Ngân sách Nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực chính trị và xuất phát từ nhu cầu về tài chính để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã đặt ra những khoản thu, chi của Ngân sách Nhà nước. Điều này cho thấy chính sự tồn tại của Nhà nước, vai trò của Nhà nước đối với đời sống kinh tế xã hội là những yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và tính chất hoạt động của Ngân sách Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngoài hoạt động của Ngân sách Nhà nước biểu hiện đa dạng dưới hình thức các khoản thu và các khoản chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Các khoản thu chi này được tổng hợp trong một bảng dự toán thu chi tài chính được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các khoản thu mang tính chất bắt buộc của Ngân sách Nhà nước là một bộ phận các nguồn tài chính chủ yếu được tạo ra thông qua việc phân phối thu nhập quốc dân được sáng tạo ra trong khu vực sản xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách mang tính chất cấp phát phục vụ cho đầu tư phát triển và tiêu dùng của xã hội .Như vậy, về hình thức có thể hiểu: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước có trong dự toán, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và được thực hiện trong một năm để đảm bảo việc thực hiện chức năng,nhiệm vụ của nhà nước.
Tuy nhiên, hoạt động của Ngân sách Nhà nước (NSNN) là hoạt động phân phối các nguồn tài chính của xã hội gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung là Ngân sách nhà nước. Trong quá trình phân phối đó đã làm nảy sinh các quan hệ tài chính giữa một bên là nhà nuớc và một bên là các chủ thể trong xã hội. Những quan hệ tài chính này bao gồm:
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp: Các quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình hình thành nguồn thu của Ngân sách dưới hình thức các loại thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Đồng thời, Ngân sách chi hổ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp dưới hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, hổ trợ vốn
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các đơn vị hành chính sự nghiệp: Quan hệ này phát sinh trong qúa trình phân phối lại các khoản thu nhập bằng việc Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý nhà nước. Đồng thời, trong cơ chế kinh tế thị trường các đơn vị có hoạt động sự nghiệp có các khoản thu phí và lệ phí, nguồn thu này một phần các đơn vị làm nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách, một phần trang trải các khoản chi tiêu của mình để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư: Quan hệ này được thể hiện qua việc một bộ phận dân cư thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước bằng việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ phận dân cư khác nhận từ ngân sách nhà nước các khoản trợ cấp theo chính sách qui định.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính: Quan hệ này phát sinh khi nhà nước tham gia trên thị trường tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khoán của kho bạc nhà nước nhằm huy động vốn của các chủ thể trong xã hội để đáp ứng yêu cầu cân đối vốn của ngân sách nhà nước.
Như vậy, đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của Ngân sách nhà nước là một quỹ tiền tệ với các khoản thu và các khoản chi của nó thì Ngân sách nhà nước lại phản ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối. Từ sự phân tích trên cho thấy: Ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
89 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Ngân sách nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG IV
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Bản chất của Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. Nhà nước bằng quyền lực chính trị và xuất phát từ nhu cầu về tài chính để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đã đặt ra những khoản thu, chi của Ngân sách Nhà nước. Điều này cho thấy chính sự tồn tại của Nhà nước, vai trò của Nhà nước đối với đời sống kinh tế xã hội là những yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại và tính chất hoạt động của Ngân sách Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngoài hoạt động của Ngân sách Nhà nước biểu hiện đa dạng dưới hình thức các khoản thu và các khoản chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội. Các khoản thu chi này được tổng hợp trong một bảng dự toán thu chi tài chính được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các khoản thu mang tính chất bắt buộc của Ngân sách Nhà nước là một bộ phận các nguồn tài chính chủ yếu được tạo ra thông qua việc phân phối thu nhập quốc dân được sáng tạo ra trong khu vực sản xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách mang tính chất cấp phát phục vụ cho đầu tư phát triển và tiêu dùng của xã hội .Như vậy, về hình thức có thể hiểu: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của nhà nước có trong dự toán, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và được thực hiện trong một năm để đảm bảo việc thực hiện chức năng,nhiệm vụ của nhà nước.
Tuy nhiên, hoạt động của Ngân sách Nhà nước (NSNN) là hoạt động phân phối các nguồn tài chính của xã hội gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung là Ngân sách nhà nước. Trong quá trình phân phối đó đã làm nảy sinh các quan hệ tài chính giữa một bên là nhà nuớc và một bên là các chủ thể trong xã hội. Những quan hệ tài chính này bao gồm:
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp: Các quan hệ kinh tế này phát sinh trong quá trình hình thành nguồn thu của Ngân sách dưới hình thức các loại thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Đồng thời, Ngân sách chi hổ trợ cho sự phát triển của doanh nghiệp dưới hình thức xây dựng cơ sở hạ tầng, hổ trợ vốn…
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN và các đơn vị hành chính sự nghiệp: Quan hệ này phát sinh trong qúa trình phân phối lại các khoản thu nhập bằng việc Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý nhà nước. Đồng thời, trong cơ chế kinh tế thị trường các đơn vị có hoạt động sự nghiệp có các khoản thu phí và lệ phí, nguồn thu này một phần các đơn vị làm nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách, một phần trang trải các khoản chi tiêu của mình để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư: Quan hệ này được thể hiện qua việc một bộ phận dân cư thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước bằng việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ phận dân cư khác nhận từ ngân sách nhà nước các khoản trợ cấp theo chính sách qui định.
*Quan hệ kinh tế giữa NSNN với thị trường tài chính: Quan hệ này phát sinh khi nhà nước tham gia trên thị trường tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khoán của kho bạc nhà nước nhằm huy động vốn của các chủ thể trong xã hội để đáp ứng yêu cầu cân đối vốn của ngân sách nhà nước.
Như vậy, đằng sau hình thức biểu hiện bên ngoài của Ngân sách nhà nước là một quỹ tiền tệ với các khoản thu và các khoản chi của nó thì Ngân sách nhà nước lại phản ảnh các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối. Từ sự phân tích trên cho thấy: Ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội để tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước
Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của cộng đồng và nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân
Quan niệm về ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là bản dự trù thu chi tài chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước.
Ngân sách nhà nước là những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính khác nhau.
Thực chất, Ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định.
Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà nước, và việc thực hiện các chức năng của nhà nước, được nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất định;
Hoạt động ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối lại các nguồn tài chính, nó thể hiện ở hai lãnh vực thu và chi của nhà nước;
Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa đựng những lợi ích chung, lợi ích công cộng;
Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác. Nét khác biệt của ngân sách nhà nước với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ có tác dụng riêng, sau đó mới được chi dùng cho những mục đích đã định;
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
Vai trò của Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Cần hiểu rằng, vai trò của ngân sách nhà nước luôn gắn liền với vai trò của nhà nước theo từng giai đoạn nhất định. Đối với nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước đảm nhận vai trò quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, xã hội.
Ngân sách nhà nước là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội, định hướng phát triển sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội.
Bộ máy Nhà nước muốn thực hiện được sự hoạt động của mình một cách bình thường và ổn định để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ là quản lý mọi mặt của đời sống xã hội của một quốc gia thì nhất thiết phải có nguồn NSNN đảm bảo.
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ, các biện pháp bắt buộc các thành viên trong xã hội cung cấp cho mình các nguồn lực tài chính cần thiết. Nhưng cơ sở để hình thành nguồn lực tài chính đó là từ sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh. Vì vậy, muốn động viên được nguồn thu NSNN ngày càng tăng và có hiệu quả thì nền kinh tế nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng phải được phát triển với tốc độ nhanh, bền vững và có hiệu quả cao. Vì vậy, Nhà nước trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội phải nắm được quy luật kinh tế và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Đồng thời phải bảo đảm hài hoà các quan hệ lợi ích của các chủ thể của nền kinh tế.
Một NSNN vững mạnh là một ngân sách mà cơ chế phân phối của nó đảm bảo được sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh nuôi dưỡng nguồn thu, trên cơ sở đó tăng được thu để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên.
Mặt khác, một NSNN vững mạnh còn phải thể hiện việc phân phối và quản lý chi đúng đắn, hợp lý và hiệu quả. Nhà nước sử dụng khối lượng tài chính từ nguồn NSNN để chi tiêu vào mục đích phát triển kinh tế - xã hội và chi tiêu cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Như vậy, chức năng của NSNN, ngoài việc động viên nguồn thu thì còn phải thực hiện quản lý và phân phối chi tiêu sao cho có hiệu quả. Đó cũng là một tất yếu khách quan.
1.Điều tiết trong kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế
Chúng ta biết rằng, trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh chủ yếu của các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế chủ yếu tuân theo sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trường. Nhận thức được điều đó, Nhà nước ta đã có những cơ chế, chính sách hạn chế sự can thiệp và kiểm soát trực tiếp đối với các hoạt động kinh tế, nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước ta với chức năng của mình là thực hiện quản lý hành chính kinh tế bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá và các chính sách do Nhà nước ban hành tuân theo pháp luật hiện hành do cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội ban hành. Đó chính là sự đổi mới cơ bản về cơ chế quản lý của Nhà nước ta: từ chỗ quản lý, điều hành nên kinh tế một cách trực tiếp đến chỗ quản lý và điều hành mọi hoạt động kinh tế- xã hội thông qua việc tạo mọi điều kiện, môi trường, hành lang (trong đó có cả hành lang pháp lý) để cho nền kinh tế phát triển vừa tuân theo qui lụt kinh tế khách quan, vừa bảo đảm sự định hướng XHCN, nhằm nhanh chóng đạt được các mục tiêu mà Đảng ta đã đề ra trong các kỳ đại hội.
Trong tất cả các công cụ để quản lý mọi hoạt động kinh tế- xã hội, Nhà nước ta hết sức quan tâm đến công cụ NSNN, vì nó là yếu tố vật chất vô cùng quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Với cơ chế cũ trước đây, Nhà nước can thiệp sâu vào hoạt động kinh tế vi mô. Trong cơ chế mới- cơ chế thị trường các vấn đề của kinh tế sẽ được giải quyết theo qui luật của thị trường và các quan hệ cung- cầu. Nhà nước chỉ dùng các biện pháp về thuế, các khoản chi ngân sách để can thiệp nhằm ổn định nên kinh tế và phát triển theo mục tiêu đã định.
Hoạt động của NSNN gắn với hoạt động của nền kinh tế thị trường, do đó thu NSNN luôn luôn biến đổi và phụ thuộc vào nhịp độ phát triển kinh tế và hiệu quả kinh tế. Xu hướng chung là khi nền kinh tế tăng trưởng sẽ làm tăng khả năng tăng khối lượng thu và ngược lại. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là mức thu NSNN phải gắn với nhịp độ tăng của nền kinh tế, nếu tận thu quá mức sẽ dẫn tới tình trạng suy thoái do không kích thích được sản xuất và đầu tư.
Trong bất kỳ tình huống nào, sức ép chi luôn luôn là gánh nặng cho NSNN. Đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi mà nền kinh tế chưa kịp phát triển, trong khi đó phải nhanh chóng giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của xã hội. Bên cạnh đó chi NSNN còn bị sức ép của tình trạng có lạm phát cao xẩy ra. Khi có lạm phát cao thì khối lượng ngân sách tăng chậm hơn nhu cầu chi, vì vậy nếu xử lý không tốt sẽ dẫn đến rối loạn, gây thiệt hại về nhiều mặt cho nền kinh tế.
Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng. Bởi lẽ NSNN có chức năng huy động nguồn lực tài chính để hình thành các quỹ tiền tệ tập trung, đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đồng thời NSNN còn thực hiện cân đối bằng tiền giữa các khoản thu và các khoản chi tiêu của Nhà nước. Đây là vai trò cơ bản của NSNN mà bất kỳ một quốc gia nào cũng phải thực hiện
Về mặt kinh tế
Nhằm đảm bảo cân đối hợp lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ kinh doanh. Trước xu thế phát triển mất cân đối của các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế, thông qua quỹ ngân sách, Chính phủ có thể áp dụng các chính sách ưu đãi, đầu tư vào các lĩnh vực mà tư nhân không muốn đầu tư vì hiệu quả đầu tư thấp; hoặc qua các chính sách thuế bằng việc đánh thuế vào những hàng hoá, dịch vụ của tư nhân có khả năng thao túng trên thị trường; đồng thời, áp dụng mức thuế suất ưu đãi đối với những hàng hoá mà Chính phủ khuyến dụng. Nhờ đó mà có thể đảm bảo sự cân đối, công bằng trong nền kinh tế. Giá cả trên thị trường biến động dựa vào quy luật cung cầu của hàng hoá, dịch vụ. Ngân sách nhà nước cũng được sử dụng như là công cụ đảm bảo sự ổn định giá cả của thị trường. Chẳng hạn, khi Chính phủ muốn bảo hộ cho những người có thu nhập thấp, Chính phủ sẽ đặt giá trần là mức giá cao nhất mà người bán được phép đưa ra và mức này thường là thấp hơn mức giá cân bằng trên thị trường, khi đó tất yếu sẽ dẫn đến sự thiếu hụt trên thị trường. để duy trì hiệu lực của giá trần thì Chính phủ lại tiếp tục can thiệp bằng cách cung phần thiếu của hàng hoá, lượng hàng hoá này được lấy từ quỹ dự trữ của Nhà nước thuộc ngân sách nhà nước, tức là trong khoản chi ngân sách phải có khoản dự phòng này. Trái lại khi Chính phủ muốn bảo hộ cho người sản xuất, muốn hàng hoà của một ngành nào đó được khuyến khích thì sẽ đặt giá sàn là mức giá thầp nhất mà người bán được phép đưa ra và mức này thường lớn hơn giá cân bằng trên thị trường. Điều này sẽ dẫn đến sự dư thừa hàng hoá trên thị trường và khi đó là sự can thiệp của Chính phủ bằng cách mua hết lượng hàng thừa. Khoản tiền sử dụng để thanh toán cho người bán cũng là từ ngân sách nhà nước.
Về mặt xã hội
Bất công, ô nhiễm môi trường…Chẳng hạn trước vấn đề công bằng xã hội. Chống lại sự bất công là cần thiết cho một xã hội văn minh và ổn định, Chính phủ thường sử dụng các biện pháp tác động tới thu nhập để thiết lập lai sự công bằng xã hội. Điều chỉnh thu nhập của các nhóm dân cư khác nhau bằng cách trợ cấp thu nhập cho những người có thu nhập thấp hoặc hoàn toàn không có thu nhập. Một cách khác, Chính phủ có thể sử dụng biện pháp tác động gián tiếp đến thu nhập bằng cách tạo khả năng tạo thu nhập cao hơn dựa vào năng lực của bản thân. theo đánh giá thì đây là biện pháp tích cực nhất, đồng thời làm tăng thu nhập quốc dân; nói cách khác, nó làm cho một số người dân giàu lên mà không ai nghèo đi; hoặc qua chính sách thuế thu nhập, sử dụng mức thuế suất cao đối với người có thu nhập cao và ngược lại.
Về mặt thị trường
Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo đIều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động, phát huy được các nguồn lực của xã hội vào phát triển kinh tế.
Cạnh tranh buộc nhà sản xuất phải hao phí lao động cá biệt đến mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, nhờ đó mà thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá.
Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát giữa khối lượng và cơ câú sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và sản xuất về hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau.
Trong cơ chế thị trường tồn tại sự đa dạng của các thị trường. Bên cạnh thị trường hàng hoá đã xuất hiện từ lâu là các thị trường về vốn, lao động… phục vụ cho sản xuất kết hợp với hệ thống giá cả linh hoạt vận động theo quan hệ cung cầu của hàng hoá, dịch vụ.
Vai trò huy động các nguồn Tài chính để đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Nhà nước
Thực hiện chức năng này, Nhà nước thông qua NSNN để biết được nguồn thu - chi nào là cơ bản của từng thời kỳ, từng giai đoạn và do đó có những giải pháp để làm tốt thu - chi. Nhà nước định ra cơ cấu thu- chi hợp lý ; theo dõi các phát sinh và những nhân tố ảnh hưởng đến thu- chi...
Tóm lại, NSNN có hai chức năng cơ bản- chức năng phân phối và chức năng giám đốc. NSNN không thể cân đối được nếu như không thực hiện đầy đủ hai chức năng đó, bởi vì: nếu không có sự giám đốc trong việc động viên khai thác hợp lý các nguồn thu và do đó sẽ dẫn đến tình trạng thất thu dưới nhiều hình thức. Nếu không thực hiện tốt chức năng phân phối thì cũng không thể động viên được nguồn thu cho NSNN.
Chức năng phân phối và chức năng giám đốc của NSNN đều có vị trí và tầm quan trọng của nó. Do đó, cần phải coi trọng cả hai chức năng đó và tổ chức chỉ đạo để các cơ quan chức năng thực hiện tốt hai chức năng đó của NSNN.
Quan điểm cơ bản về quản lý và sử dụng NSNN.
Để thực hiện tốt công tác quản lý và sử dụng NSNN, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ của từng cấp, từng ngành, cần phải quán triệt các quan điểm sau đây:
+ Trong chính sách tạo vốn của NSNN phải quán triệt tư tưởng không tận thu để bao chi, mà phải động viên nguồn thu ngân sách một cách hợp lý để đáp ứng nhu cầu chi trên cơ sở vừa bồi dưỡng và phát triển nguồn thu, vừa kiểm soát và tập trung khai thác một cách hợp lý và có hiệu quả các nguồn thu.
+ Thực hiện tốt công tác phân phối và sử dụng vốn NSNN theo nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, chấm dứt tình trạng các khoản chi bao cấp tràn lan của cơ chế cũ trước đây. Thực hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm".
+ Thực hiện phương pháp cân đối ngân sách một cách khoa học để vừa phát huy tốt các nguồn lực bên trong và tranh thủ cao độ, có hiệu quả nguồn lực tài chính bên ngoài; vừa phù hợp với pháp luật của Nhà nước ta, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm sự chủ động của NSNN.
+ Đổi mới chế độ phân cấp quản lý NSNN theo hướng giảm bớt chức năng quản lý kinh tế của chính quyền địa phương, tránh để tình trạng phân tán và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn ngân sách.
+ Ban hành đồng bộ hoá và tiếp tục hoàn thiện luật NSNN. Đồng thời giáo dục, nâng cao trình độ cho toàn dân, cho các chủ thể của nền kinh tế cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chức năng trực tiếp làm công tác quản lý NSNN. Nghiêm chỉnh chấp hành luật NSNN.
Vai trò này xuất phát từ bản chất kinh tế của Ngân sách nhà nước, để đảm bảo cho hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội đòi hỏi
phải có những nguồn tài chính nhất định. Những nguồn tài chính này được hình thành từ các khoản thu thuế và các khoản thu ngoài thuế . Đây là vai trò lịch sử của Ngân sách nhà nước mà trong bất kỳ chế độ xã hội nào, cơ chế kinh tế nào ngân sách nhà nước đều phải thực hiện.
Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường là sự cạnh tranh giữa các nhà doanh nghiệp nhằm đạt được lợi nhuận tối đa, các yếu tố cơ bản của thị trường là cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn nhau và chi phối hoạt động của thị trường. Sự mất cân đối giữa cung và cầu sẽ làm cho giá cả tăng lên hoặc giảm đột biến và gây ra biến động trên thị trường, dẫn đến sự dịch chuyển vốn của các doanh nghiệp từ ngành này sang ngành khác, từ địa phương này sang địa phương khác. Việc dịch chuyển vốn hàng loạt sẽ tác động tiêu cực đến cơ cấu kinh tế, nền kinh tế phát triển không cân đối. Do đó, để đảm bảo lợi ích cho nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng nhà nước phải sử dụng ngân sách để can thiệp vào thị trường nhằm bình ổn giá cả thông qua công cụ thuế và các khoản chi từ ngân sách nhà nước dưới các hình thức tài trợ vốn, trợ giá và sử dụng các quỹ dự trữ hàng hoá và dự trữ tài chính. Đồng thời , trong quá trình điều tiết thị trường ngân sách nhà nước còn tác động đến thị trường tiền tệ và thị trường vốn thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính như: phát hành trái phiếu chính phủ, thu hút viện trợ nước ngoài, tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường vốn… qua đó góp phần kiểm soát lạm phát.
Vai trò của NSNN trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang.
Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới, trình độ dân trí thấp, điều kiện địa lý phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, lại có nhiều dân tộc cùng chung sống. Sau chiến tranh giải phóng dân tộc, tỉnh Hà Giang còn chịu hậu quả nặng nề của 10 năm chiến tranh bảo vệ biên giới. Hầu như các cơ sở kinh tế đều bị tàn phá nặng nề, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc hết sức khó khăn. Tháng 10/1991 khi tách tỉnh, kết cấu hạ tầng hầu như không có gì. Trong những năm qua được sự quan tâm giúp đỡ của Trung ương, nhân dân các dân tộc tỉnh Hà Giang đã khắc phục khó khăn, từng bước ổn định đời sống, phát triển sản xuất. Đạt được những thành tích đó, ngoài sự lãnh chỉ đạo sát sao của Đảng và Nhà nước từ Trung ướng đến cơ sở, còn có các nhân tố khác, trong đó có vai trò của NSNN. Nhờ có nguồn thu NSNN mới đảm bảo chi thường xuyên cho sự hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và các cơ quan hành chính sự nghiệp, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Nhờ có NSNN mà phần nào đã đáp ứng được nhu cầu các khoản chi cấp bách, đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển chiếm tỷ lệ khá cao trong chi ngân sách. Nhờ đó mà hiện nay ở Hà Giang nhiều cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hoá xã hội đã và đang được xây dựng, tu bổ, nâng cấp và đưa vào sử dụng.
Trong nông nghiệp, chi NSNN tập trung cho việc ứng dụng khoa học- kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư để tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi và cơ cấu mùa vụ v.v... Chẳng hạn đầu tư cho việc lai tạo giống cây con cho năng suất cao. Tuy lâm nghiệp đã chú ý đầu tư để đẩy mạnh trồng mới rừng, bảo vệ và tái sinh rừng, phát triển mô hình rừng trang trại, vườn rừng, theo phương thức lâm-nông kết hợp.
Trong lĩnh vực văn hoá- xã hội: NSNN đã dành một tỷ lệ thích đáng cho đầu tư xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất- kỹ thuật cho lĩnh vực giáo dục đào tạo, hệ thống trường chuyên, lớp chọn, trường dân tộc nội trú, trường cao đẳng sư phạm. Mặc dù nguồn thu ngân sách còn hạn chế, nhưng tỉnh cũng rất quan tâm đầu tư cho lĩnh vực y tế và dân số kế hoạch hoá gia đình. Cụ thể là đầu tư nâng cấp cải tạo các cơ sở khám chữa bệnh, tạo điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được tốt hơn.
Ngoài ra NSNN còn thực hiện một loạt các chương trình khác như: củng cố mở rộng nâng cấp các đường giao thông liên huyện, liên xã, đầu tư để xây dựng đường dây, trạm biến áp để đưa điện lưới quốc gia về các huyện vùng cao. Đầu tư xây dựng các cơ sở phát thanh, truyền hình, bưu điện... để đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá, tinh thần cho các dân tộc trong tỉnh. Đồng thời cũng nhằm tạo các phương tiện tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, để nhân dân các dân tộc hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, để họ có sự tin tưởng và tự giác thực hiện.
Đối với lĩnh vực thu NSNN: thông qua các hình thức hoạt động thu NSNN mà đã động viên được ngày càng nhiều hơn, tốt hơn nguồn lực tài chính cho địa phương. Sự động viên đó, một mặt đảm bảo nguồn thu, tránh thất thu cho NSNN, nhưng đồng thời cũng qua đó thực hiện sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đóng góp của nhân dân, của các chủ thể kinh tế, các TPKT trong tỉnh.
Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đối với tỉnh Hà Giang thì vai trò NSNN lại càng đặc biệt quan trọng. Nhờ có nguồn thu NSNN mà đã tạo điều kiện về nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo kinh phí chi tiêu cho các hoạt động của bộ máy chính quyền và các tổ chức Đảng, đoàn thể, các lực lượng vũ trang an ninh...
2.3 Ngân sách Nhà nước là công cụ định huớng phát triển sản xuất
Để định hướng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhà nước sử dụng công cụ thuế và chi ngân sách. Bằng công cụ thuế một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách, mặt khác nhà nước sử dụng thuế với các loại thuế, các mức thuế suất khác nhau sẽ góp phần kích thích sản xuất phát triển và hướng dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào những vùng những lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng đã định. Đồng thời, với các khoản chi phát triển kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vào các ngành kinh tế mũi nhọn… nhà nước có thể tạo điều kiện và hướng dẫn các nguồn vốn đầu tư của xã hội vào những vùng, lĩnh vực cần thiết để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
2.4 Ngân sách Nhà nước là công cụ điều chỉnh thu nhập giữa các tầng lớp dân cư
Nền kinh tế thị trường với những khuyết tật của nó sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, nhà nước phải có một chính sách phân phối lại thu nhập hợp lý nhằm giảm bớt khoảng cách chênh lệch về thu nhập trong dân cư. Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính hữu hiệu được nhà nước sử dụng để điều tiết thu nhập, với các sắc thuế như thuế thu nhập luỹ tiến, thuế tiêu thụ đặc biệt … một mặt tạo nguồn thu cho ngân sách mặt khác lại điều tiết một phần thu nhập của tầng lớp dân cư có thu nhập cao. Bên cạnh công cụ thuế, với các khoản chi của ngân sách nhà nước như chi trợ cấp, chi phúc lợi cho các chương trình phát triển xã hội: phòng chống dịch bệnh, phổ cập giáo dục tiểu học, dân số và kế hoạch hoá gia đình… là nguồn bổ sung thu nhập cho tầng lớp dân cư có thu nhập thấp .
Các vai trò trên của Ngân sách nhà nước cho th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ngan_sach_nha_nuoc.doc