Đề tài Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Lợi nhuận là động cơ hay sự thúc đẩy đối với mọi công việc kinh doanh và mọi cá nhân trong kinh doanh. Phạm trù lợi nhuận nói chung cũng như phạm trù lợi nhuận gắn với kinh tế thị trường nói riêng đã được biết đến từ thế kỷ XV. Chính những ý nghĩa lý luận của nó đối với khoa học kinh tế mà nó luôn được quan tâm, luôn được phát triển. Và như chúng ta đã biết, lý luận Mác là đỉnh cao của sự phát triển ấy. Đứng trên giác độ của học thuyết này, Mác đã giải quyết mọi mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hóa. Vì vậy, đối với Việt Nam giai đoạn hiện nay, giai đoạn phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, việc vận dụng lý luận về lợi nhuận trong hoạt động kinh tế mà cụ thể là trong việc nâng cao lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là hết sức cần thiết.

Tất cả chúng ta đang phải tìm lời giải cho bài toán vận mệnh của Việt Nam: Làm thế nào để tăng trưởng nhanh, thành công trong cạnh tranh quốc tế khi trình độ của ta còn thấp, nguồn lực của ta còn hạn chế?

Chính vì vậy mà đề tài: "Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" đã thu hút sự chú ý cũng như đã gây cho em nhiều hứng thú.

Theo em đây là một đề tài hết sức thiết thực trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay.

 

doc26 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 970 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở Đầu Lợi nhuận là động cơ hay sự thúc đẩy đối với mọi công việc kinh doanh và mọi cá nhân trong kinh doanh. Phạm trù lợi nhuận nói chung cũng như phạm trù lợi nhuận gắn với kinh tế thị trường nói riêng đã được biết đến từ thế kỷ XV. Chính những ý nghĩa lý luận của nó đối với khoa học kinh tế mà nó luôn được quan tâm, luôn được phát triển. Và như chúng ta đã biết, lý luận Mác là đỉnh cao của sự phát triển ấy. Đứng trên giác độ của học thuyết này, Mác đã giải quyết mọi mâu thuẫn của nền sản xuất hàng hóa. Vì vậy, đối với Việt Nam giai đoạn hiện nay, giai đoạn phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, việc vận dụng lý luận về lợi nhuận trong hoạt động kinh tế mà cụ thể là trong việc nâng cao lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Tất cả chúng ta đang phải tìm lời giải cho bài toán vận mệnh của Việt Nam: Làm thế nào để tăng trưởng nhanh, thành công trong cạnh tranh quốc tế khi trình độ của ta còn thấp, nguồn lực của ta còn hạn chế? Chính vì vậy mà đề tài: "Nguồn gốc và vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" đã thu hút sự chú ý cũng như đã gây cho em nhiều hứng thú. Theo em đây là một đề tài hết sức thiết thực trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay. nội dung 1.Những vấn đề lý luận chung 1.1. Quan điểm về lợi nhuận của các nhà kinh tế học trước C.Mac ỉ Chủ nghĩa trọng thương là lý luận đầu tiên của kinh tế chính trị, là hệ tư tưởng kinh tế của giai cấp tư sản, là cương lĩnh kinh tế của giai cấp tư sản trong điều kiện tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản, tìm nguồn gốc của cải trong thương nghiệp, bảo vệ lợi ích của tư bản thương nghiệp và giải thích cho sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Chủ nghĩa trọng thương ra đời và phát triển từ khoảng giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XII ở Tây Âu. Theo quan điểm của chủ nghĩa trọng thương thì lợi nhuận là kết quả của việc trao đổi không ngang giá. Nói cách khác, lợi nhuận được sinh ra trong lưu thông. Họ coi mục đích của hoạt động kinh tế là lợi nhuận và coi lợi nhuận là động lực của các hoạt động kinh tế. Đó chính là cơ sở của lý luận về cơ chế thị trường sau này. Hạn chế của chủ nghĩa trọng thương chưa thấy được lợi nhuận còn được sinh ra trong sản xuất. Theo như C.Mac nhận xét trong cuốn tư bản:” học thuyết đó chỉ nắm cái vẻ bên ngoài của những hiện tượng”. ỉ Chủ nghĩa trọng nông ra đời vào cuối thế kỷ XVIII ở Pháp do hậu quả thực hiện chính sách kinh tế của Kolbert làm cho nền nông nghiệp Pháp bị đình đốn, nợ nần cha truyền con nối, nông dân đói khát, khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra nghiêm trọng. Do đó đã xuất hiện một lý luận phê phán gay gắt chủ nghĩa trọng thương, tìm nguồn gốc của cải trong sản xuất nông nghiệp, khuyến khích phát triển nông nghiệp. Chủ nghĩa trọng nông đề cập đến sản phẩm thuần tuý hay sản phẩm ròng là sự chênh lệch giữa giá trị của nông sản và chi phí sản xuất nông nghiệp (gồm giống và tiền lương). Hạn chế: Chỉ có sản xuất nông nghiệp mới tạo ra sản phẩm thuần tuý, mới là nguồn gốc làm giàu cho quốc gia, muốn quốc gia giàu có phải phát triển nông nghiệp. Tức là họ mới chỉ nhìn thấy hình thái địa tô (R) mà trên thực tế giá trị thặng dư bao gồm: lợi nhuận(p) – lợi nhuận bình quân ( ) lợi tức (z) và địa tô (r) Chủ nghĩa trọng nông cho rằng nông nghiệp có được sự trợ giúp của tự nhiên làm tăng về chất tạo ra chất mới và do đó tạo ra sản phẩm thuần tuý. Công nghiệp chỉ đơn thuần chế biến lại những sản phẩm của nông nghiệp. Công nghiệp không những không có lợi mà còn có hại vì trong quá trình sản xuất có những sản phẩm sẽ bị lãng phí. ỉ Trường phái cổ điển (kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh) Vào cuối thế kỷ XVII ở Anh chủ nghĩa trọng thương đã tích luỹ được một khối lượng tiền tạo được để phát triển sản xuất. Do đó lợi nhuận do sản xuất đem lại ngày càng tăng còn lợi nhuận do thương nghiệp đem lại có xu hướng giảm vì thị trường ngoài nước đã khai thác hết. Do đó chủ nghĩa trọng thương bị suy đồi và xuất hiện lý luận mới nhằm kích thích phát triển sản xuất là kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh. Theo W.Petty (1623-1687), ông chỉ nhìn thấy hình thái địa tô là sự chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí của sản xuất. Tuy vậy, theo Mac nhận xét, W.Petty là người đã nêu ra mầm mống của lý luận về chế độ bóc lột, dự đoán đúng bản chất của giá trị thặng dư. Sai lầm của ông là đã đồng nhất địa tô với giá trị thặng dư (thực tế địa tô chỉ là một phần của giá trị thặng dư). Theo A.Smith (1723-1790), lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm lao động của công nhân. Lao động của công nhân tạo ra lợi nhuận và lợi nhuận thuộc về nhà tư bản, lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân. Ông thấy được xu hướng lợi nhuận bình quân và tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm. Ông đã thấy được địa tô, lợi tức, lợi nhuận là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư nhưng lại không thấy được sự khác nhau giữa lợi nhuận và giá trị thặng dư. Ông cho rằng lợi nhuận do toàn bộ tư bản đẻ ra. Do không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông nên ông cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau. Tuy nhiên, mặt tích cực mà A.Smith đã đạt được – theo như C.Mac đánh giá- A.Smith đã nêu được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư là đẻ ra từ lao động. Theo D.Ricardo (1772-1823), lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công, là lao động không được trả công của công nhân. Ông chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư nhưng nhất quán quan điểm cho rằng giá trị do công nhân tạo ra lớn hơn số tiền mà họ nhận được. Ông đã thấy được xu hướng hình thành lợi nhuận bình quân nhưng lại chưa hiểu được giá cả sản xuất (giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân). ỉ Trường phái tầm thường: Vào đầu thế kỷ 19 do cuộc cách mạng công nghiệp hoàn thành, giai cấp tư sản thống trị xã hội nhưng bắt đầu xuất hiện khủng hoảng kinh tế, giai cấp vô sản bị bần cùng hoá. Thời kỳ này bắt đầu xuất hiện lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng do đó giai cấp tư sản cần có một lý luận để chống lại chủ nghĩa xã hội không tưởng và bảo vệ chủ nghĩa tư bản. Kinh tế chính trị học tư sản tầm thường xuất hiện. Thomas Robert Malthus (1766-1834), ông cho rằng lợi nhuận là hoạt động thêm vào giá cả (giá cả = chi phí sản xuất + lợi nhuận). Malthus phủ nhận vai trò của lao động là nguồn gốc tạo ra lợi nhuận và coi lợi nhuận là yếu tố cấu thành khác của giá trị. Từ đó ông giải thích lợi nhuận như là khoản thặng dư ngoài số lao động đã hao phí để sản xuất hàng hóa. Người trả tiền cho khoản lợi nhuận là giai cấp quý tộc địa chủ. Tức là ông đã biện hộ cho giai cấp thống trị: lợi nhuận không phải do bóc lột (điều này có thể hiểu vì ông là con út của một gia đình quý tộc). Jean.Baptiste Say (1766-1832), ông cũng biện hộ cho chủ nghĩa tư bản. Ông cho rằng chủ nghĩa tư bản không có bóc lột. Ông thấy lợi nhuận là do tư bản sinh ra, đó là thứ tiền công cao cho công tác lãnh đạo và quản lý của nhà tư bản. Còn những người công nhân làm việc thô kệch hiển nhiên sẽ hưởng lương ít. Theo C.Mac đánh giá thì vai trò quản lý của nhà tư bản giống như “nhạc trưởng” của dàn nhạc, lao động quản lý và lãnh đạo là lao động phức tạp nên nhạc trưởng được hưởng lương cao là đương nhiên nhưng toàn bộ tiền lương làm chức năng quản lý không phải là toàn bộ lợi nhuận. ỉ Trường phái tiểu tư sản: Vào đầu thế kỷ 19 giai cấp tư sản thống trị xã hội, sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ làm cho giai cấp công nhân bị bần cùng hoá, khủng hoảng, thất nghiệp gia tăng. Những người sản xuất nhỏ bị phá sản hàng loạt do đó xuất hiện lý luận phê phán chủ nghĩa tư bản và muốn quay lại sản xuất nhỏ. J.Simondi cho rằng lợi nhuận là khoản khấu trừ từ sản phẩm lao động, đó là thu nhập không lao động, là kết quả của sự cướp bóc công nhân, là tai hoạ kinh tế của giai cấp vô sản. Ông cho rằng việc san bằng lợi nhuận chỉ đạt được bằng cách phá huỷ những tư bản cố định, bằng sự tiêu vong của công nhân trong các ngành bị suy sụp. Hạn chế: ông lặp lại luận điểm của A.Smith về lợi nhuận doanh nghiệp, nghi ngờ ý kiến đúng đắn của Ricardo về lợi nhuận tư bản, ông không hiểu nguồn gốc của địa tô tuyệt đối. 1.2. Quan điểm về lợi nhuận của C.Mac Như chúng ta đã biết giá trị hàng hoá = c+v+m . Trong đó c là tư liệu sản xuất , v là sức lao động, m là giá trị thặng dư. Nhà tư bản phải bỏ ra một khoản chi phí để mua tư liệu sản xuất c và mua sức lao động v. Chi phí đó gọi là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa(k) k=c+v .Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và giá trị của hàng hoá khác nhau cơ bản về lượng và về chất: ² Về chất : chi phí nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá được đo bằng chi phí tư bản . Còn giá trị hàng hoá là chi phí thực tế để sản xuất ra nó được đo bằng chi phí lao động .Vì vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thấp hơn giá trị hàng hoá. ² Về lượng : chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là bộ phận giá trị tư bản tiêu dùng đã chuyển vào sản phẩm nên bao giờ nó cũng nhỏ hơn tổng số tư bản ứng ra ban đầu (k).Khi nghiên cứu C.Mac thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong một năm nên tổng tư bản ứng trước và chi phí sản xuất bằng nhau về lượng và cùng kí hiệu là (c+v). Khái niệm CFSX một mặt biểu thị tính chất đặc thù của sản xuất tư bản chủ nghĩa (vì chỉ trong TBCN thực thể của giá trị mới bị che lấp bởi chi phí tư bản).Mặt khác, chi phí sản xuất còn được gọi là giá thành sản xuất(vì trong bất cứ nền sản xuất hàng hoá nào, sau khi thực hiện giá trị hàng hoá đều phải mua lại những yếu tố sản xuất đã tiêu dùng trong việc sản xuất hàng hoá).Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường, việc tiết kiệm chi phí lao động sống và lao động quá khứ để giảm giá thành sản phẩm bằng các biện pháp kinh tế, kĩ thuật và tổ chức quản lý là yêu cầu thiết thân mà mọi chủ thể kinh doanh đều phải quan tâm thường xuyên. Do có sự chênh lệch giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất TBCN nên khi bán hàng hoá theo giá thị trường (bằng giá trị của hàng hoá), các nhà tư bản thu được một khoản tiền lời gọi là lợi nhuận, kí hiệu p. So sánh p và m cho thấy : ² Về lượng : nếu cung bằng cầu thì giá cả hàng hoá bán ra bằng giá trị của nó thì số lượng p thu được bằng số lượng giá trị thặng dư .Nếu cung nhỏ hơn hoặc lớn hơn cầu thì giá cả hàng hoá lớn hơn hoặc nhỏ hơn giá trị của nó thì từng tư bản cá biệt có thể thu được một lợi nhuận lớn hơn hoặc nhỏ hơn m.Nhưng trong toàn xã hội tổng giá cả bằng tổng giá trị hàng hoá, tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư . ² Về chất: m là bộ phận giá trị mới do lao động của công nhân tạo ra trong lĩnh vực sản xuất dôi ra ngoài phần bù lại giá trị tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho công nhân, còn p là hình thức biểu hiện bên ngoài của m, là m khi nó được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng ra, là kết quả của toàn bộ tư bản đầu tư vào sản xuất kinh doanh. C.Mac viết “giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hoá so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá so với số lượng lao động được lao động chứa đựng trong hàng hoá”. Phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa tư bản và lao động, vì nó làm cho người ta tưởng rằng m không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra.Thực chất, p và m cũng là một.Lợi nhuận chẳng qua chỉ là một hình thái thần bí hoá của giá trị thặng dư. Tóm lại p là hình thái chuyển hoá của m do lao động sống làm ra , được quan niệm là do toàn bộ tư bản ứng trước sinh ra. ê Khi m chuyển hoá thành p thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành chi phí sản xuất TBCN cộng p : w=c+v+m w=k+p ê Khi m chuyển hoá thành p thì tỷ xuất giá trị thặng dư cũng chuyển hoá thành tỷ xuất lợi nhuận p’ : m’ = m/v x 100% => p’ = p/(c+v) x 100% p’ là tỷ lệ phần trăm giữa tổng số lợi nhuận với toàn bộ tư bản ứng ra để sản xuất kinh doanh. p’ hàng năm = p/k x 100% P’ và m’ có sự khác nhau về lượng và về chất : ỹ Về lượng : p’ bao giờ cũng nhỏ hơn m’ . ỹ Về chất : m’ biểu hiện mức độ bóc lột của chủ tư bản đối với lao động còn p’ chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản . m’ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động sống, còn p’ là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn đầu tư hàng năm của một đơn vị sản xuất kinh doanh . v Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận F Tỷ suất giá trị thặng dư m’ : Theo công thức: p’= m/(c+v) x 100% Mà m’= m/v x 100% do đó p’= m’ x v/(c+v) x 100% (*) p’ là hình thái chuyển hoá của m’ nên giữa chúng có mối liên hệ phụ thuộc. Theo (*) nếu v/(c+v) không đổi thì p’ tỷ lệ với m’ do đó những biện pháp nâng cao m’ cũng là những biện pháp nâng cao p’. F Tốc độ chu chuyển tư bản n : nếu n tăng thì khối lượng tư bản hoạt động trong năm sẽ lớn làm cho khối lượng giá trị thặng dư hàng năm tăng do đó p’ hàng năm tăng. Như vậy, p’ tỷ lệ với số vòng chu chuyển và tỷ lệ nghịch với thời gian chu chuyển của tư bản. Do đó, để nâng cao p’, các nhà tư bản đều tìm mọi biện pháp rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thông hàng hoá của mình. F Tiết kiệm tư bản bất biến c : Vì p’= m/(c+v) nếu m, v không đổi thì p’ vận động ngược chiều với c.Vì thế, để nâng cao p’, các nhà tư bản tìm mọi cách tiết kiệm tư bản bất biến như : sử dụng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, nhà kho, phương tiện vận tải với hiệu quả cao nhất ; thay nguyên liệu đắt tiền bằng nguyên liệu rẻ tiền ; giảm chi tiêu để bảo hiểm lao động, bảo vệ môi trường, giảm tiêu hao vật tư năng lượng, tận dụng phế liệu, phế phẩm, phế thải trong tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân của xã hội để sản xuất hàng hoá. F Cấu tạo hữu cơ của tư bản (c/v) : là tỷ số giữa giá trị tư bản bất biến c với tư bản khả biến v. Sự thay đổi cấu tạo hữu cơ của tư bản có ảnh hưởng đến p’: Cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng làm cho p’ giảm đồng thời làm khối lượng lợi nhuận tăng . CacMac gọi đó là hình thức biểu hiện tính chất hai mặt của quy luật tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm xuống. Để ngăn trở sự giảm xuống của tỷ suất lợi nhuận p’ : +) tăng mức độ bóc lột sức lao động làm cho các nhà tư bản nâng cao được tỷ suất giá trị thặng dư và do đó sẽ cản trở sự giảm p’ do đó cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng. +) hạ thấp tiền công xuống dưới giá trị sức lao động sẽ giảm bớt phần lao động được trả công do đó làm tăng phần lao động không công và giảm được lượng tư bản khả biến ứng trước v. +) hạ giá cả các yếu tố tư bản bất biến c. Giá tư liệu sản xuất giảm làm cho cấu tạo giá trị của tư bản tăng với mức thấp hơn mức tăng của cấu tạo kỹ thuật của tư bản. Do đó, p’giảm ít hơn mức tăng của (c/v). +) nhân khẩu thừa tương đối tận dụng được lượng nhân công rẻ mạt hoặc thu hút số lao động dư thừa ở các ngành công nghiệp có cấu tạo hữu cơ tư bản cao. Nhờ đó mà một số xí nghiệp cũ hay có cấu tạo hữu cơ tư bản thấp hơn mức trung bình có thể thu được tỷ suất lợi nhuận cao. +) hoạt động ngoại thương có thể mua được tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt rẻ làm giảm tư bản bất biến c và tư bản khả biến v. Các nhà tư bản có thể thu lợi nhuận cao hơn kinh doanh trong nước, nhờ đó tăng được tỷ suất lợi nhuận. +) tư bản cổ phần : là tư bản được đem đầu tư vào các xí nghiệp sản xuất lớn dưới hình thức tư bản cổ phần và chỉ đọc hưởng lợi tức cổ phần. Các tư bản cổ phần này không tham gia vào việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận chung, vì lợi tức cổ phần của họ thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân. Sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản kinh doanh trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm giành giật nơi đầu tư có lợi nhất đã hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Do trong các ngành sản xuất khác nhau, những nhân tố ảnh hưởng đến p’ mỗi ngành không giống nhau, kết quả là p’ thu được không bằng nhau. Các nhà tư bản theo đó mà sẽ kinh doanh ở những ngành có p’ cao làm thay đổi p’ cá biệt vốn có của các ngành. Do đó, trong một thời gian nhất định, p’ các ngành xấp xỉ bằng nhau, hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành sản xuất khác nhau. Tỷ suất lợi nhuận bình quân là con số trung bình của tất cả những tỷ suất lợi nhuận khác nhau đó : P’ bình quân = (p1’+….+pn’)/n Sau khi xác định được p’ bình quân có thể tính được p bình quân : pbình quân = P bình quân che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, vì bất cứ tư bản đầu tư vào ngành nào, nếu có khối lượng ngang nhau, rốt cuộc cũng thu được lợi nhuận bằng nhau. Nó không có quan hệ gì với khối lượng giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra. Trên thực tế, p bình quân chỉ là giá trị thặng dư được phân phối giữa các ngành sản xuất khác nhau tương ứng với số tư bản đầu tư của mỗi nhà tư bản một cách tự phát. Xét chung trong toàn xã hội : tổng lợi nhuận bằng tổng giá trị thặng dư. Theo Mac : lợi nhuận bình quân phản ánh mâu thuẫn giữa các nhà tư bản trong việc đấu tranh phân chia giá trị thặng dư do giai cấp công nhân tạo ra. Nó vạch rõ toàn bộ sự bóc lột của giai cấp tư sản đối với giai cấp công nhân. Khi lợi nhuận chuyển hoá thành p bình quân thì giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá cả sản xuất : W = c+v+m chuyển thành gcsx = k+pbình quân Khi đó quy luật giá trị có hình thức biểu hiện là quy luật giá cả sản xuất, còn quy luật giá trị thặng dư có hình thức biểu hiện là quy luật lợi nhuận bình quân. Chúng ta đã biết m và p không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có nguồn gốc từ lao động thặng dư. Đứng về một góc cạnh nào đó thì chính m biểu hiện cho sự bóc lột và chứng minh công thức mâu thuẫn của tư bản một cách chính xác, khoa học nhưng nó lại được che dấu bởi phạm trù lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội tư bản dưới các hình thức sau: ảLợi nhuận công nghiệp : về bản chất lợi nhuận công nghiệp là phần giá trị do người công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất.Đây là hình thái dễ thấy nhất, gần nhất với m.Lợi nhuận công nghiệp là hình thức chung nhất của các hình thức p, là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất . ả Lợi nhuận thương nghiệp : trong lưu thông, trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá được bán đi nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp chính là thực hiện khâu trên của tư bản chủ nghĩa, chính vì thế họ phải thu được một phần lợi nhuận mà tư bản công nghiệp kiếm được.Về thực chất thì tư bản thương nghiệp là một phần m dược sáng tạo ra trong quá trình sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho tư bản thương nghiệp. ả Lợi tức cho vay : đây là hình thức nhà tư bản này cho nhà tư bản khác vay một số tiền tạm thời nhàn rỗi của mình . Lợi tức là cái giá mà nhà tư bản hoạt động phải trả cho người sở hữu tư bản cho vay về quyền được sử dụng tạm thời khoản tư bản tiền tệ của người đó. Bản chất của lợi tức là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản hoạt động thu được nhờ tư bản cho vay trả cho nhà tư bản cho vay vốn , tức là một phần lợi nhuận bình quân . Xét ở một góc cạnh nào đó , nhà tư bản cho vay cũng là nhà tư bản kinh doanh hàng hoá nhưng là hàng hoá đặc biệt : tiền tệ . Lợi tức ở đây được hiểu chính là lợi nhuận của tư bản cho vay. ả Lợi nhuận ngân hàng : lợi nhuận ngân hàng là khoản chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức tiền gửi của ngân hàng sau khi khấu trừ các chi phí hoạt động . Về bản chất , tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động , vì vậy phần lợi nhuận do tư bản ngân hàng tạo ra cũng tham ra vào quá trình cạnh tranh với các ngành sản xuất khác . Vì vậy khoản lợi nhuận mà tư bản ngân hàng nhận được cũng là lợi nhuận bình quân. ả Địa tô : địa tô TBCN là khoản tiền mà nhà tư bản phải trả cho địa chủ- người sở hữu ruộng đất - để được sử dụng trong một thời gian nhất định. Địa tô là một bộ phận lợi nhuận siêu nghạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra (là bộ phận m sau khi trừ đi lợi nhuận bình quân) và do nhà tư bản thuê đất trả cho người sở hữu ruộng đất. 1.3. Quan điểm về lợi nhuận của một số nhà kinh tế học mới A.Marshall : lợi nhuận là thứ tiền lương cao. J.Keynes : lợi nhuận là hiệu quả của đầu tư tư bản. Samellson : lợi nhuận là kết quả của doanh thu- chi phí . Theo ông, lợi nhuận vừa là động lực vừa là mục đích, lợi nhuận sẽ lôi kéo người kinh doanh vào những mặt hàng có lợi nhuận cao bỏ trống những hàng hoá cho lợi nhuận thấp hoặc không lợi nhuận . Cách duy nhất để những nhà kinh doanh cạnh tranh được giá cả và thu lợi nhuận cao là giảm mức chi phí sản xuất đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất có hiệu quả , công nghệ hiện đại . Hạn chế chung đó là các nhà kinh tế học mới mới chỉ dừng lại phân tích lợi nhuận về mặt lượng . 2. Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam giai đoạn hiện nay 2.1.Vài nét về kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Từ đại hội đảng VI (12/1986) đảng và nhà nước ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý vĩ mô của nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế này phát huy vai trò điều tiết của thị trường, từng bước hình thành một thị trường cạnh tranh làm cho hàng hoá lưu thông, cung cầu cân đối, giá cả ổn định…Nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường là nền kinh tế trong đó những vấn đề : sản xuất cái gì ? sản xuất như thế nào ? sản xuất cho ai? được giải quyết thông qua thị trường . Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của các quy luật thị trường trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản trong cơ chế thị trường là cung cầu và giá cả thị trường. Cạnh tranh là môi trường, lợi nhuận là động lực. Đảng ta chủ trương cạnh tranh lành mạnh nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tế qua hơn 10 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể . Mặc dù bên cạnh đó vẫn có nhiều hạn chế song cùng với sự quản lý của nhà nước, kinh tế chính trị xã hội dần dần được ổn định. 2.2. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường Xã hội loài người đã chuyển từ hình thái kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá và từ kinh tế hàng hoá chuyển lên hình thái kinh tế thị trường . Đó là những quá trình mang tính tất yếu lịch sử, bởi con người luôn luôn mong muốn thoả mãn một cách cao nhất nhu cầu của mình, trong đó có nhu cầu lợi nhuận trong kinh doanh. Tuy nhiên, cùng một hành vi tối đa hoá lợi nhuận nhưng không hoàn toàn giống nhau trong XHCN và TBCN. 2.2.1. Phân biệt lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN và TBCN Đ Nếu như trong nền kinh tế thị trường TBCN lấy chế độ tư hữu làm nền tảng thì nền kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ công hữu.Chính quan hệ sản xuất nói chung và quan hệ sở hữu nói riêng là yếu tố đầu tiên quy định sự khác nhau về bản chất của hai loại thị trường . Cơ chế thị trường quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nhưng do có sự khác nhau về bản chất giữa hai loại thị trường : kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường XHCN nên cùng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận nhưng ở tính chất và mức độ khác nhau. Đ Mục tiêu của nền kinh tế thị trường XHCN là vì nhân dân lao động, do dân vì dân và thực hiện xã hội mọi người đều giàu có. Cho nên song song với việc phát triển kinh tế là thực hiện chính sách phân phối khác, kết hợp với việc các chính sách xã hội. Do đó khắc phục được sự phân hoá giàu nghèo, giảm dần được tỷ lệ nhân dân nghèo đói, mức sống trung bình của nhân dân ngày càng tăng. Đ Do chịu sự tác động của các quy luật kinh tế (quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh…) các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường luôn vận động cạnh tranh lẫn nhau. Tuy nhiên không vì thế mà họ có thể làm những việc trái với pháp luật, trái với tình người. Cạnh tranh trong môi trường XHCN không dã man tàn ác như trong môi trường TBCN, mà cạnh tranh để phát triển, phát triển vì mục tiêu con người . Lợi nhuận trong kinh tế thị trường XHCN không phải là kết quả của sự bóc lột sức lao động, không phải là quan hệ người bóc lột người mà là do tư liệu sản xuất thuộc về xã hội, lợi nhuận ở đây là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất và giá thành sản xuất của các doanh nghiệp. Do đó, trong điều kiện giá cả nhất định, lợi nhuận trực tiếp phản ánh sự biến động của giá thành sản phẩm. Và cũng như đối với các doanh nghiệp trong các nền kinh tế thị trường khác nhau, lợi nhuận cũng là thước đo hoàn hảo nhất để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nó là công cụ bình tuyển tự nhiên và rất công bằng : doanh nghiệp nào làm ăn có lãi sẽ tiếp tục mở rộng sản xuất và phát triển, còn doanh nghiệp nào làm ăn thua lỗ sẽ bị đào thải khỏi thị trường. Đối với các doanh nghiệp, một phần lợi nhuận sẽ được giữ lại để mở rộng sản xuất, đầu tư cải thiện sinh hoạt, làm việc của công nhân viên, trả tiền thưởng, trợ cấp… còn lại sẽ nộp cho nhà nước để phục vụ cho các mục đích công cộng như xây dựng cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội… Đ Lợi nhuận trong CNXH là mục tiêu cuối cùng của các nhà kinh tế, kích thích các nhà kinh tế mở rộng mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng nó không phải là mục tiêu cao nhất. Mục tiêu cao nhất là một mức lợi nhuận cao nhất trong khả năng cố gắng nỗ lực, đi kèm với bảo vệ môi trường, bảo vệ con người, bảo vệ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50669.doc
Tài liệu liên quan