cầu lại rất cao.
Trình độ học vấn của đội ngũ công nhân, của các đơn vị đa phần ở mức rất thấp, chỉ ở trình độ sơ cấp, trình độ bậc thợ thuộc loại thấp và rất thấp còn khá cao. Điều này phản ánh tính không chuyên nghiệp của đội ngũ công nhân và có thể ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Tính kỷ luật và tính hợp tác trong đội ngũ công nhân lao động trong ngành còn kém, ý thức và tác phong lao động của người lao động không bài bản và chặt chẽ như công ty nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý hầu như chưa được đào tạo một cách có hệ thống về làm việc quản lý nên trong quản lý doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn .
2.3 Thành phần thông tin (I)
Qua nghiên cứu, trình độ thông tin của các doanh nghiệp được đánh giá chỉ nằm ở giai đoạn làm quen, thu thập và phân lọai các giai đoạn cao hơn như kết nhập, phân tích, tổng hợp để đề xuất chiến lược chưa triển khai được, lượng thông nghèo khai thác trong nước là chủ yếu. Điểm nổi bật đối với phần thông tin có thể thấy là hầu hết các đơn vị đều có mức độ sở hữu và sử dụng các thông tin phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở mức kém, thậm chí rất kém còn lại ở mức trung bình. Việc thiếu thông tin tất yếu sẽ dẫn đến những khó khăn trong việc quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh.
Về cơ sở vật chất cho phần thông tin, hầu hết các ngành, các đơn vị đều có mức độ sử dụng máy tính thuộc loại cao và khá cao, nhưng mới chỉ tập trung cho công việc văn phòng không sủ dụng máy tính trong thiết kế và nghiên cứu nên đã hạn chế rất nhiều khả năng phát minh, sáng chế các sản phẩm mới. Còn việc sử dụng máy tính để điều khiển các quá trình công nghệ chỉ áp dụng ở một số đơn vị liên doanh, doanh nghiệp nước ngoài hoặc các doanh nghiệp mới đầu tư. Các nguồn thông tin về công nghệ, kế hoạch trong ngành còn rất hạn chế. Đây là tình trạng chung của nhiều ngành kỹ thuật ở nước ta.
2.4. Thành phần tổ chức(O)
Vấn đề tổ chức sản xuất, bố trí nguồn nhân lực hợp lý đã được các doanh nghiệp chú trọng. Các công ty liên doanh và khối doanh nghiệp mới đầu tư công nghệ hiện đại đã áp dụng mô hình tiên tiến, phù hợp với công nghệ sản xuất và kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Qua điều tra cho thấy, nhiều đơn vị chưa áp dụng một hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Nhưng thực tế, một số doanh nghiệp thực hiện quá trình quản lý theo ISO còn thấp. Một số doanh nghiệp chỉ làm ISO ở một số khâu, một số dây chuyền để lấy danh đã làm ISO, phần còn lại vẫn thể hiện công tác quản lý tùy tiện và chưa hiệu quả, thiếu tính chuyên nghiệp.
Qua phân tích những vấn đề trên có thể thấy, việc đầu tư nâng cấp các tổ chức khoa học công nghệ chuyên ngành với các phòng thí nghiệm chuyên biệt cho từng ngành, tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu của các viện với sự phát triển của các ngành là cần thiết. Đầu tư vào khoa học công nghệ được
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 399.doc