- Tài liệu trưng bày.
Cần bám sát nhiệm vụtrung tâm và những hoạt động
hỗtrợcho việc thực hiện nhiệm vụ đó ở đơn ở địa phương
đểsưu tầm tài liệu Ban tổchức sưu tầm và xây dựng phòng
truyền thống cần phải liên hệchặt chẽvới cơquan văn hoá,
các tổchức quần chúng ở địa phương (đoàn thanh niên, hội
phụnữ) hoặc các đơn vịcơquan chức năng (tỉnh đội,
huyện đội, cơquan công an, phòng lao động thương binh
xã hội.) các bộphận lưu trữ(thuộc huyện uỷ ủy ban nhân
dân.) đểsưu tập tài liệu. Đặc biệt cần liên hệvà khai thác
tài liệu ởnhững cán bộcông tác lâu năm trong nhà trường,
cơquan, địa phương và trong quảng đại quần chúng.
Tài liệu đểtrưng bày trong phòng truyền thống rất đa
dạng vềthểloại chẳng hạn nhưtranh, ảnh vềcác hoạt động
của đơn vị địa phương, cờthưởng, huân chương, huy
chương, kỉniệm chương, bằng khen, giấy khen, mô hình,
sa bàn, bản đồ, biểu đồ, tập hồi kí, nhật kí, sổghi cảm
tưởng, thưtừgìn về đơn vị, những bài báo, tập san viết về
cơquan, địa phương v.v.
Ởmỗi đơn vị, tài liệu có thểkhác nhau, chẳng hạn ở
trường học thì tài liệu phản ánh nhiệm vụtrung tâm là dạy
và học ngoài ra còn lao động xây dựng trường, hoạt động
phục vụcông tác chiến đấu, lao động sản xuất v. v.
162 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu và dạy - Học lịch sử địa phương ở Việt Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
) đã thu
hút sự chú ý và có mặt của các thế hệ thầy, trò ở khắp các
địa phương. Đó thực sự là nét đẹp văn hoá, và cũng là điều
cần được duy trì, cải tiến hình thức tổ chức cho phù hợp
hơn. Không phải chỉ đợi đến những dịp đó chúng ta mới ôn
lại truyền thống của nhà trường và cung không phải chỉ
những học sinh cũ (nay đã trưởng thành ở nhiều lĩnh vực
khác nhau) mới nhớ lại trường xưa, nhắc tới những kỉ niệm
của một thời học tập và rèn luyện. Điều cần thiết hơn cả là
để cho những học sinh hiện tại hiểu được mình đang học
tập ở một ngôi trường có truyền thống ra sao, biết cần phải
làm gì cho chính mình và sự rạng danh của ngôi trường
mình đang học. Cả những thế hệ trước đô đều nhắc đến
bằng những tình cảm trân trọng và biết ơn sâu sắc.
Chính điều đó đang đặt ra những yêu cầu bức xúc đối
với việc cần thiết phải xây dựng lịch sử nhà trường, xây
dựng phòng lịch sử và phòng truyền thống ở các trường học
hiện nay, nhất là các trường có rèn tuôn bây lâu nay trong
lịch sử phát triển của ngành giáo dục đào tạo.
a) xây dựng lịch sử nhà trường
- Công tác tổ chức nghiên cứu lịch sử nhà trường.
Không hoàn toàn giống việc nghiên cứu lịch sử địa
112
phương, công tác nghiên cứu lịch sử nhà trường vừa có nét
chung vừa có nét riêng (chẳng hạn về lực lượng nghiên
cứu, nguồn tài liệu nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu v.v...
Mặc dầu vậy, công tác tổ chức nghiên cứu vẫn phải bám sát
những nguyên tắc cơ bản của nó, cách sưu tầm, xử lí tư liệu
cũng không vượt khỏi khung giới của phương pháp nghiên
cứu lịch sử địa phương.
Công việc đầu tiên của hoạt động nghiên cứu lịch sử
nhà trường là thành lập ban chỉ đạo. Thông thường trưởng
ban chỉ đạo là hiệu trưởng, hoặc phó hiệu trưởng phụ trách
chuyên môn, chủ nhiệm khoa (ở các trường đại học chuyên
nghiệp) và sự tham gia của giáo viên bộ môn lịch sử, bí thư
đoàn thanh niên nhà trường. Ban chỉ đạo sẽ thông qua kế
hoạch tổng thể: Thời gian tiến hành, các bước tiến hành, dự
trù kinh phí, yêu cầu đối với công việc và mục tiêu cuối
cùng của hoạt động đó.
Dựa vào kế hoạch chung đó, cán bộ phụ trách chuyên
môn sẽ lập kế hoạch sưu tầm tư liệu để chuẩn bị cho công
tác biên soạn. ra có thể tập hợp một số học sinh có năng lực
ham thích tìm hiểu lịch sử nhà trường, phân công công việc
sưu tầm tư liệu theo để cương sưu tầm của ban chỉ đạo đã
thông qua. Việc sưu tầm tài liệu có thể căn cứ vào những
nguồn chủ yếu sau đây:
+ Nghiên cứu các loại văn bản, hồ sơ về việc thành lập
trường.
+ Nghiên cứu các biên bản cuộc họp các bản báo cáo
113
tổng kết, nhiệm vụ năm học của nhà trường qua các năm,
các thời kì khác.
+ Các bài viết về trường nhân dịp kỉ niệm, hoặc bài
đăng trên các báo địa phương, Trung ương (nếu có).
+ Gặp gỡ trao đổi, khai thác tư liệu ở những người thầy
giáo đã từng công tác ở trường lâu năm, hoặc những học
sinh cũ thuộc các thế hệ khác nhau của trường.
Những loại tài liệu thành văn (chủ yếu các văn bản, bài
viết) thường được lưu giữ tại trường, ở văn phòng uỷ ban
các cấp địa phương (huyện, xã, tỉnh) hoặc ở cơ quan ngành
dọc (Sở Giáo dục, Bộ Giáo dục đào tạo, v.v...).
Một phần (rất ít) có thể khai thác trong những cuốn hồi
ký của các thầy, cô giáo đã công tác nhiều năm ở trường,
hoặc ở bộ phập quản lý ngành.
Cần triệt để khai thác tài liệu qua những nhân chứng
sống, đó là những cán bộ địa phương phụ trách công tác
văn xã, gần gũi và am hiểu tình hình nhà trường, các đồng
chí cán bộ quản lí giáo dục, đặc biệt là đối với các thầy cô
giáo đã công tác lâu năm (có người đã công tác từ ngày
thành lập trường). Tuy vậy sưu tầm tài liệu qua các thầy, cô
giáo và học sinh cũ của trường nhiều khi cũng gặp phải
không ít khó khăn vì họ có thể không còn công tác ở địa
phương, hoặc nhớ chưa thật chính xác.
Những trường hợp như vậy cần phải tìm được địa chỉ
và có thời gian liên lạc trao đổi (có thể bằng thư từ). Càng
liên hệ được nhiều người cung cấp tư liệu thì việc sưu tầm
114
và xử lí tư liệu càng thuận lợi (có cơ sở so sánh, đối chiếu
tài liệu).
- Khi đã có tài liệu, cần lập ban biên soạn lịch sử của
trường. Ban biên soạn trước hết là giáo viên bộ môn lịch
sử, và có thể mời giáo viên bộ môn văn cùng tham gia công
tác này. Cũng như biên soạn các công trình lịch sử địa
phương, ban biên tập phải có kế hoạch cụ thể để hoàn thành
nhiệm vụ của mình.
- Phương bướng biên soạn lịch sử nhà trường.
+ Yêu cầu chung
Việc biên soạn lịch sử nhà trường phải gắn mục tiêu
đào tạo cụ thể của nhà trường với nhu cầu phát triển văn
hoá giáo dục của địa phương. Cuốn lịch sử nhà trường
được biên soạn không phải chỉ có tác dụng giáo dục đối với
thầy và trò của nhà trường mà còn là việc ghi nhận sự giúp
đỡ tích cực của địa phương, phản ánh tình cảm nguyện
vọng và trách nhiệm của nhân dân địa phương đối với việc
phân phối chặt chẽ hoạt động xây dựng nhà trường và
thống nhất quan điểm, biện pháp giáo dục thế hệ trẻ. Chính
vì vậy biên soạn lịch sử nhà trường qua mỗi thời kỳ (kể từ
khi thành lập đến nay) phải thông qua trình bày các sự kiện,
đánh giá một cách toàn diện nó, làm nổi bật sự phát triển
của nhà trường trong quá trình xây dựng, trưởng thành.
Tính toàn diện khách quan, chính xác của lịch sử nhà
trường mới có ý nghĩa thuyết phục và tác dụng giáo dục
học sinh sâu sắc. Cuốn lịch sử nhà trường nhất thiết phải
115
nhằm tới mục tiêu giáo dục truyền thống tốt đẹp của nhà
trường cho học sinh, các em biết trân trọng phát huy truyền
thống tốt đẹp của nhà trường, biết nhìn nhận đánh giá
những hạn chế còn tồn tại trong quá trình phát triển. Không
chỉ vậy các em cần phải hiểu rõ những cố gắng, nỗ lực to
lớn của địa phương đối với nhà trường trong quá trình xây
dựng và phát triển... Cuốn lịch sử nhà trường phục vụ trực
tiếp cho đối tượng đông đảo là học sinh vì vậy cách biên
soạn không nên viết bằng thể văn chính luận mà trình bày
dưới dạng nhẹ nhàng, mềm mại uyển chuyển hơn.
+ Gợi ý bố cục, nội dung của cuốn lịch sử nhà trường.
Phần đầu của cuốn lịch sử nhà trường cần xác định thời
gian thành lập trường, địa điểm đầu tiên mà trường đóng,
nhu cầu và truyền thống học tập của địa phương, những
biện pháp giúp đỡ và tình cảm của địa phương đối với nhà
trường trong buổi đầu thành lập: Phác hoạ hình ảnh (bộ
mặt) nhà trường trong những ngày đầu. Những người thầy
có công khai lập trường, những thầy cô đã có mặt từ buổi
đó đến giờ. Những gương mặt tiêu biểu của lớp học trò đầu
tiên v.v...
- Phần nội dung trình bày sự phát triển của nhà trường
cần chú ý những mặt hoạt động chủ yếu của nhà trường qua
các thời kì lịch sử. Chẳng hạn công tác dạy và học, hoạt
động lao động sản xuất ở nhà trường và địa phương, công
tác phục vụ chiến đấu tham gia nhiệm vụ chính trị ở địa
phương.
116
Khi trình bày những mảng hoạt động đó cần chú ý
những nội dung cụ thể sau đây:
+ Đội ngũ giáo viên qua các thời kì, số lượng, chất
lượng.
+ Sự phát triển học sinh, các khối lớp cả về số lượng và
chất lượng đào tạo.
+ Những biến động của đội ngũ thầy, trò trong quá
trình phát triển.
+ Những kết quả đạt được trong các mảng công tác
(chất lượng dạy - học, đội ngũ giáo viên giỏi, học sinh giỏi,
thành tích trong lao động xây dựng cơ sở vật chất nhà
trường, lao động ở địa phương, chiến đấu phục vụ chiến
đấu, tham gia công tác văn hoá xã hội ở địa phương v.v...)
Đề cập những nội dung đó, có thể nêu tên những tấm
gương tiêu biểu của thầy và trò trong từng mảng hoạt động.
Cũng cần phải trình bày những hạn chế, nhược điểm của
các hoạt động đó, biện pháp khắc phục, kết quả của những
biện pháp đó. Một số trường có những hoạt động đối ngoại
có hiệu quả cũng cần được để cập.
- Phần cuối của cuốn sử có thể đánh giá chung về sự
phát triển toàn diện của nhà trường, rút ra những kinh
nghiệm, bài học từ chính sự thành công và thất bại của các
hoạt động đó. Đánh giá vị trí những đóng góp của nhà
trường đối với ngành giáo dục và đối với địa phương, đề
xuất phương hướng phát triển tiếp tục của nhà trường trong
giai đoạn tới. Những thuận lợi, khó khăn cần khắc phục để
117
thực hiện nhiệm vụ tiếp theo.
Tóm lại, cuốn sử nhà trường phải đúng ý nghĩa là cuốn
sử của thầy và trò của những phụ huynh học sinh và những
người có công lao đối với sự phát triển mọi mặt của ngôi
trường đó.
b) Công tác xây dựng phòng lịch sử
Xây dựng phòng lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với
việc dạy học lịch sử nói chung, đối với việc học lịch sử địa
phương nói riêng. Phòng lịch sử là nơi lưu giữ và thể hiện
sinh động, trực quan lôgic những tài liệu phục vụ cho các
bài học lịch sử. Chẳng hạn các hiện vật khảo cổ có thể đã
phục chế) các tranh, ảnh lịch sử các sơ đồ biểu đồ, bản đồ,
sa bàn, phim đèn chiếu, phim nhựa, vi deo v.v... Bài học
lịch sử được tiến hành trong phòng lịch sử được chuẩn bị
chu đáo, tổ chức tốt sẽ đem lại hiệu quả dạy - học cao.
Trong phương pháp dạy, học hiện đại, lấy đối tượng giáo
dục làm trung tâm, phát huy tối đa năng lực nhận thức độc
lập, sự chủ động, sáng tạo trong quá trình lĩnh hội kiến thức
của học sinh thì phòng lịch sử càng đóng vai trò quan
trọng. Chính vì lẽ đó, ở các nước tiên tiến phòng lịch sử
được coi trọng và có sự đầu tư thoả đáng để xây dựng
thành nơi dạy học hộ môn lịch sử. Vấn để đó được đặt
tương ngang như là việc xây dựng các phòng thí nghiệm
của các bộ môn khoa học tự nhiên. Bài học lịch sử tiến
hành trên lớp không chỉ bị hạn chế về thời gian mà còn gặp
nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và sử dụng tài liệu phục
vụ học tập. Phòng lịch sử sẽ góp phần khắc phục hạn chế
118
đó.
Vậy nhưng việc xây dựng phòng lịch sử ở nước ta hiện
nay hầu như chưa được tiến hành. Ở những trường phổ
thông lâu năm, quy mô lớn và ngay cả ở các trường đại học
có chuyên ngành lịch sử vẫn chưa xây dựng được phòng
lịch sử. Một số nơi mới xây dựng được phòng tư liệu,
nhưng đó cũng chỉ là một thư viện nhỏ kiêm lưu giữ một số
hiện vật, đồ dùng dạy học. Để xây dựng được một phòng
lịch sử cần phải khắc phục một số những khó khăn sau đây:
- Cần có những nhận thức, quan niệm đúng đắn về vị trí
của phòng lịch sử đối với việc giáo dưỡng và giáo dục học
sinh qua học tập bộ môn. Nét đặc trưng của bộ môn lịch sử
là không thể tái tạo quá khứ bằng phương pháp thí nghiệm
song lại có thể khôi phục bức tranh của quá khứ bằng
những biểu tượng lịch sử sinh động, những biểu tượng đó
trước hết và chủ yếu được tạo nên bởi những tài liệu lịch sử
đa dạng và phong phú.
Cần có sự đầu tư hợp lí cho việc sưu tầm, tập hợp tài
liệu, xây dựng hệ thống đồ dùng dạy học lịch sử (tranh ảnh,
sơ đồ, biểu đồ, sa bàn, phim đèn chiếu, vi deo v.v...) Khắc
phục những khó khăn đó là một vấn đề còn nan giải, phức
tạp, nó đòi hỏi phải có sự thống nhất trong nhận thức, hành
động của nhiều cấp, ngành, cơ quan, đơn vị trường học.
Nhưng dù sao chăng nữa chừng nào chúng ta chưa xây
dựng được phòng lịch sử thì chừng đó hiệu quả dạy học bộ
môn lịch sử còn hạn chế, chưa thể đáp ứng mục tiêu đào
tạo của nhà trường. Xây dựng phòng lịch sử đang và sẽ còn
119
là những đòi hỏi bức thiết để giải quyết thực trạng của giáo
dục qua bộ môn lịch sử.
Ở những nơi mà điều kiện cho phép, xây dựng phòng
lịch sử cần chú ý một số yêu cầu sau đây:
- Về tài liệu: Tài liệu để xây dựng phòng lịch sử phải
nhằm phục vụ trực tiếp cho bài học lịch sử. Những tài liệu
đó nhất thiết phải được xử lí thận trọng để đảm bảo tính
khoa học, vừa sức, tính tư tưởng v.v...
- Về xây dựng: Tài liệu được trình bày trong phòng lịch
sử phải đảm bảo tính đa dạng, phong phú, được cấu trúc
trong bố cục hợp lí hệ thống, lôgic và lịch sử. Mặt khác các
loại tài liệu vừa phải đảm bảo tính trực quan vừa có ý nghĩa
thẩm mĩ sư phạm.
c) Công tác xây dựng phòng truyền thông nhà trường
và địa phương.
Phòng truyền thống của nhà trường hoặc nhà truyền
thống địa phương của các đơn vị sản xuất, chiến đấu v.v...
là nơi lưu giữ và tưng bày nhiều hiện vật, tài liệu phản ánh
thành tích toàn diện của các đơn vị đỏ. Chính vì vậy phòng
truyền thống có tác dụng giáo dục tốt đối với học sinh, cán
bộ nhân viên và nhân dân địa phương.
Hiện nay ở một số trường học, cơ quan, địa phương đã
xây dựng được phòng truyền thống và phát huy tác dụng
giáo dục trong đơn vị của mình. Tuy nhiên để đẩy mạnh
việc xây dựng phòng truyền thống và phát huy vai trò giáo
dục của nó cần phải nắm được những nguyên tắc cơ bản
120
trong sưu tầm tài liệu và xây dựng, trưng bày hiện vật.
- Tài liệu trưng bày.
Cần bám sát nhiệm vụ trung tâm và những hoạt động
hỗ trợ cho việc thực hiện nhiệm vụ đó ở đơn ở địa phương
để sưu tầm tài liệu Ban tổ chức sưu tầm và xây dựng phòng
truyền thống cần phải liên hệ chặt chẽ với cơ quan văn hoá,
các tổ chức quần chúng ở địa phương (đoàn thanh niên, hội
phụ nữ) hoặc các đơn vị cơ quan chức năng (tỉnh đội,
huyện đội, cơ quan công an, phòng lao động thương binh
xã hội...) các bộ phận lưu trữ (thuộc huyện uỷ ủy ban nhân
dân...) để sưu tập tài liệu. Đặc biệt cần liên hệ và khai thác
tài liệu ở những cán bộ công tác lâu năm trong nhà trường,
cơ quan, địa phương và trong quảng đại quần chúng.
Tài liệu để trưng bày trong phòng truyền thống rất đa
dạng về thể loại chẳng hạn như tranh, ảnh về các hoạt động
của đơn vị địa phương, cờ thưởng, huân chương, huy
chương, kỉ niệm chương, bằng khen, giấy khen, mô hình,
sa bàn, bản đồ, biểu đồ, tập hồi kí, nhật kí, sổ ghi cảm
tưởng, thư từ gìn về đơn vị, những bài báo, tập san viết về
cơ quan, địa phương v.v...
Ở mỗi đơn vị, tài liệu có thể khác nhau, chẳng hạn ở
trường học thì tài liệu phản ánh nhiệm vụ trung tâm là dạy
và học ngoài ra còn lao động xây dựng trường, hoạt động
phục vụ công tác chiến đấu, lao động sản xuất v. v... Nhưng
ở địa phương thì tài liệu phản ánh nhiệm vụ cơ bản của địa
phương theo từng thời kì (lao động sản xuất, chiến đấu và
121
phục vụ chiến đấu, phát triển kinh tế văn hoá xã hội v.v...)
Điều cơ bản là tài liệu phải làm nổi bật thành tích của đơn
vị, tập thể và cá nhân có tác dụng nêu gương bồi dưỡng
lòng tự hào cho quần chúng, để họ có ý thức trân trọng biết
giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của địa phương,
của đơn vị mình.
Đối với việc sưu tập hiện vật để xây dựng phòng truyền
thống của nhà trường, người ta thường lưu ý một số loại
sau đây:
+ Tranh ảnh, hoặc tài liệu viết về nhà trường những
buổi đầu mới thành lập, những người có công lao xây dựng
nhà trường, những gương mặt của đội ngũ thầy, trò qua các
khoá học.
+ Tranh ảnh hoặc tài liệu phản ánh những hoạt động
chủ yếu của nhà trường qua các giai đoạn, hồi kí, hoặc
tham gia những ngày kỉ niệm truyền thống (ngày thành lập
trường, ngày đại hội, gặp mặt, kỉ niệm 20/11, 8/3 v.v...)
+ Các loại đồ dùng học tập, những cải tiến, sáng kiến
của thầy và trò trong công tác giảng dạy và học tập, nghiên
cứu khoa học.
+ Các loại giấy khen, bằng khen, giấy chứng nhận v.v...
đánh giá thành tích của nhà trường, các đơn vị, cá nhân
trong trường ở tất cả các hoạt động dạy, học, văn nghệ, thể
thao, phục vụ chiến đấu và sản xuất ở địa phương, công tác
đối ngoại giao lưu trao đổi công tác giữa các trường ở trong
và ngoài nước.
122
+ Các loại tranh, ảnh phản ánh thành tích nổi bật của
những đơn vị và cá nhân tiêu biểu. Cũng có thể sưu tập
những cuốn sổ tay, nhật kí, những bài viết, cảm tượng của
học sinh khi ra trường hoặc ở nơi công tác gửi về trường.
Để học sinh có thể dễ hình dung những vị trí, quy mô của
trường qu8 mỗi giai đoạn lịch sử có thể minh hoạ qua sơ đồ
quy hoạch phát triển hoặc vị trí của trường trên bản đồ địa
phương. Nếu nhà trường đã biên soạn được lịch sử thì cuốn
sử đó cũng nên trình bày trong phòng truyền thống.
- Yêu cầu đối với việc xây dựng phòng truyền thống.
+ Việc trước hết là lựa chọn địa điểm xây dựng phòng
truyền thống hoặc nhà truyền thống địa phương phải là nơi
trung tâm, tiện đi lại, dễ quan sát, phong quang, trang trọng
hoặc gắn với di tích lịch sử tiêu biểu ở địa phương. Vị trí
tiện lợi cho việc tổ chức những hoạt động tập thể, gắn với
kiến trúc tống thể của khu vực một cách hài hoà, tuyệt đối
tránh xây dựng ở nơi trũng thấp lụt úng hoặc tách rời đơn lẻ
lạc lõng.
+ Tài liệu có thể trưng bày theo từng chủ đề, mảng hoạt
động hoặc cũng có thể trình bày theo các giai đoạn phát
triển của nhà trường cơ quan, địa phương. Có thể thay đổi
sự trưng bày hiện vật theo chủ đề của các dịp kỉ niệm, ngày
lễ hội.
+ Nên có sự cân nhắc lựa chọn hiện vật trưng bày sao
cho hợp lí tránh tham lam, ôm đồm, trưng bày quá nhiều tài
liệu làm cho phòng truyền thống trở nên chật chội, rườm rà.
123
Tài liệu phải phản ánh tính toàn diện và tiêu biểu, điển hình
có ý nghĩa giáo dục.
+ Cách bài trí vừa đảm bảo tính trực quan, thẩm mĩ vừa
toát hiện ý nghĩa trân trọng tạo nên cảm giác dễ gây ấn
tượng, hồi tưởng và ngẫm suy.
124
PHẦN PHỤ LỤC
HƯỚNG DẪN BIÊN SOẠN
MỘT SỐ BÀI GIẢNG VỀ LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG
Ở VIỆT BẮC
BÀI l: VĂN HOÁ BẮC SƠN (LẠNG SƠN)
1. Sự xuất hiện nền văn hoá Bắc Sơn.
Xứ Lạng từ xưa vốn nổi tiếng là một miền quê sơn thuỷ
hữu tình. Nơi đây có những dãy núi đá vôi trùng điệp, ẩn
chứa nhiều hang động, nhiều thung lũng bằng phẳng, màu
mỡ và sông suối trong lành đầy nước quanh năm. Điều kiện
tự nhiên đó đã góp phần tạo nên nền văn hoá Bắc Sơn nổi
tiếng trong lịch sử dân tộc và khu vực Đông Nam Á.
Nền văn hoá Bắc Sơn xuất hiện cách ngày này khoảng
từ 9 đến 7.000 năm, nhưng mãi đến đầu thế kỉ XX nó mới
được phát hiện. Năm 1906 nhà địa chất học người Pháp là
H.Mansuy đã tiến hành khai quật hang Thẩm Khoách (Bình
Gia - Lạng Sơn), thu được những công cụ bằng đá và phát
hiện được xương người - chủ nhân của những công cụ đó.
Những di cốt này thuộc sơ kì đồ đá mới.
Từ năm 1922 – 1925, những cuộc khai quật tiếp theo
của H.Mansuy và M. Côlani đã phát hiện thêm 43 di tích ở
Bắc Sơn.
Những tài liệu được công bố đã thu hút sự chú ý của
các nhà khảo cổ học trên thế giới.
125
Trong những năm 60 của thế kỉ này, các nhà khảo cổ
học Việt Nam đã tiến hành khảo cứu, khai quật một số di
tích ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Kéo Lẻng v.v... thu được
nhiều di vật giá trị: những mảnh xương, răng người, xương
động vật, công cụ bằng đá mảnh gốm v.v... Đặc biệt ở đây
đã tìm thấy nhiều loại rìu mài lưỡi, được gọi là "Rìu Bắc
Sơn" (Hache Bacsoniens) cùng với những phiến thạch nhỏ,
dài, trên thân có nhiều vết lõm hình máng úp rộng từ 3 - 8
cm, sâu từ 1 - 3 cm (gọi là dấu Bắc Sơn")( )1 . Những hiện
vật khảo cổ đó được coi là tiêu biểu của nền văn hoá Bắc
Sơn xuất hiện vào loại sớm nhất ở châu Á.
Văn hoá Bắc Sơn không chỉ tập trung dày đặc ở trong
sơn khối Bắc Sơn của Xứ Lạng, mà còn xuất hiện ở nhiều
nơi như: Bắc Thái, Cao Bằng, và cả ở vùng Đông Nam Á.
Những loại Rìu mài lưỡi kiểu Bắc Sơn còn được tìm thấy ở
Xiêng Ray (Thái Lan), Laquadelba (Phi líp pin), Malang
(Inđônexia) v.v.. Những tài liệu thu được đã chứng tỏ rằng
nền văn hoá Bắc Sơn là dấu vết của tổ tiên loài người trong
thời tiền sử.
2. Đời sống của cư dân nguyên thủy.
Dựa vào các hiện vật khảo cổ, cảnh quan thiên nhiên,
của vùng sơn khối đá vôi những dấu tích còn lưu lại trong
các hang động, ta có thể hình dung được cuộc sống của bầy
người nguyên thuỷ - chủ nhân của nền văn hoá Bắc Sơn.
(1) về công dụng của hiện vật này cũng còn nhiều ý kiến. Có
giả thuyết cho rằng đấy là một loại bàn mài.
126
Trong buổi đầu của thời kì tiền sử, đời sống của người
nguyên thuỷ lệ thuộc chặt chẽ vào thiên nhiên. Họ sống
thành từng bầy, lang thang hái lượm và săn bắt, trú ẩn trong
các hang động tự nhiên. Thức ăn chủ yếu là các loại rau
quả hoang dã, thịt thú rừng, cá, tôm, trai ốc v.v... ( )1 .
Qua quá trình phát triển lâu dài, người nguyên thuỷ đã
đã tích luỹ được những kinh nghiệm chế tác công cụ. Họ đã
tạo ra các loại rìu dài, rìu hạnh nhân, đặc biệt là rìu mãi
lưỡi và một số công cụ đào bới khác. Những cải tiến đó
giúp họ thoát dần sự lệ thuộc chặt chẽ vào thiên nhiên. Từ
hái lượm những sản phẩm sẵn có, cư dân nguyên thuỷ đã
biết cách trồng trọt. Ban đầu là những loại bầu, bí, rau củ
sau đó là những cây có hạt, cây ăn quả. Từ sự cải tiến công
cụ, việc săn bắt và săn bắn cũng có hiệu quả hơn. Ngoài
những cầm thú nhỏ như nhím, gà, chồn, cáo, họ còn bắt
được những thú lớn như hươu, nai, thậm chí cả thú dữ như
hổ, gấu, lợn rừng.
Những chiếc răng, xương của thú rừng tìm thấy cùng
các di tích của người trong cùng tầng văn hoá Bắc Sơn đã
nói lên điều đó. Những cầm thú săn bắt được, cư dân
nguyên thuỷ đã giữ lại nuôi làm thức ăn dự trữ, một số loài
được thuần dưỡng (chó, mèo, gà, lợn).
Như vậy cùng với Hoà Bình, cư dân Bắc Sơn đã có kĩ
(1). Qua việc khai quật các hang động ở Bắc Sơn đã phát
hiện những đống vỏ ốc lớn (cả óc núi và ốc suối) có chiều dày từ
1m - 3m, chứng tỏ đây là nguồn thức ăn quan trọng của họ.
Người nguyên thuỷ cũng lưu lại khá lâu ở những nơi dễ kiếm ăn.
127
thuật mài đá tạo ra những lưỡi rìu sắc. Đó là những công cụ
tiện lợi, hữu ích, làm giảm cường độ lao động, tăng tính
hiệu quả của việc làm. Chính vì lẽ đó các nhà khảo cổ đã
khẳng định rằng: "Cái rìu tầm thường đã đưa đến cả một
cuộc cách mạng"( )1 . Từ "cách mạng” trước hết là công cụ
dẫn tới cách mạng trong nông nghiệp với sự ra đời của
trồng trọt và chăn nuôi.
Ngoài những công cụ lao động, cư dân nguyên thuỷ ở
Bắc Sơn còn biết làm đồ gốm. Những mảng gốm thô, nặn
bằng tay, độ nung thấp, được tìm thấy trong một số di tích
văn hoá Bắc Sơn (Đồng Thuộc, Đồng lầy, Làng Vạc v.v...).
Dẫu còn rất thô sơ, nhưng đồ gốm đã giúp cư dân cải thiện
dần đời sống. Đồ gốm đựng nước, cất thức ăn dự trữ, làm
cho cuộc sống, sinh hoạt của họ được chủ động hơn xưa.
Cùng với việc phát triển đời sống văn hoá vật chất là sự
xuất hiện văn hoá tinh thần. Những công cụ của nền văn
hoá Bắc Sơn được tìm thấy ở nhiều nơi, cả trong và ngoài
nước, những vỏ ốc biển được tìm thấy trong các di chỉ ở
Bắc Sơn chứng ta cư dân nguyên thuỷ ở đây đã có sự giao
lưu rộng rãi.
Người ta còn tìm thấy những vỏ ốc biển được mài nhẵn
phần lưng để làm đồ trang sức (di chỉ Thẩm Kho ách, làng
Lôi) chứng tỏ rằng từ buổi xa xưa, cư dân nguyên thuỷ Bắc
Sơn đã có đời sống tinh thần phong phú.
(2) xem GS. Hoàng Xuân Chinh: Xứ Lạng - Quê hương văn
hoá Bắc Sơn. Tuyển tập luận văn. Hội nghị khoa học về Xứ
Lang - Lạng Sơn. Sở Văn hoá thông tin Lạng Sơn 1988.
128
3. Ý nghĩa của nền văn hoá Bắc Sơn.
Nên văn hoá Bắc Sơn có ý nghĩa quan trọng đối với việc
khảo cứu thời kì nguyên thuỷ ở Việt Nam và thế giới. Từ
chiếc răng của người tối cổ cách ngày nay hàng chục vạn
năm, đến những di cất của người vượn ở Trung Kì Cánh Tân
cách ngày nay khoảng 250.000 năm, đặc biệt các hộp sọ ở
thời kì đá mới cách đây khoảng từ 9000 - 7000 năm v.v... đã
chứng tỏ Bắc Sơn là một trong những chiếc nôi xuất hiện loài
người.
Những hoá thạch ở Kéo Lèng, Thẩm Khuyên, Thẩm
Hai cùng với di tích Hang Hùm (Yên Bái) đã chứng minh
rằng từ thời đồ đá cũ, ở Việt Nam đã xuất hiện người Vượn
(Hono erectus) người khôn ngoan (Hono sapiens) và sau
nữa là người khôn ngoan thực sự (Homo sapiens sapiens).
Việc cư dân Bắc Sơn sáng tạo ra những chiếc rìu mài
lưỡi được coi là cuộc cách mạng đá mới sớm nhất trên thế
giới. Đồ gốm xuất hiện cùng với đồ trang sức bằng vỏ sò đã
chứng tỏ trình độ phát triển cao của chủ nhân nền văn hoá
Bắc Sơn so với bối cảnh chung của thế giới lúc bấy giờ.
Chính vì vậy, văn hoá Bắc Sơn không chỉ có sức sống bền
lâu mà còn toả ảnh hưởng mạnh mẽ sang các vùng trong và
ngoài nước.
Văn hoá Bắc sơn mở đầu cho thời kì đá mới với nét đặc
trưng là phát triển văn hoá nông nghiệp, giúp con người bớt
dần sự lệ thuộc vào tự nhiên.
Trên cơ sở đó cư dân, nguyên thuỷ tiến xuống các triền
sông, đồng bằng, ven biển để lại những di tích như Soi Nhụ
(Quảng Ninh) tiếp sau cư dân Hoà Bình tạo ra văn hoá Đa
Bút nổi tiếng (ven biển Thanh Hoá). Hàng mấy ngàn năm
sau, đến những di chỉ của văn hoá Phùng Nguyên, người ta
vẫn tìm thấy những công cụ đặc trưng của nền Văn hoá Bắc
Sơn. Điều đó càng chứng tỏ trình độ phát triển và sức sống
mạnh mẽ của nền văn hoá này. Những chứng tích đó đã bác
bỏ những quan điểm của một số học giả phương Tây, cố
tình đánh giá thấp, coi nhẹ sự phát triển của nền văn hoá ở
Việt Nam và Đông Nam Á.
- Vì sao nói những điều kiện tự nhiên đã góp
phần tạo ra nền Văn hoá Bắc Sơn
- Miêu tả đời sống của cư dân nguyên thuỷ
Bắc Sơn ?
?
- Phân tích ý nghĩa của nền Văn hoá Bắc
Sơn?
Đọc thêm: MỘT SỐ DI TÍCH KHẢO CỔ Ở BẮC SƠN
1. Hang Thẩm khoách: thuộc núi Cai Kinh, cách Bình
gia (Lạng Sơn) 400 m về phía Tây. Năm 1906 nhà địa chất
học, người Pháp H.Mansuy đã khai quật và thu được ở đây
7 bộ xương người (5 bộ xương người lớn, 2 bộ xương trẻ
em). Nghiên cứu các hộp sọ, các nhà khảo cổ cho rằng đó
là sọ người
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc (33).pdf