Suy thoái rừng đang là một vấn đề bức bách ở Việt Nam, ảnh hưởng đến hệ sinh thái, đa dạng sinh học và biến đổi môi trường nói chung. Diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995). Rừng ngập mặn ven biển cũng bị suy thoái nghiêm trọng giảm 80% diện tích do bị chuyển đổi thành các ao - đầm nuôi trồng thuỷ hải sản thiếu quy hoạch. Gần đây, diện tích rừng tuy có tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ ở mức khoảng 8% so với 50% của các nước trong khu vực. Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong các hoạt động thực hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước đa dạng sinh học nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn và dịch vụ của các hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tài nguyên nước, giảm phát thải CO2. Cùng với đó một vấn đề mà Việt Nam đặt ra là sinh kế cho người dân tộc thiểu số.
Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa xóa đói giảm nghèo và bảo tồn rừng, bằng việc đặt kế hoạch sẽ giảm tỉ lệ nghèo của toàn quốc xuống dưới 40% và phục hồi tỉ lệ che phủ rừng tới 43% vào năm 2010. Một số tiềm năng được xác định bao gồm: (a) chi trả các dịch vụ môi trường đã được xem xét ở trong các chính sách. Việc phát triển các cơ chế hỗ trợ người nghèo thông qua việc đền đáp các dịch vụ môi trường mà họ cung cấp đang diễn ra; (b) quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM) được khuyến khích phát triển dựa trên nhận định rằng cộng động chính là chủ thể quản lý đất rừng; (c) hợp tác công tư theo định hướng thị trường trong việc trồng mới rừng, phòng tránh phá rừng và suy thoái rừng, tạo thu nhập thay thế đảm bảo an toàn lương thực đang được các nhà tài trợ và chính phủ khuyến khích và hỗ trợ. Đáng khuyến khích hơn, các dự án thí điểm ở Đông Nam Á và Việt Nam đã cho thấy các cơ hội và giải pháp đôi bên cùng có lợi trong việc giải quyết các vấn đề nghèo đói và môi trường, đặc biệt với các trường hợp rất khó giải quyết trong nhiều năm. Ngoài ra, các đền đáp như một động lực cho việc quản lý môi trường đang ngày càng trở nên phổ biến dưới sự tác động và hỗ trợ của việc thực hiện các cơ chế thị trường mới và phức tạp.
Quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần và chuyển hướng chiến lược lâm nghiệp, từ lâm nghiệp Nhà nước sang lâm nghiệp nhân dân đã xuất hiện nhiều nhân tố mới, đặc biệt là đa dạng hoá các phương thức quản lý tài nguyên rừng.
Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một trong những mô hình quản lý rừng đang thu hút sự quan tâm ở cấp Trung ương và địa phương. Xét về mặt lịch sử, ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn và tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Đặc biệt, trong vài năm gần đây, xuất phát từ yêu cầu quản lý rừng, một số địa phương đã triển khai giao đất, giao rừng cho cộng đồng (làng bản , nhóm hộ.) quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, theo đó, cộng đồng với tư cách như một chủ rừng. Ngoài ra, các cộng đồng còn tham gia nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức Nhà nước. Thực tiễn một số nơi đã chỉ rõ quản lý rừng dựa vào cộng đồng địa phương sống gần rừng là mô hình quản lý rừng có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập quán sản xuất truyền thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam.
Tây Nguyên là vùng có diện tích đất và rừng lớn nhất cả nước cùng với đó là vai trò của rừng và đất rừng đối cộng đồng các đồng bào dân tộc Tây Nguyên không chỉ đơn thuần là tư liệu sản xuất mà nó còn mang ý nghĩa về văn hóa, tâm linh. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng nói ở Tây Nguyên người là rừng và rừng cũng là người. Mặt khác cộng đồng các dân tộc ở nơi đấy có tính cộng đồng rất cao, sống tập trung và tham gia nhiều sinh hoạt mang tính chất cộng đồng. do vậy việc chính phủ thực hiện thí điểm mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên đã mang lại những kết quả hết sức khả quan.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây Nguyên”
77 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Tên bảng
Trang
2.1 Diện tích đất lâm nghiệp vùng Tây Nguyên
32
2.2 Tốc độ và xu hướng tăng trưởng GDP vùng Tây Nguyên
36
2.3 Cơ cấu kinh tế
37
2.4 Số xã, phường thuộc diện nghèo đói và đặc biệt khó khăn
38
2.5 Diện tích rừng được giao tại các tỉnh Tây Nguyên
57
3.1 Diện tích che phủ rừng của các tỉnh Tây Nguyên
68
3.2 Diện tích rừng bị chặt phá của các tỉnh Tây Nguyên
69
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Tên hình vẽ
trang
2.1 Nguyên tắc quản lý rừng cộng đồng ở Tây Nguyên
48
2.2 tiến trình triển khai mô hinh CBFM tại Tây Nguyên
49
3.1 Mô hình phân chia lợi ích kha thác gỗ và lâm sản ngoài gỗ tại thôn Bunor
61
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Suy thoái rừng đang là một vấn đề bức bách ở Việt Nam, ảnh hưởng đến hệ sinh thái, đa dạng sinh học và biến đổi môi trường nói chung. Diện tích rừng bị suy giảm từ 43% xuống còn 28,2% (1943 - 1995). Rừng ngập mặn ven biển cũng bị suy thoái nghiêm trọng giảm 80% diện tích do bị chuyển đổi thành các ao - đầm nuôi trồng thuỷ hải sản thiếu quy hoạch. Gần đây, diện tích rừng tuy có tăng lên 37% (năm 2005), nhưng tỷ lệ rừng nguyên sinh cũng vẫn chỉ ở mức khoảng 8% so với 50% của các nước trong khu vực. Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong ứng phó với biến đổi khí hậu, trong các hoạt động thực hiện mục tiêu năm 2010 của Công ước đa dạng sinh học nhằm tăng cường hiệu quả bảo tồn và dịch vụ của các hệ sinh thái rừng trong giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tài nguyên nước, giảm phát thải CO2. Cùng với đó một vấn đề mà Việt Nam đặt ra là sinh kế cho người dân tộc thiểu số.
Chính phủ Việt Nam đã nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa xóa đói giảm nghèo và bảo tồn rừng, bằng việc đặt kế hoạch sẽ giảm tỉ lệ nghèo của toàn quốc xuống dưới 40% và phục hồi tỉ lệ che phủ rừng tới 43% vào năm 2010. Một số tiềm năng được xác định bao gồm: (a) chi trả các dịch vụ môi trường đã được xem xét ở trong các chính sách. Việc phát triển các cơ chế hỗ trợ người nghèo thông qua việc đền đáp các dịch vụ môi trường mà họ cung cấp đang diễn ra; (b) quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM) được khuyến khích phát triển dựa trên nhận định rằng cộng động chính là chủ thể quản lý đất rừng; (c) hợp tác công tư theo định hướng thị trường trong việc trồng mới rừng, phòng tránh phá rừng và suy thoái rừng, tạo thu nhập thay thế đảm bảo an toàn lương thực đang được các nhà tài trợ và chính phủ khuyến khích và hỗ trợ. Đáng khuyến khích hơn, các dự án thí điểm ở Đông Nam Á và Việt Nam đã cho thấy các cơ hội và giải pháp đôi bên cùng có lợi trong việc giải quyết các vấn đề nghèo đói và môi trường, đặc biệt với các trường hợp rất khó giải quyết trong nhiều năm. Ngoài ra, các đền đáp như một động lực cho việc quản lý môi trường đang ngày càng trở nên phổ biến dưới sự tác động và hỗ trợ của việc thực hiện các cơ chế thị trường mới và phức tạp.
Quá trình thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần và chuyển hướng chiến lược lâm nghiệp, từ lâm nghiệp Nhà nước sang lâm nghiệp nhân dân đã xuất hiện nhiều nhân tố mới, đặc biệt là đa dạng hoá các phương thức quản lý tài nguyên rừng.
Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một trong những mô hình quản lý rừng đang thu hút sự quan tâm ở cấp Trung ương và địa phương. Xét về mặt lịch sử, ở Việt Nam, rừng cộng đồng đã tồn tại từ lâu đời, gắn liền với sự sinh tồn và tín ngưỡng của các cộng đồng dân cư sống dựa vào rừng. Đặc biệt, trong vài năm gần đây, xuất phát từ yêu cầu quản lý rừng, một số địa phương đã triển khai giao đất, giao rừng cho cộng đồng (làng bản , nhóm hộ...) quản lý, sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp, theo đó, cộng đồng với tư cách như một chủ rừng. Ngoài ra, các cộng đồng còn tham gia nhận khoán bảo vệ, khoanh nuôi tái sinh và trồng mới rừng của các tổ chức Nhà nước. Thực tiễn một số nơi đã chỉ rõ quản lý rừng dựa vào cộng đồng địa phương sống gần rừng là mô hình quản lý rừng có tính khả thi về kinh tế - xã hội, phù hợp với tập quán sản xuất truyền thống của nhiều dân tộc ở Việt Nam.
Tây Nguyên là vùng có diện tích đất và rừng lớn nhất cả nước cùng với đó là vai trò của rừng và đất rừng đối cộng đồng các đồng bào dân tộc Tây Nguyên không chỉ đơn thuần là tư liệu sản xuất mà nó còn mang ý nghĩa về văn hóa, tâm linh. Nhà văn Nguyên Ngọc đã từng nói ở Tây Nguyên người là rừng và rừng cũng là người. Mặt khác cộng đồng các dân tộc ở nơi đấy có tính cộng đồng rất cao, sống tập trung và tham gia nhiều sinh hoạt mang tính chất cộng đồng. do vậy việc chính phủ thực hiện thí điểm mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên đã mang lại những kết quả hết sức khả quan.
Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài:
“Nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây Nguyên”
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài:
2.1 Mục tiêu:
Qua việc nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây Nguyên để từ đó xem xét mô hình có được triển khai hiệu quả hay không, những khó khăn trong việc áp dụng mô hình này là gì và có thể đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn đó.
2.2 Nhiệm vụ
- Tổng quan cơ sở lý luận về mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM) và xu thế phát triển của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Việt Nam
- Thực trạng triển khai áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại Tây Nguyên như thế nào và vấp phải những khó khăn gì
- Đánh giá hiệu quả của việc áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại Tây Nguyên. Từ đó đưa ra những khó khăn mà mô mình gặp phải và những giải pháp, kiến nghị để giải quyết những khó khăn đó.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian lãnh thổ: địa bàn nghiên cứu là vùng Tây Nguyên
- Về giới hạn khoa học: chuyên để chỉ đi sâu vào nghiên cứu mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng được thực hiện tại Tây Nguyên chủ yếu dựa trên chính sách giao đất giao rừng của Nhà nước.
4. Các phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập số liệu: tổng hợp từ nguồn tổng cục thống kê
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp về quản lý rừng dựa vào cộng đồng
5. Cấu trúc chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, chuyên đề được trình bày trong ba chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về quản lý rừng dựa vào cộng đồng và kinh nghiệm quản lý rừng dựa vào cộng đồng ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng quản lý rừng dựa vào cộng đồng tại vùng Tây Nguyên
Chương III: Đánh giá hiệu quả hoạt động của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG VÀ KINH NGHIỆM QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM.
1.1. Cơ sở lý luận về quản lý rừng dựa vào cộng đồng
1.1.1 Quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM)
PFM: participation forest management là một thuật ngữ chung mô tả cộng đồng trong quản lý rừng. quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM ) là một dạng của phương pháp PFM và được áp dụng cho khu đất thuộc quản lý cấp xã, những khu rừng giao cho tư nhân quản lý hoặc được quản lý bởi Ủy ban nhân dân xã.
- Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là khái niệm để chỉ cộng đồng tham gia quản lý rừng thuộc nguồn gốc hình thành thứ ba. Rừng trong trường hợp này cộng đồng là những chủ thể quản lý trực tiếp tham gia và được hưởng lợi.
1.1.2 Nội dung chủ yếu của CBFM
+ Cộng đồng là những chủ thể quản lý rừng: quản lý rừng dựa vào cộng đồng đưa ra hình thức quản lý rừng ở cấp xã, nơi mà người dân địa phương đóng vai trò vừa là người quản lý vừa là chủ rừng. Để triển khai mô hình này một cách tốt nhất thì một cơ quan ở cấp xã là đại diện triển khai mô hình này. Vai trò của cơ quan này thể hiện ở sự hỗ trợ và giúp đỡ người dân quản lý rừng một cách hiệu quả và bền vững.
+ Quản lý rừng dựa vào cộng đồng là một mô hình có thể áp dụng cho tất cả các loại rừng:
CBFM có thể áp dụng cho bất kỳ loại rừng nào – những khu rừng có độ đa dạng sinh học cao hay thấp, rừng nguyên sinh hay rừng đã bị suy kiệt, những khu rừng rộng lớn hay nhỏ… điều quan trọng nhất là ta cần hiểu được rằng CBFM được áp dụng cho những khu rừng và đất rừng thuộc địa bàn xã chứ không áp dụng mô hình này cho những khu bảo tồn của địa phương hay quốc gia. Mục tiêu của mô hình CBFM có thể là bảo tồn và phát triển cả rừng phòng hộ và sản xuất hoặc hỗn hợp cả hai loại rừng này. Trong một vài trường hợp, người dân mong muốn bảo tồn rừng của họ vì truyền thống hoặc những mục đích thiêng liêng, trong một vài trường hợp khác nó có thể để bảo vệ một nguồn nước quan trọng.
+ Người dân là mục tiêu tổng quan nhất của mô hình CBFM: người dân địa phương hoặc cộng đồng trong trường hợp này là những người sống trong hoặc sống ngay bên cạnh những khu rừng thuộc địa bàn xã của họ. Mối quan hệ lâu đời giữa người dân và những khu rừng và sự gần gũi của họ với rừng khiến họ trở thành những người tốt nhất để quản lý rừng bền vững.
+ Cộng đồng không chỉ là những người bảo vệ mà còn là những người có quyền ra quyết định: việc quản lý trong mô hình CBFM bao gồm tất cả những hình thức quản lý rừng, bảo vệ rừng, đánh giá rừng thường kỳ, trồng rừng và những hoạt động phục hồi và phát triển khả năng sản xuất của rừng. Người dân không chỉ phải có trách nhiệm quản lý rừng đúng với mục đích mà còn có quyền đưa ra các quyết định. Điều này đã định hướng cho cách thức hoạt động của mô hình. CBFM là một chiến lược phân chia quyền lợi. Nó thực thi dựa trên cơ sở các chính sách của nhà nước trong việc cho phép sự tham gia của người dân địa phương trong quản lý rừng và thực tế cần đưa ra những biện pháp kiểm soát và quản lý ở cấp địa phương hợp lý hơn. Nó tập trung vào bảo tồn những khu rừng không chỉ thông qua việc phân chia quyền kiểm soát và quản lý chúng mà còn phân chia quyền sử dụng hay hưởng lợi từ chúng. Vì vậy mục tiêu của mô hình này là cộng đồng không chỉ là những người hưởng lợi thụ động mà còn là những người hưởng tiền hoa lợi mà gắn với đó là trách nhiệm quản lý rừng.
+ Tối ưu hóa cơ cấu tổ chức xã hiện hành: CBFM không tạo ra những tổ chức, cơ quan mới nhưng nó dựa vào cơ cấu hiện hành để tồn tại. Xã là đơn vị hành chính thấp nhất, là tập hợp một cộng đồng người được thừa nhận là cùng chung sống trên một khu vực cụ thể và có quyền bầu ra bầu ra cơ quan hành chính làm đại diện cho quyền lợi của cộng đồng (ủy ban nhân dân xã) để quản lý những công việc của xã. Ủy ban nhân dân xã đã đóng vai trò khá tích cực và có khả năng để vận hành mô hình CBFM tốt. ủy ban nhân dân xã có quyền ban hành những văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hoạt động của các thực thế trong phạm vi địa lý của xã đó. ủy ban nhân dân xã cũng là cơ quan có trách nhiệm pháp lý đối với những người dân, hoạt động vì lợi ích của người dân. Ranh giới giữa các xã có thể phân chia dựa theo những ranh giới tự nhiên, hoặc những ranh giới chạy qua các khu rừng.
+ Sử dụng khu đất dự trữ như là nền tảng cơ bản CBFM được dựa trên khu đất dự trữ đó để xây dựng một vùng phát triển rừng ( phòng hộ hoặc/và sản xuất). hai quá trình phân chia đất dự trữ quan trọng diễn ra trong CBFM:
• Người dân được giúp đỡ về kỹ thuật để xác định đặc tính của đất và phân loại quỹ đất dự trữ ra khỏi những khu đất khác thuộc địa bàn xã.
• Những nhóm nhỏ hơn trong cộng đồng được giúp đỡ để xác định đặc tính và phân chia những khu đất rừng dự trữ mà họ sẽ cùng nhau làm chủ.
+ Thay đổi vai trò của cán bộ lâm nghiệp:
Theo truyền thống, cán bộ kiểm lâm huyện đóng vai trò như một cảnh sát. Theo mô hình mới, cán bộ kiểm lâm huyện hiện nay có một chức năng mới là giúp người dân nhận biết, điều tra và quản lý rừng của họ vì lợi ích chung của cộng đồng. Cán bộ kiểm lâm giống như một đối tác của cộng đồng, tư vấn cho họ làm cách nào để quản lý rừng tốt nhất trong cả ngắn hạn và dài hạn. phương pháp luận của việc thiết lập mô hình CBFM dựa vào cán bộ lâm nghiệp như là những cố vấn viên (khuyến khích, hỗ trợ, hướng dẫn). trong khi đang làm thay đổi mối quan hệ giữa cán bộ kiểm lâm với cộng đồng: từ vai trò người chỉ đạo sang:
• Tư vấn kỹ thuật cho cộng đồng: cung cấp những thông tin kỹ thuật thích hợp hoặc
• Tạo ra sự liên kết giữa cộng đồng và cơ quan cấp huyện
• Người trung gian hòa giải giữa các cộng đồng hoặc giữa các nhớm
• Cảnh giới môi trường: cán bộ kiểm lâm giám sát tiến độ thực thi và họ biết lúc nào cần hỗ trợ, lúc nào cần can thiệp nếu cộng đồng không tuân theo cam kết quản lý rừng đã được ký kết.
Trong khi những kiến thức chủ yếu không phải từ đào tạo mà từ thực tế. những thành quả đạt được thông qua cách giải quyết hợp lý khi cộng đồng phải đối mặt với một vấn đề và khả năng nhận dạng và giải quyết các vấn đề tiếp theo được nâng lên.
+ Hướng dẫn chứ không phải ra lệnh
Nhân viên kiểm lâm là những người giúp đỡ và tư vấn cho người dân địa phương
1.1.3. Các giai đoạn cơ bản trong việc thực hiện CBFM
- Giai đoạn 1: khởi động
Giai đoạn này được triển khai ở cấp huyện, với việc lựa chọn những xã và hướng dẫn cho cán bộ huyện cộng với đó là hình thành một nhóm cán bộ với những kỹ năng khác nhau để làm việc ở cấp xã. Tổ chức các cuộc gặp và cuộc họp cấp xã để việc thiết lập và định hướng cho bản cam kết được thuận lợi hơn.
- Giai đoạn 2: thực hiện quản lý và đánh giá
Giai đoạn này bắt đầu bằng việc xác định và quy hoạch lại ranh giới về đất và rừng giữa các xã. Sau đó rừng sẽ được rà soát hoặc đánh giá và dựa vào đó một kế hoạch quản lý sẽ được đưa ra cùng với những quy định của xã.
- Giai đoạn 3: chính thức hóa và hợp pháp hóa
Kế hoạch quản lý và những quy định riêng của xã được đưa ra trong những cuộc họp cấp xã để được thông qua và cuối cùng là được chấp thuận bởi ủy ban nhân dân cấp huyện. khi đã được phê duyệt, xã có thể chuyển sang giai đoạn 4 và bắt đầu thực hiện kế hoạch quản lý rừng của họ.
- Giai đoạn 4: thực thi
Giai đoạn này sẽ được triển khai ở cộng đồng. hệ thống quản lý rừng cần bổ nhiệm và đào tạo đội tuần tra với chức năng ban đầu là giám sát và đảm bảo rằng những quy định đã được phổ cập tới từng người dân. Huyện đảm nhiệm vai trò quan trắc và hỗ trợ bằng việc giám sát tiến độ và giúp giải quyết các vấn đề.
- Giai đoạn 5: xem xét và đưa ra những đề xuất hợp lý
Sau năm năm cộng đồng sẽ được xem xét và phê duyệt lại kế hoạch quản lý của họ dựa vào những gì đã làm được trong khoảng thời gian đó. Từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm và thay đổi những cách thức không còn phù hợp.
- Giai đoạn 6: mở rộng mô hình sang những địa bàn khác
Giai đoạn này là giai đoạn triển khai mô hình ở những xã khác. Trong suốt giai đoạn này chúng ta cần đưa ra những kế hoạch cụ thể và dự thảo ngân sách cho việc mở rộng mô hình sang xã khác.
1.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng được giao rừng, khoán bảo vệ rừng.
1.2.1 Quyền lợi
1.2.1.1. Đối với trường hợp được giao rừng và đất trồng rừng sản xuất.
a. Được hưởng toàn bộ sản phẩm thu hoạch trên diện tích rừng được giao, bao gồm :
- Sản phẩm gỗ, lâm sản tận thu, tận dụng trong quá trình thực hiện các biện pháp lâm sinh theo quy phạm các giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa ban hành kèm theo Quyết định số 200/QĐ-KT ngày 31/3/1993 của Bộ Lâm nghiệp ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn );
- Khi rừng tự nhiên, rừng trồng chưa đủ điều kiện khai thác chính, thì được khai thác gỗ để giải quyết các nhu cầu thiết yếu của hộ gia đình, như làm nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ. Mức khai thác cho mỗi hộ không quá 10m3 gỗ tròn ( cho một lần làm nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ ). Thủ tục khai thác thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số 03/2005/ QĐ-BNN ngày 7/01/2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Sản phẩm khai thác chính khi rừng tự nhiên đến tuổi khai thác, theo quy định tại Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác, ban hành kèm theo Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN ngày 07/07/2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn);
- Sản phẩm khai thác tận dụng, tận thu, khai thác chính từ rừng trồng trên đất không có rừng; tuổi khai thác; phương thức khai thác, thủ tục khai thác do người trồng rừng tự lựa chọn và quyết định.
b. Được hỗ trợ cây giống chất lượng cao để trồng rừng sản xuất.
- Mức hỗ trợ: trồng cây gỗ nhỏ mọc nhanh, cây lâm đặc sản 1.500.000đồng/ ha, cây gỗ lớn 2.500.000đồng/ ha;
- Phương thức hỗ trợ: giao cho đơn vị có chức năng, đảm bảo sản xuất giống đạt chất lượng, có nguồn gốc rõ ràng để thực hiện việc gieo ươm và cung ứng trực tiếp đến người dân.
c/ Được tham gia và hưởng lợi từ các dự án khuyến nông, khuyến lâm trên địa bàn.
1.2.1.2 Đối với trường hợp nhận khoán bảo vệ rừng.
Ngoài chế độ được hưởng lợi theo quy định tại khoản 1, 3, 4 và 5 Điều 6 Quyết định số 304, người dân còn được hưởng các sản phẩm thu hoạch trên diện tích rừng được khoán, bao gồm:
- Sản phẩm gỗ, tre nứa tận thu, tận dụng trong quá trình thực hiện các biện pháp lâm sinh theo Quy phạm các giải pháp lâm sinh áp dụng cho rừng sản xuất gỗ và tre nứa ban hành kèm theo Quyết định số 200/QĐ-KT ngày 31/3/1993 của Bộ Lâm nghiệp ( nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ). Tỷ lệ hưởng lợi theo quy định tại quyết định số 178/ 2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp ( sau đây gọi tắt là Quyết định số 178 );
- Toàn bộ sản phẩm là lâm sản ngoài gỗ, tre nứa thu hái từ rừng tự nhiên, rừng trồng ( trừ các loại nguy cấp, quý hiếm theo quy định của Chính Phủ );
- Đối với rừng sản xuất là rừng tự nhiên, nếu chưa đủ điều kiện khai thác chính và rừng phòng hộ, được khai thác tận dụng gỗ từ việc chăm sóc, tỉa thưa rừng để giải quyết các nhu cầu thiết yếu của hộ gia đình, như làm nhà mới, sửa chữa thay thế nhà cũ. Mức khai thác cho mỗi hộ không quá 10m3 gỗ tròn ( cho một lần làm nhà mới, sửa chữa, thay thế nhà cũ ). Thủ tục khai thác, thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số 03/2005/ QĐ-BNN ngày 7 tháng 01 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Sản phẩm khai thác chính từ rừng trồng, rừng tự nhiên khi đến tuổi khai thác được quy định tại Quy chế khai thác gỗ và lâm sản khác, ban hành kèm theo Quyết định số 40/2005/QĐ-BNN ngày 07 tháng 7 năm 2005 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Tỷ lệ hưởng lợi theo quy định tại Quyết định số 178;
b. Được hỗ trợ cây lâm nghiệp; tham gia và hưởng lợi từ các dự án khuyến nông, khuyến lâm trên địa bàn như đối với trường hợp được giao rừng và đất trồng rừng sản xuất.
1.2.2. Nghĩa vụ
Ngoài việc thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 7 Quyết định số 304, các hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng được giao rừng, khoán bảo vệ rừng còn có các nghĩa vụ sau:
- Sử dụng rừng được giao, được khoán bảo vệ đúng mục đích, đúng quy hoạch; chịu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng và chủ rừng về kế hoạch sản xuất, quy trình kỹ thuật trong quá trình sử dụng rừng được giao, được khoán bảo vệ;
- Nếu vi phạm các điều khoản trong quyết định giao rừng, hoặc hợp đồng khoán bảo vệ rừng thì bị thu hồi quyết định theo quy định của pháp luật về đất đai, hoặc huỷ bỏ hợp đồng khoán bảo vệ;
- Trả lại rừng và đất rừng được giao, được khoán bảo vệ khi cơ quan chức năng có thẩm quyền thu hồi theo quy định của pháp luật về đất đai;
- Thực hiện đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của người lao động đối với chủ sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về lao động;
- Đóng đầy đủ các loại thuế theo quy định của pháp luật.
1.3. Mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng ( CBFM) ở Việt Nam
1.3.1. Cơ sở của việc áp dụng mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng (CBFM)
Nước ta có hơn 50 dân tộc thiểu số, phần lớn sinh sống ở miền núi, thôn, bản, buôn (gọi tắt là thôn buôn) là đơn vị xã hội truyền thống, cơ bản trong nông thôn, miền núi cấu thành đơn vị hành chính cơ sở, có tính tương đối độc lập và ổn định cao, là cộng đồng dân cư tự nhiên của các tộc người có mối quan hệ ràng buộc, bởi có chung các yếu tố như: chung nơi cư trú, cùng tôn giáo, tín ngưỡng, chung văn hóa, biểu hiện rõ nét trong ngôn ngữ và tập quán thống nhất của cộng đồng và chung huyết thống. Mỗi thôn buôn đều có quy định rõ ràng về đất đai của mình. Ranh giới thường căn cứ vào sông suối, mảnh đất, vạt ruộng mà cư dân trong thôn, bản canh tác từ lâu đời… Có thể có những đường ranh giới chỉ mang tính ước lệ, nhưng đều được các cộng đồng thôn bản bên cạnh thừa nhận và tôn trọng. Ranh giới này thường do người già và người có công khai phá vùng đất đó hoạch định. Cương vực của thôn không phải chỉ là khu vực đất cư trú, thường bao gồm: đất ở, đất canh tác, là những phần rừng đã được khai phá đưa vào canh tác: nương rẫy đang gieo trồng, ruộng bãi…; đất dự trữ là những cánh rừng sẽ được khai phá trong thời gian những mùa rẫy sắp tới và những rẫy cũ đang bỏ hoá; đất cấm canh tác là những rừng đầu nguồn nước, rừng trên chóp núi để giữ nước, chống xói mòn và những khu rừng làm nơi chôn cất người chết, rừng thờ cúng, rừng thiêng, rừng sử dụng vào mục đích lấy gỗ, lâm sản, săn bắn; bến nước, nơi đánh bắt cá… Các dân tộc thiểu số thường có có tập quán quản lý cộng đồng với đất đai và tài nguyên thiên nhiên trong địa phận thôn buôn. Trước đây, với tập quán làm nương rẫy phổ biến thì tài nguyên quan trọng đối với cộng đồng là rừng và đất rừng. Tuy có vài khía cạnh khác nhau, nhưng nét đặc trưng chung nhất trong việc quản lý đất đai, tài nguyên của các dân tộc thiểu số là quản lý theo cộng đồng thôn buôn, bản. Theo các quan niệm truyền thống của đồng bào thì chế độ sở hữu và quyền sử dụng đất đai, tài nguyên rừng trong thôn là sở hữu cộng đồng, của tất cả các thành viên trong thôn bản, mọi thành viên trong cộng đồng đều được bình đẳng trong việc khai thác sử dụng theo luật tục/quy ước của thôn do sự điều khiển của già làng, trưởng bản, người ngoài cộng đồng không được vi phạm.
Chẳng hạn người Thái vùng Tây Bắc: Có tập quán phân loại rừng núi thành các khu vực, nhằm phục vụ các nhu cầu khác nhau của cuộc sống cộng đồng: rừng phòng hộ nằm trên các khu vực đầu nguồn nước, tuyệt đối cấm khai thác; rừng dành cho việc khai thác tre gỗ dựng nhà và các nhu cầu khác thì tuyệt đối không được phát nương làm rẫy, thường là vùng núi cao. Nhiều nơi quy định “rừng măng cấm”- rừng chuyên để lấy măng. Rừng “gò săn” là khu vực rừng nguyên sinh chuyên để dành cho tập quán săn thú tập thể - không được chặt cây làm động thú rừng. Rừng núi dành cho phát nương làm rẫy, có diện tích khá rộng. Núi rừng phục vụ cho cuộc sống tâm linh - “rừng thiêng” rừng ma.
Ở Tây Nguyên: Người Ê Đê và Mnông có luật tục rất phong phú, điều chỉnh nhiều lĩnh vực: Tổ chức và quản lý cộng đồng xã hội; ổn định trật tự an ninh và đảm bảo lợi ích cộng đồng; quan hệ dân sự quản lý sử dụng đất đai, bảo vệ sản xuất, môi trường: duy trì và giáo dục nếp sống văn hóa, tín ngưỡng… Cũng như vậy, luật tục quy định của người Tà Ôi, Vân Kiều ở miền Trung, người Stiêng ở Đông Nam Bộ đều quan niệm đất đai, tài nguyên rừng là tài sản chung của tất cả cộng đồng không phải của riêng ai. Quan niệm truyền thống về quyền sở hữu đất đai: đất rẫy thuộc quyền của người khai phá đầu tiên. Khi khoảnh rẫy đó được định canh vẫn thuộc sở hữu của người chủ rẫy đầu tiên, nếu họ chết đi, đất đó được chuyển cho con cháu họ. Cộng đồng buôn làng khẳng định quyền sở hữu của họ. Những tập tục đó là một phần luật tục cổ truyền của cộng đồng dân tộc giúp họ quản lý cộng đồng trong quá trình bảo tồn và phát triển. Ở đây, vai trò của già làng, trưởng thôn, trưởng dòng họ được đề cao. Họ là những người có uy tín, có kinh nghiệm trong ứng xử xã hội, sản xuất, và xử lý vướng mắc trong cộng đồng. Họ không chỉ giữ vai trò quan trọng duy trì trật tự đối với công việc chung của dòng họ mà còn đối với cuộc sống của mỗi gia đình. Ở nhiều nơi, trưởng dòng họ lớn thường được coi là đại diện của cộng đồng. Giữa luật tục và vai trò của họ có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Quản lý cộng đồng theo luật tục thể hiện tính tự quản trong cộng đồng dân cư thôn rất cao, tồn tại song song với quản lý của Nhà nước phong kiến và thuộc địa. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, những biến động lớn về chính trị, xã hội đã tác động lớn đến cộng đồng dân cư của cộng đồng dân tộc thiểu số ở miền núi. Nhìn chung các tập quán, luật tục được thay thế bằng thể chế của Nhà nước. Tuy nhiên, ở một số cộng đồng một phần luật tục có liên quan đến tín ngưỡng, tâm linh, quản lý đất rừng và làm nương rẫy theo cộng đồng vẫn được duy trì và còn hiệu lực.
Ở Việt Nam rừng và cộng đồng dân cư địa phương có mối quan hệ rất mật thiết, có ảnh hưởng qua lại trực tiếp với nhau bởi các đặc điểm sau:
- Đặc điểm về tập quán. Trên diện tích đất quy hoạch cho sản xuất Lâm nghiệp có khoảng 24 triệu dân sinh sống với 54 dân tộc, chủ yếu sinh sống ở vùng núi. Đời sống của đồng bào rất gắn bó với rừng, một số lượng không nhỏ dân cư này có cuộc sống phụ thuộc vào rừng, từ đất rừng để làm nương rẫy, đến khai thác gỗ, củi thu hái lâm sản và săn bắt chim thú...
- Đặc điểm về xã hội. Trong đời sống xã hội của đồng bào dân tộc thiểu số vùng núi thì tính cộng đồng thôn bản là một thể chế xã hội cơ bản đã có từ lâu và đến nay vẫn còn tồn tại. Mỗi làng bản có một lối sống riêng, một quy ước riêng do cộng đồng tự xác lập, được các cộng đồng khác thừa nhận và tôn trọng. Các cộng đồng này có truyền thống riêng về sở hữu, sử dụng đất đai, trong đó tính sở hữu theo quản lý cộng đồng là một đặc điểm nổi bật. Qua nhiề
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111342.doc