Trong những năm gần đây hoạt động trên thị trường tài chính diễn ra rất sôi động, vì vậy vai trò của Ngân Hàng Thương mại vô cùng quan trọng. thời gian vừa qua tôi có thực tập tại Ngân Hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh Hoàng Mai, thấy được những đòi hỏi cần thiết của một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, cụ thể là hoạt động dẫn vốn từ những người có vốn nhàn rỗi đến người có nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh. Việc cho người, doanh nghiệp nào vay vốn thì yêu cầu đầu tiên của doanh nghiệp đó phải chứng minh được rằng họ có đủ khả năng trả đủ gốc lẫn lãi cho ngân hàng cho họ vay vốn đúng thời hạn. Vì vậy hoạt động thẩm định cho vay vốn đối với dự án hay cho vay vốn trung và dài hạn là hoạt động không thể thiếu trong một loạt hoạt động phong phú đa dạng của ngân hàng. Do tính cấp thiết như vậy tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương chi nhánh Hoàng Mai”.
Đề tài thực tập tốt nghiệp của tôi được chia làm 3 chương như sau:
Chương I : Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam.
Chương II: Thực trạng về hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh hoàng mai.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh hoàng mai.
67 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương chi nhánh Hoàng Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây hoạt động trên thị trường tài chính diễn ra rất sôi động, vì vậy vai trò của Ngân Hàng Thương mại vô cùng quan trọng. thời gian vừa qua tôi có thực tập tại Ngân Hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh Hoàng Mai, thấy được những đòi hỏi cần thiết của một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực tài chính tiền tệ, cụ thể là hoạt động dẫn vốn từ những người có vốn nhàn rỗi đến người có nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh. Việc cho người, doanh nghiệp nào vay vốn thì yêu cầu đầu tiên của doanh nghiệp đó phải chứng minh được rằng họ có đủ khả năng trả đủ gốc lẫn lãi cho ngân hàng cho họ vay vốn đúng thời hạn. Vì vậy hoạt động thẩm định cho vay vốn đối với dự án hay cho vay vốn trung và dài hạn là hoạt động không thể thiếu trong một loạt hoạt động phong phú đa dạng của ngân hàng. Do tính cấp thiết như vậy tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Công Thương chi nhánh Hoàng Mai”.
Đề tài thực tập tốt nghiệp của tôi được chia làm 3 chương như sau:
Chương I : Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại cổ phần công thương việt nam.
Chương II: Thực trạng về hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh hoàng mai.
Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần công thương chi nhánh hoàng mai.
CHƯƠNG I
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGAN HÀNG THƯƠNG MẠI, MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Tổng quan về Ngân Hàng Thương mại
khái niệm về NHTM
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các Ngân hàng.
Ngân hàng thương mại có một quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Khi mới ra đời, tổ chức và nhiệm vụ hoạt động của nó rất đơn giản nhưng càng về sau theo đà phát triển của kinh tế hàng hoá, tổ chức của các Ngân hàng cũng như nhiệm vụ của nó ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian mà hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại là tiếp nhận các khoản tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nhiệm vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán và cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp, tư nhân, hộ gia đình, các nhà xuất nhập khẩu.
Đa số các nhà kinh tế học đều cho rằng Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Ngân hàng thương mại có những đặc điểm sau:
Ngân hàng thương mại giống như các tổ chức kinh doanh khác là hoạt động vì mục đích thu lợi nhuận nhưng là tổ chức đặc biệt vì đối tượng kinh doanh là tiền tệ, hoạt động tín dụng là đặc trưng chủ yếu được thực hiện chủ yếu bằng cách thu hút vốn tiền tệ trong xã hội để cho vay.
Nguồn vốn phục vụ hoạt động kinh doanh: Nguồn vốn phần lớn là tiền gửi của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế. Đặc điểm nổi bật của Ngân hàng thương mại là không sử dụng nguồn vốn sở hữu vào trong các hoạt động kinh doanh của mình như cho vay, mua bán chứng khoán. Hơn nữa nguồn vốn sở hữu của Ngân hàng thương mại chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại. Trong khi đó các loại hình kinh tế khác lại sử dụng chủ yếu nguồn vồn sở hữu vào các hoạt động kinh doanh. Sự khác biệt của Ngân hàng thương mại với các định chế tài chính khác là Ngân hàng thương mại có quyền huy động tiền gửi trong nền kinh tế mỗi khi cân vốn để tiến hành các hoạt động kinh doanh của mình. Công ty tài chính thì hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn sở hữu của mình, nếu thiếu các công ty tài chính có thể vay trên thị trường các công ty cổ phần, muốn tăng nguồn vốn huy động của mình thì có thể phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Không có một định chế tài chính nào ngoài Ngân hàng thương mại có thể nhận tiền gửi từ các tổ chức cá nhân và các tổ chức trong nền kinh tế.
Khách hàng của Ngân hàng thương mại là những người đóng vai trò hai mặt đối với Ngân hàng. Thứ nhất, họ là những người cung cấp các điều kiện để Ngân hàng hoạt động. Họ là những người tạo nguồn vốn cho Ngân hàng. Thứ hai, họ là những khách hàng sử dụng các sản phẩm của Ngân hàng, như cho đi vay, sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng. Phần lớn, những khách hàng này, lại sử dụng chính những đồng tiền mà họ đã gửi vào. Vì vậy, khách hàng chính là những người cung cấp đầu vào cho Ngân hàng và họ cũng chính là người sử dụng sản phẩm đầu ra của Ngân hàng
1.1.2 Sự ra đời và phát triển của ngân hàng thương mại
Ngay từ xa xưa người ta đã biết dùng tiền làm phương tiện thanh toán, làm trung gian trao đổi hàng hoá. Thông qua tiền, việc trao đổi hàng hoá được tiến hành một cách thuận lợi, dễ dàng hơn nhiều. Chính vì thế đã kích thích sản xuất, đưa xã hội loài người ngày càng phát triển.
Xã hội ngày càng phát triển thì vai trò của tiền tệ ngày càng đươc phát huy.Thương mại phát triển, một tầng lớp thương nhân giàu có ra đời và họ cần có những nơi an toàn để gửi tiền . Những người nhận tiền gửi chủ yếu là chủ tiệm vàng, họ nhận thấy: luôn có một lượng lớn tiền và vàng nhàn rỗi do tiền và vàng người ta gửi vào luôn nhiều hơn tiền rút ra. Mặt khác lại luôn tồn tại nhu cầu vay mượn để chi tiêu, đầu tư kinh doanh. Và những người giữ hộ tài sản nghĩ đến việc sử dụng số tiền nhàn rỗi đó để cho vay kiếm lời. Và thay vì thu phí giữ hộ người ta trả một khoản lãi cho người có tài sản đem gửi. Bên cạnh đó người giữ hộ tiền cũng cho vay để thanh toán cho một người nào đó bằng cách ghi nợ cho người vay tiền và ghi tăng tài sản cho người được thanh toán. Và lúc các nghiệp vụ trên hình thành cũng là lúc ngân hàng xuất hiện.
1.1.3 Vai trò của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1 NHTM là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cá nhân, tổ chức kinh tế muốn sản xuất, kinh doanh thì cần phải có vốn để đầu tư mua sắm tư liệu sản xuất, phương tiện để sản xuất kinh doanh…mà nhu cầu về vốn của doanh nghiệp, cá nhân... luôn luôn lớn hơn vốn tự có do đó cần phải tìm đến những nguồn vốn từ bên ngoài. Mặt khác lại có một lượng vốn nhàn rỗi do quá trình tiết kiệm, tích luỹ của cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức khác... NHTM là chủ thể đứng ra huy động các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi đó và sử dụng nguồn vốn huy động được cấp vốn cho nền kinh tế thông qua hoạt động tín dụng. NHTM trở thành chủ thể chính đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Nhờ có hoạt động ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng các doanh nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.3.2 NHTM là cầu nối doanh nghiệp và thị trường
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp chụi sự tác động mạnh mẽ của các quy luật kinh tế như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và sản xuất phải trên cơ sở đáp ứng nhu cầu thị trường, thoả mãn nhu cầu thị trường về mọi phương diện không chỉ: giá cả, khối lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi thoả mãn trên phương diện thời gian, địa điểm. Để có thể đáp ứng tốt nhất nhu cầu của thị trường doanh nghiệp không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ cấu kinh tế, chế độ hạch toán kinh tế mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đưa công nghệ mới vào sản xuất, tìm tòi và sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi phải có một lượng vốn đầu tư lớn, nhiều khi vượt quá khả năng của doanh nghiệp. Do đó để giải quyết khó khăn này doanh nghiệp đến ngân hàng để xin vay vốn để thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình.Thông qua hoạt động cấp tín dụng cho doanh nghiệp ngân hàng là cầu nối doanh nghiệp với thị trường. Nguồn vốn tín dụng của ngân hàng cung cấp cho doanh nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng về mọi mặt của quá trình sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của thị trường và từ đó tạo cho doanh nghiệp chỗ đứng vững chắc trong cạnh tranh.
1.1.3.3 NHTM là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Hệ thống NHTM hoạt động có hiệu quả sẽ thực sự là công cụ để nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Thông qua hoạt dộng thanh toán giữa các ngân hàng trong hệ thống, NHTM đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng cho lưu thông. Thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế NHTM đã thực hiện việc dẫn dắt các nguồn tiền, tập hợp và phân phối vốn trên thị trường, điều khiển chúng một cách hiệu quả và thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô. Cùng với các cơ quan khác, Ngân hàng luôn được sử dụng như một công cụ quan trọng để nhà nước điều chỉnh sự phát triển của nền kinh tế.
Khi nhà nước muốn phát triển một nghành hay một vùng kinh tế nào đó thì cùng với việc sử dụng các công cụ khác để khuyến khích thì các NHTM luôn được sử dụng bằng cách NHNN yêu cầu các NHTM thực hiện chính sách ưu đãi trong đầu tư, sử dụng vốn như : giảm lãi suất, kéo dài thời hạn vay, giảm điều kiện vay vốn hoặc qua hệ thống NHTM Nhà nước cấp vốn ưu đãi cho các lĩnh vực nhất định.Khi nền kinh tế tăng trưởng quá mức nhà nước thông qua NHTƯ thực hiện chính sách tiền tệ như: tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để giảm khả năng tạo tiền từ đó giảm khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế để nền kinh tế phát triển ổn định vững chắc.
Việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM thườmg đạt hiệu quả trong thời gian ngắn nên thường được nhà nước sử dụng.
1.1.4 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.4.1 Hoạt động huy động vốn.
Ngân hàng kinh doanh ngoại tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Hoạt động vay - hoạt động tạo nguồn vốn cho Ngân hàng thương mại - đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của Ngân hàng thương mại. Hoạt động huy động vốn là hoạt động thường xuyên của Ngân hàng thương mại. Một Ngân hàng thương mại bất kì nào cũng bắt đầu hoạt động của mình bằng việc huy động nguồn vốn. Đối tượng huy động của Ngân hàng thương mại là nguồn tiền nhàn rỗi trong các tổ chức kinh tế, dân cư. Nguồn vốn quan trọng nhất,và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thương mại là tiền gửi của khách hàng.
Các Ngân hàng thương mại nhận tiền gửi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, thậm chí cả nguồn tiền của các Ngân hàng khác.
Khi những người có tiền chưa sử dụng đến họ có thể đem ra đầu tư hoặc gửi Ngân hàng để nhận tiền lãi. Thông thường họ gửi tiền vào Ngân hàng, vì đây là cách đơn giản, ít tốn kém chi phí để tìm kiếm cơ hội đầu tư mà vẫn có lãi và đây là cách ít rủi ro nhất. Ngoài ra người gửi tiền vào Ngân hàng cũng mong muốn được sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng như chuyển tiền cho người thân ở nơi khác, thanh toán hộ các hoá đơn phát sinh, bảo quản các tài sản có giá trị lớn... Khi gửi tiền vào Ngân hàng, người gửi tiền có thể vay Ngân hàng một khoản tiền mà không cần thế chấp vì họ đã có một số tiền gửi nhất định ở Ngân hàng, coi như một khoản đảm bảo.
Còn Ngân hàng có thể muốn tìm kiếm thêm thu nhập từ lệ phí nhận tiền gửi, tuy nhiên lý do chính Ngân hàng nhận tiền gửi để tạo nguồn cho vay, từ đó Ngân hàng có thể đầu tư, kinh doanh tìm kiếm được những khoản thu nhập lớn hơn.
Hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng có ý nghĩa to lớn với người gửi tiền, nền kinh tế, cũng như bản thân Ngân hàng. Thông qua hoạt động này mà Ngân hàng có thể tập hợp được các khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé, phân tán tạm thời chưa sử dụng với các thời hạn hết sức khác nhau thành nguồn tiền lớn tài trợ cho nền kinh tế, hoặc cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng. điều khó khăn nhất mà Ngân hàng phải thực hiện là sử dụng các khoản tiền gửi có thời hạn rất khác nhau để cho vay những món có thời hạn xác định,vì thế mà Ngân hàng phải quản lí tốt thời hạn của các nguồn vốn của mình thì mới duy trì được hoạt động có hiệu quả, tránh được những rủi ro về khả năng thanh toán. Việc tập hợp được những nguồn tiền nhàn rỗi trong dân chúng để đưa vào kinh doanh đã góp phần tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn lực của nền kinh tế. Ngoài ra hoạt động nhận tiền gửi của Ngân hàng cũng góp phần tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ. Đặc biệt trong nền kinh tế phát triển nếu dân chúng có thói quen gửi tiền vào Ngân hàng để sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng thì điều này sẽ góp phần giúp chính phủ quản lí được thu nhập của người dân.
Một trong những nguồn vốn không kém phần quan trọng, là nguồn vốn phát hành kì phiếu, trái phiếu. Việc phát hành kì phiếu hay trái phiếu phụ thuộc vào quy mô vốn cần huy động , thời gian huy động vốn, cơ cấu nợ và tài sản của Ngân hàng.
Các hoạt động huy động nguồn vốn trên đây hình thành nên tài sản nợ của Ngân hàng và Ngân hàng phải có trách nhiệm chi trả đối với tất cả các nguồn vốn huy động được theo yêu cầu của khách hàng. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn quyết định đến hoạt động của Ngân hàng. Do đó quản lí nguồn vốn phù hợp và sử dụng vốn có hiệu quả là một vấn đề mang tính chiến lược đối với mỗi Ngân hàng
1.1.4.2 Hoạt động sử dụng vốn
Khi đã huy động được vốn rồi, nắm trong tay một số tiền nhất định thì các Ngân hàng thương mại phải làm như thế nào để hiệu quả hoá những nguồn này, nghĩa là tìm cách để những khoản tiền đó được đầu tư đúng nơi, đúng chỗ, có hiệu quả, an toàn, đem lại nhiều lợi nhuận cho Ngân hàng. Và hoạt động sử dụng vốn của Ngân hàng bằng những cách sau: Ngân hàng đã tài trợ lại cho nền kinh tế dưới dạng các thành phần kinh tế vay, hoặc Ngân hàng đầu tư trực tiếp, Ngân hàng tham gia góp vốn cùng kinh doanh hay cho thuê tài sản,Ngân hàng gửi tiền tại các Ngân hàng khác- tại Ngân hàng Nhà nước- những tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng đầu tư trên thị trường chứng khoán , Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho Ngân hàng và có thể bán đi để ra tăng ngân quỹ khi cần thiết... Những đối tượng tài trợ không chỉ có các tổ chức kinh tế thực hiện hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà còn có cả các cá nhân tiêu dùng, thậm chí Chính phủ cũng được Ngân hàng tài trợ dưới những hình thức : Ngân hàng thương mại mua tín phiếu kho bạc, trái phiếu của chính phủ trên thị trường tiền tệ. Sự phát triển của hoạt động cho vay, đã giúp Ngân hàng có vị trí ngày càng quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế. Hơn nữa thông qua hoạt động cho vay, Ngân hàng thương mại có khả năng “tạo tiền” hay mở rộng lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên hoạt động cho vay của Ngân hàng chứa đựng nhiều yế tố rủi ro nên Ngân hàng thường áp dụng các nguyên tắc hoạt động và quản lý tiền vay một cách chặt chẽ.
Lãi thu được từ hoạt động cho vay, Ngân hàng sẽ dùng nó để trả lãi suất cho nguồn vốn đã huy động và đi vay, thanh toán những chi phí trong hoạt động, phần còn lại sẽ là lợi nhuận của Ngân hàng. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt của Ngân hàng thương mại để tạo ra lợi nhuận, chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu tư .
Kinh tế ngày càng phát triển, lượng cho vay của Ngân hàng thương mại ngày càng tăng nhanh và loại hình cho vay cũng trở nên vô cùng phong phú và đa dạng. Tại hầu hết các nước công nghiêp trong nhóm những nước hàng đầu thế giới, cho vay của các Ngân hàng thương mại đã chuyển dần từ cho vay ngắn hạn sang cho vay dài hạn. Ngược lại, ở các nước đang phát triển, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn, xuất phát từ chỗ thiếu an toàn cho các khoản đầu tư dài hạn (trong đó có các tác nhân chủ yếu như tình hình tăng trưởng, lạm phát,...)
So với hoạt động cho vay thì hoạt động đầu tư của Ngân hàng có quy mô và tỷ trọng nhỏ hơn trong mục tài sản sinh lời của Ngân hàng thương mại. Phải sang đến những năm đầu thế kỷ XIX các Ngân hàng thương mại mới quan tâm mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực đầu tư vào các ngành công nghiệp. So với hoạt động cho vay hoạt động đầu tư đem lại thu nhập cao hơn nhưng rủi ro cao hơn do thu nhập từ hoạt động đầu tư không được xác định trước vì phải phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mà Ngân hàng đầu tư vào. Ngoài ra thì trong hoạt động đầu tư , Ngân hàng được lựa chọn doanh mục đầu tư có lợi nhất cho mình.
Bên cạnh hoạt động cho vay và đầu tư, Ngân hàng có thể tham gia vào thị trường chứng khoán tuỳ quy định của từng quốc gia. Ngân hàng thương mại có thể tham gia như một người cung cấp hàng hoá cho thị trường chứng khoán hay đóng vai trò là nhà đầu tư, mua bán chứng khoán vì mục tiêu kiếm lời cho chính Ngân hàng. Hoặc thực hiện kinh doanh chứng khoán thông qua uỷ thác của khách hàng.
1.1.4.3 Ngân hàng thực hiện các dịch vụ tài chính trung gian
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian bởi vì khi thực hiện các hoạt động này Ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch vụ mà khách hàng cần.
Ngày nay, các dịch vụ của Ngân hàng không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này từ tài khoản này đến tài khoản khác ở cùng một Ngân hàng hay ở hai Ngân hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, dich vụ giữ hộ các chứng từ, vật quý giá dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động. Đây là những khoản chi thường xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và phiền toái khi thanh toán các khoản này, cung cấp các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ Ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch sẽ đem lại cho Ngân hàng những khoản thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ Ngân hàng sẽ giúp Ngân hàng phát triển toàn diện.Tại các nước phát triển, các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau bằng con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng, không ngừng tìm tòi những dịch vụ mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ Ngân hàng càng phát triển, thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận các Ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động dịch vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động cho vay, thực hiện các dịch vụ trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba dịch vụ đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển, tạo uy tín cho Ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho vay có hiệu quả phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào, đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì Ngân hàng phải làm tốt vai trò chung gian, chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động của Ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của các Ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng thương mại
Khái niệm về vốn và vai trò của vốn đối với hoạt động của ngân hàng thương mại
Khái niệm về vốn:
Vốn của các NHTM là toàn bộ các giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động và tạo lập để đầu tư cho vay và đá ứng các nhu cầu khác trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thực chất nguồn vốn của các NHTM là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng mà khách hàng gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Nói cách khác khách hàng chuyển quyền sử dụng tiền tệ cho ngân hàng và Ngân hàng trả cho khách hàng một khoản lãi và Ngân hàng đã thưc hiện vai trò tập trung và phân phối vốn làm tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế, phục vụ và kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển đồng thời chính các hoạt động đó lại quyết định đến sự tồn tại và phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Vai trò của vốn:
Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ doanh nghiệp nào muốn sản xuất kinh doanh cũng cần có vốn, vốn quyết định đến khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với NHTM vốn là đói tượng kinh doanh chủ yếu, vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Nếu thiếu vốn NHTM không thể thực hiện các hoạt động kinh doanh. Vì thế những ngân hàng có vốn lớn sẽ có thế mạnh trong kinh doanh. Vốn là điểm xuất phát đầu tiên trong hoạt động kinh doanh của NHTM.
Ngoài vai trò là cơ sở để ngân hàng tổ chức các hoạt động kinh doanh, vốn còn quyết định đến việc mở rộng hoặc thu hẹp khối lượng tín dụng và các hoạt động khác của NHTM. Vốn tự có của ngân hàng ngoài viẹc sử dùng để mua sắm TSCĐ, trang thiết bị, góp vốn liên doanh...Vốn tự có của ngân hàng là căn cứ để giới hạn các hoạt động kinh doanh tiền tệ bao gồm cả hoạt động tín dụng. Việc quy định tỷ lệ cho vay, tỷ lệ huy động vốn trên vốn tự có của NHTƯ thể hiện vai trò quản lý, điều tiết thị trường của nhà nước, để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng và đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Qua những quy định của NHTƯ đối với NHTM ta thấy vốn tự có quyết định đến khả năng cấp tín dụng, huy động vốn của NHTM vì thế những NHTM có vốn tự có lớn thì quy mô tín dụng càng lớn và ngược lại. Không những vốn tự có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà vốn huy động cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tín dụng và hoạt động khác .Vốn tự có rất quan trọng nhưng chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng nguồn vốn, vốn huy động chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn vốn chủ yếu để ngân hàng tiến hành các hoạt động kinh doanh do đó ngân hàng nào có nguồn vốn huy động càng lớn thì khả năng cấp tín dụng cho nền kinh tế và các hoạt động khác càng được mở rộng.
Vốn là một nhân tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong hoàn cảnh nước ta có nền kinh tế kém phát triển và khoa học kĩ thuật còn lạc hậu so với thế giới thì vốn lại càng đặc biệt quan trọng. Đảng ta đã nhận định không chỉ trông chờ vào vốn bên ngoài mà phải “phát huy cao độ nguồn nội lực” để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nền kinh tế phát triển mạnh và cân đối giữa các nghành. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với xây dựng một thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế, thông qua chức năng là trung gian luân chuyển và huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế Đảng ta đã chỉ rõ "Chính sách tài chính quốc gia hướng vào nguồn tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ, tiêu dùng theo hướng tăng dần tỷ lệ tích luỹ…"Với mục tiêu phát triển nhanh và vững chắc, trong đó mục tiêu huy động vốn phải gắn liền với mục tiêu phát triển kinh tế, huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội, duy trì tỷ lệ huy động 9- 10%/năm, trong đó chú trọng huy động nguồn nội lực (chiếm 60-70% tổng nguồn vốn huy động) nhằm tránh tình trạng gánh nặng nợ nước ngoài quá cao sẽ làm ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế. Đơn vị trọng điểm thực hiện chủ trương này là ngành ngân hàng, trong đó hệ thống ngân hàng thương mại chiếm vai trò tối quan trọng. Ngành ngân hàng bằng mọi biện pháp phải đẩy mạnh huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phục vụ cho đầu tư phát triển , đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, bởi đây là nguồn vốn sử dụng cho đầu tư lâu dài và khả năng luân chuyển vốn lớn.
Với mục tiêu từ nay đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, vì vậy tập trung mọi nguồn lực, phát huy nội lực, thực hiện tích lũy cho đầu tư là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Đây không chỉ là vấn đề của riêng nước ta mà theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới khi bước vào giai đoạn đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì không nước nào lại không ở tình trạng thiếu vốn đầu tư. Thực tế, tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá của mỗi nước phụ thuộc vào mức độ, cách thức tạo vốn khả dụng của chính nước đó. Vì thế, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi quốc gia tự tìm cho mình biện pháp phù hợp để có thể huy động vốn và sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất, phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cơ sở. Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta có lợi thế của một nước đi sau trong việc tạo vốn để giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế xã hội, công nghệ kỹ thuật, môi trường sinh thái kế thừa từ các nước công nghiệp đã phát triển… Chính vì vậy chúng ta phải tranh thủ thời cơ và tiến hành công cuộc đó một cách nhanh chóng và vững chắc.
Nhận định, phân tích một cách chính xác tình tình trong và ngoài nước, lựa chọn khéo léo cách thức tạo vốn tối ưu cho nền kinh tế "mở" đang tăng trưởng tích cực ở nước ta. Vì thế cần xác định rõ ràng nguyên nhân của các hạn chế và thành công trong quá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3931.doc