Đề tài Nâng cao chất lượng nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn

Chào bán cổ phần lần đầu bằng phương thức đấu giá trên trung tâm giao dịch chứng khoán được thực hiện ở Việt Nam từ cuối năm 2004, đầu năm 2005. Đây là vấn đề mới, thu hút được đông đảo sự quan tâm của các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán.

Hiện nay theo chủ trương của Nhà nước thì rất nhiều các công ty chuẩn bị tiến hành cổ phần hoá trong năm 2007, thêm vào đó thị trường chứng khoán Việt Nam còn non kém so với các nước trong khu vực,còn có nhiều thiếu sót và khung pháp lý chưa hoàn thiện, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán của người dân còn hạn chế, đặc biệt đối với các doanh nghiệp khi xác định một cách hợp lý giá bán cổ phần ra công chúng. Đáp ứng nhu cầu ngày cáng lớn, nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần của công ty chứng khoán ra đời đã giải quyết các khó khăn này, giúp doanh nghiệp hoàn tất khâu cuối cùng của quá trình cổ phần hoá để trở thành công ty đại chúng.

Trong điều kiện hiện nay, có nhiều công ty chứng khoán mới thành lập nên việc cung ứng nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần không còn hạn chế như trước nữa. Các doanh nghiệp phát hành có nhiều sự lựa chọn. Đứng trước thực tế đó thì việc nâng cao chất lượng của nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần là rất cần thiết. Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, một trong những công ty chứng khoán đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam triển khai nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần cũng không nằm ngoài quy luật đó, phải không ngừng nâng cao chất lượng nghiệp vụ để giữ vững thị phần và nâng cao uy tín của mình.

Đó chính là lý do mà em chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn”.

 

doc101 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1044 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu 1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu: Chào bán cổ phần lần đầu bằng phương thức đấu giá trên trung tâm giao dịch chứng khoán được thực hiện ở Việt Nam từ cuối năm 2004, đầu năm 2005. Đây là vấn đề mới, thu hút được đông đảo sự quan tâm của các chủ thể tham gia vào thị trường chứng khoán. Hiện nay theo chủ trương của Nhà nước thì rất nhiều các công ty chuẩn bị tiến hành cổ phần hoá trong năm 2007, thêm vào đó thị trường chứng khoán Việt Nam còn non kém so với các nước trong khu vực,còn có nhiều thiếu sót và khung pháp lý chưa hoàn thiện, sự hiểu biết về thị trường chứng khoán của người dân còn hạn chế, đặc biệt đối với các doanh nghiệp khi xác định một cách hợp lý giá bán cổ phần ra công chúng. Đáp ứng nhu cầu ngày cáng lớn, nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần của công ty chứng khoán ra đời đã giải quyết các khó khăn này, giúp doanh nghiệp hoàn tất khâu cuối cùng của quá trình cổ phần hoá để trở thành công ty đại chúng. Trong điều kiện hiện nay, có nhiều công ty chứng khoán mới thành lập nên việc cung ứng nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần không còn hạn chế như trước nữa. Các doanh nghiệp phát hành có nhiều sự lựa chọn. Đứng trước thực tế đó thì việc nâng cao chất lượng của nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần là rất cần thiết. Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, một trong những công ty chứng khoán đầu tiên trên thị trường chứng khoán Việt Nam triển khai nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần cũng không nằm ngoài quy luật đó, phải không ngừng nâng cao chất lượng nghiệp vụ để giữ vững thị phần và nâng cao uy tín của mình. Đó chính là lý do mà em chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn”. 2. Mục tiêu nghiên cứu: * Hệ thống hoá các vấn đề cơ bản và đi sâu vào tìm hiểu lý thuyết về nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần của công ty chứng khoán. * Đánh giá thực trạng nghiệp vụ tư vấn đấu giá của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn. * Bước đầu vận dụng các kiến thức để đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao và phát triển nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ tập trung vào phân tích nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần lần đầu ra bên ngoài doanh nghiệp (gọi tắt là tư vấn đấu giá cổ phần) của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn tổ chức tại trung tâm giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 4. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp logic, phương pháp quy nạp. 5. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận văn này gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần của các công ty chứng khoán. Chương II: Thực trạng nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần tại công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn. Chương III: Giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần của công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Chương I TổNG QUAN Về NGHIệP Vụ TƯ VấN ĐấU GIá Cổ PHầN CủA CáC CÔNG TY CHứNG KHOáN 1.1. Những vấn đề cơ bản về công ty chứng khoán: 1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán: * Công ty chứng khoán là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữư hạn thành lập theo pháp luật để kinh doanh chứng khoán theo giấy phép kinh doanh chứng khoán do Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp. Hoặc: * Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. 1.1.2. Chức năng, vai trò nghiệp vụ của công ty chứng khoán: 1.1.2.1. Vai trò huy động vốn: Các công ty chứng khoán là các công ty tài chính có vai trò huy động vốn, tức là họ là các kênh chuyển vốn từ nơi dư thừa sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. Các công ty chứng khoán thường đảm nhiệm vai trò này qua các hoạt động về nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán. 1.1.2.2. Vai trò xác định giá cả chứng khoán: Thông qua sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC, các công ty chứng khoán cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. 1.1.2.3. Vai trò thực hiện tính thanh khoản của chứng khoán: Các công ty chứng khoán thực hiện cơ chế chuyển đổi này từ đó giúp nhà đầu tư thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất. 1.1.2.4. Thúc đẩy vòng quay của chứng khoán: Các công ty chứng khoán cũng là người tạo ra sản phẩm bằng cách cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Qua đó họ góp phần làm tăng vòng quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. 1.1.2.5. Tư vấn tài chính: Các công ty chứng khoán với dịch vụ tổng hợp không chỉ thực hiện lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và cá nhân đầu tư. Công ty có thể tư vấn về:thu nhập và xử lý thông tin về các khả năng và cơ hội đầu tư,triển vọng ngắn và dài hạn của thị trường chứng khoán và các công ty trong thời gian hiện tại và tương lai, tư vấn đầu tư chứng khoán… 1.1.2.6. Cung cấp các sản phẩm đầu tư: Các sản phẩm đầu tư hiện nay phát triển rất mạnh do yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường tài chính, sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán có các dịch vụ yểm trợ rất to lớn đối với thị trường, vì mỗi loại sản phẩm dịch vụ tài chính có những quy trình riêng biệt và nhu cầu của khách hàng là đa dạng khác nhau. 1.1.3. Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán: 1.1.3.1. Môi giới chứng khoán: “Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC mà chính khách hàng chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình”. Một trong những nguyên tắc của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian, nhờ hoạt động môi giới,công ty chứng khoán sẽ đóng vai trò là cầu nối giữa người mua và người bán chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí tìm kiếm đối tác giao dịch. Thực hiện hoạt động môi giới, công ty chứng khoán đòi hỏi nhân viên phải có những phẩm chất, tư cách đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc. Nhân viên môi giới chứng khoán phải là người công tâm, không vì lợi ích hoa hồng trước mắt mà xúi giục khách hàng thực hiện giao dịch, hoặc cung cấp những thông tin không đúng sự thật cho khách hàng, gây tổn thất cho khách hàng. Nhân viên môi giới chứng khoán phải rèn luyện được các kỹ năng như: kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng tìm hiểu khách hàng, kỹ năng khai thác thông tin… 1.1.3.2. Tự doanh chứng khoán: Khác với hoạt động môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh, công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. ”Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC”. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lại lợi nhuận cho chính công ty, hoặc nhằm điều tiết thị trường, thông qua hành vi mua bán chứng khoán với khách hàng, với các công ty chứng khoán khác. Trong quá trình thực hiện các giao dịch, các công ty chứng khoán vừa phải thực hiện lệnh giao dịch của khách hàng, vừa phải giao dịch cho chính mình, do đó dễ dẫn đến sự “nhập nhằng”, bất lợi cho khách hàng. Để hạn chế điều này, luật chứng khoán các nước đều quy định các công ty chứng khoán phải tách biệt rõ ràng hai nghiệp vụ môi giới và tự doanh, đồng thời phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của chinh mình. 1.1.3.3. Quản lý danh mục đầu tư: Bên cạnh môi giới và tự doanh, quản lý danh mục đầu tư cũng là hoạt động chính của công ty chứng khoán. ”Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là xây dựng một danh mục các loại chứng khoán, tài sản đầu tư đáp ứng tốt nhất nhu cầu của chủ đầu tư và sau đó thực hiện theo dõi điều chỉnh các danh mục này nhằm đạt được những mục tiêu để ra”. Yếu tố quan trọng đầu tiên mà chủ đầu tư quan tâm đó là mức độ rủi ro mà họ chấp nhận, và đây là cơ sở để công ty chứng khoán thực hiện quản lý danh mục đầu tư, xác định tỷ trọng các loại chứng khoán trong danh mục đầu tư sao cho lợi tức thu được là tối ưu với rủi ro không vượt quá mức chấp nhận đã định trước. Quản lý danh mục đầu tư là nghiệp vụ quản lý vốn uỷ thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận, bảo toàn vốn. Đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn mang tính chất tổng hợp, có kèm theo đầu tư. 1.1.3.4. Bảo lãnh phát hành chứng khoán: Với mỗi tổ chức phát hành, chào bán chứng khoán ra công chúng là hoạt động vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của đợt phát hành. Với sự chuyên nghiệp và trình độ nghiệp vụ cao cũng như sự am hiểu thị trường, công ty chứng khoán thực hiện bảo lãnh đợt phát hành, phân phối chứng khoán ra công chúng, giúp cho doanh nghiệp huy động vốn thành công trên thị trường chứng khoán. “Bảo lãnh phát hành là việc công ty chứng khoán có chức năng bảo lãnh (sau đây gọi tắt là tổ chức bảo lãnh) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá cả chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành”. Thông thường, nếu tổ chức bảo lãnh là các công ty chứng khoán thì họ sẽ nhận kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn nếu các ngân hàng đầu tư đứng ra nhận bảo lãnh thì họ sẽ chuyển phân phối chứng khoán cho một công ty chứng khoán. 1.1.3.5. Tư vấn: Khác với quản lý danh mục đầu tư, tư vấn là hoạt động tư vấn mà không kèm theo đầu tư. Công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Các dịch vụ tư vấn mà công ty chứng khoán có thể cung cấp cho doanh nghiệp được chia làm hai loại là tư vấn tài chính doanh nghiệp và tư vấn thị trường vốn. * Tư vấn tài chính doanh nghiệp gồm có tư vấn cổ phần hoá, tư vấn niêm yết,khảo sát và đánh giá hoạt động doanh nghiệp,mua và sáp nhập công ty, bán và giải thể công ty, phân tích tính cạnh tranh và khả năng tồn tại, duy trì phát triển của công ty, nâng cao giá trị cổ phiếu doanh nghiệp. * Tư vấn thị trường vốn gồm có tư vấn huy động vốn qua đấu giá ra công chúng, tư vấn huy động vốn qua kênh riêng và tư vấn tài trợ dự án, tư vấn cổ phần hoá, tư vấn niêm yết, khảo sát và đánh giá hoạt động doanh nghiệp. => Tóm lại, công ty chứng khoán với những hoạt động và nghiệp vụ của mình, là chủ thể quan trọng, không thể thiếu trên thị trường chứng khoán. Đặc biệt, nghiệp vụ tư vấn đấu giá cổ phần, liên quan đến nhiều khía cạnh trên thị trường bởi vì đấu giá cổ phần là khâu cuối cùng của quá trình cổ phần hoá, là phương thức để phân phối chứng khoán của doanh nghiệp ra công chúng. Với tầm quan trọng quyết định sự thành công của quá trình cổ phần hóa, phát hành lần đầu của doanh nghiệp, tư vấn đấu giá được tách riêng ra là một hoạt động của công ty chứng khoán. 1.1.4. Vai trò của công ty chứng khoán: Với tư cách là trung gian tài chính, thực hiện hoạt động trên thị trường chứng khoán, vai trò của công ty chứng khoán như sau: 1.1.4.1. Đối với các tổ chức phát hành: Mục đích của các tổ chức phát hành khi tham gia thị trường chứng khoán là nhằm huy động vốn, thông qua việc phát hành chứng khoán. Với những cán bộ tư vấn am hiểu thị trường và doanh nghiệp cũng như am hiểu các nhà đầu tư, công ty chứng khoán sẽ tư vấn cho doanh nghiệp, sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện thành công việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Như vậy công ty chứng khoán có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. Mặt khác với nguyên tắc trung gian của thị trường, các công ty chứng khoán sẽ đóng vai trò là trung gian, cầu nối giữa người mua và người bán chứng khoán, giữa nhà đầu tư và nhà phát hành chứng khoán, tạo ra một cơ chế huy động vốn. 1.1.4.2. Đối với các nhà đầu tư: Nhờ có công ty chứng khoán làm môi giới, các nhà đầu tư sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí tìm kiếm đối tác giao dịch, tíêt kiệm chi phí vận chuyển, bảo quản, chuyển giao chứng khoán nhờ việc lưu ký tại công ty chứng khoán, tiết kiệm thời gian, công sức, chi phí tìm kiếm thông tin về chứng khoán và tổ chức phát hành, nâng cao hiệu quả đầu tư nhờ các dịch vụ tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp của công ty chứng khoán. 1.1.4.3. Đối với thị trường chứng khoán: Thứ nhất, công ty chứng khoán có vai trò góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Trên thị trường sơ cấp, các công ty chứng khoán cùng với các nhà phát hành đưa ra các mức giá đầu tiên là giá khởi điểm khi đấu giá, trên thị trường thứ cấp, với tư cách trung gian trên thị trường, công ty chứng khoán sẽ đưa các lệnh của khách hàng nhập vào hệ thống khớp lệnh, khớp giá. Ngoài ra, để bảo vệ lợi ích của khách hàng và lợi ích của chính mình, các công ty chứng khoán thường giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò điều tiết thị trường. Chính vì vậy giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của công ty chứng khoán. Thứ hai, công ty chứng khoán có vai trò làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Trên thị trường sơ cấp, nhờ các hoạt động tư vấn phát hành, bảo lãnh phát hành, tư vấn đấu giá, tư vấn cổ phần hóa mà công ty chứng khoán huy động được một lượng vốn lớn cho các tổ chức phát hành, đồng thời các chứng khoán được phát hành đó sẽ được mua bán trên thị trường thứ cấp. Trên thị trường thứ cấp, các công ty chứng khoán lại thực hiện các giao dịch cho khách hàng, giúp khách hàng chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại một cách nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng với chi phí thấp, nghĩa là làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. 1.1.4.4. Đối với các cơ quan quản lý thị trường: Là tổ chức hoạt động chuyên nghiệp trên thị trường, có sự am hiểu tường tận về thị trường, nắm rõ trong tay thông tin về tổ chức phát hành, công ty chứng khoán có vai trò cung cấp đầy đủ, kịp thời và chính xác thông tin về thị trường chứng khoán cũng như bản than công ty mình cho các cơ quan ,ban ngành có chức năng nhằm mục đích quản lý thị trường. =>Tóm lại, công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian, thực hiện các hoạt động, nghiệp vụ liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán. Công ty chứng khoán là một chủ thể không thể thiếu bởi nó có vai trò quan trọng đối với mỗi chủ thể khác nhau trên thị trường. 1.2. Cổ phiếu và các hình thức phát hành cổ phiếu: 1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của cổ phiếu: 1.2.1.1. Khái niệm: Cổ phiếu là một loại chứng khoán phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. 1.2.1.2. Đặc điểm của cổ phiếu: * Cổ phiếu là một tài sản thực sự. Cổ phiếu là một chứng thư xác nhận quyền sở hữu đối với tài sản và vốn của một công ty cổ phần, do đó nó được coi như là một tài sản thực sự. Để đảm bảo an toàn đối với loại tài sản dưới dạng chứng khoán này, luật của các nước thường quy định các cổ đông không được giữ cổ phiếu riêng mà phải ký gửi tại Kho bạc, ngân hàng hoặc công ty chứng khoán. Nếu là hàng hoá mua bán tại Sở giao dịch chứng khoán thì phải ký gửi vào Trung tâm lưu ký và bảo quản chứng khoán, khi đó cổ đông sẽ nhận được một giấy chứng nhận cổ phiếu. Giấy chứng nhận cổ phiếu do Trung tâm lưu ký và bảo quản chứng khoán thuộc SGDCK cấp có giá trị lưu thong, mua bán như chứng khoán. * Cổ phiếu là một loại chứng khoán vĩnh viễn (vô thời hạn). Công ty cổ phần nào khi thành lập cũng phải quy định hoạt động của mình trong điều lệ (ví dụ 20 năm, 30 năm hay 50 năm). Hết thời hạn đó, nếu không được kéo dài, công ty hay doanh nghiệp đó phải giải thể. Các cổ đông sẽ được hoàn vốn. Nhưng trong thực tế ít có công ty đang hoạt động có hiệu quả lại giải thể. Còn một công ty hoạt động không có chất lượng, hiệu quả kém phải giải thể thì khả năng hoàn vốn cho cổ phiếu là rất khó. Do đó, thời hạn của cổ phiếu gắn chặt với thời hạn hoạt động của công ty đã phát hành ra nó. Cổ phiếu được coi như là một loại chứng khoán vĩnh viễn - vô thời hạn. 1.2.2. Các hình thức phát hành cổ phiếu: 1.2.2.1. Phát hành chứng khoán riêng lẻ: * Khái niệm: Phát hành chứng khoán riêng lẻ là việc phát hành chứng khoán được bán nội bộ hoặc bán thẳng cho các tổ chức đầu tư hoặc một số các cá nhân bên ngoài. Phát hành chứng khoán riêng lẻ tập trung vào chủ yếu là các tổ chức lớn và là những tổ chức có quan hệ gần gũi với doanh nghiệp. Việc phân phối chứng khoán theo hình thức này có thể cho phép doanh nghiệp huy động được vốn một cách nhanh chóng và bảo đảm cho giá chứng khoán không biến động mạnh. Trong hình thức phát hành chứng khoán riêng lẻ thì cổ phiếu thường được phát hành lần đầu cho các nhà sáng lập của công ty hoặc phát hành cổ phiếu mới với việc ưu tiên đặt mua trước cho cổ đông hoặc có thể chào bán chứng khoán cho người thứ ba thường là có quan hệ chặt chẽ mật thiết với công ty như người quản lý công ty,người lao động trong công ty, các định chế tài chính,các đối tác kinh doanh… * Điều kiện phát hành chứng khoán riêng lẻ: Do hình thức phát hành này không tiến hành một cách rộng rãi ra công chúng nên điều kiện phát hành của nó cũng có những hạn chế nhất định cụ thể là: - Quy mô vốn nhỏ, không cần đáp ứng những điều kiện về vốn điều lệ tối thiểu ban đầu, không quy định về tỷ lệ phần trăm đối với vốn cổ phần do công chúng nắm giữ và số lượng công chúng tham gia. - Công ty có thể mới thành lập hoặc công ty đã thành lập và hoạt động không kể thời gian nào. - Hoạt động kinh doanh có thể có lâi hoặc thấp hoặc chưa có lãi trong giai đoạn đầu mới phát hành chứng khoán. - Lập được dự án đầu tư và phương án sản xuất kinh doanh khả thi và việc sử dụng nguồn vốn từ đợt phát hành. - Đội ngũ quản lý công ty có năng lực, không đòi hỏi cao như hình thức phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng. - Đáp ứng một số quy định khác tuỳ thuộc vào đợt phát hành. 1.2.2.2. Phát hành chứng khoán ra công chúng: * Khái niệm: Phát hành chứng khoán ra công chúng là việc phát hành trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng cho một số lượng lớn nhà đầu tư nhất định (trong đó phải dành một tỷ lệ cho các nhà đầu tư nhỏ) và khối lượng phát hành phải đạt một mức nhất định. Phát hành chứng khoán ra công chúng có thể được thực hiện trực tiếp bởi tổ chức phát hành hoặc thông qua các tổ chức trung gian. Hình thức phát hành này có quan hệ khá mật thiết với việc bảo lãnh phát hành bởi đây là hình thức phát hành chứa đựng nhiều rủi ro do việc phân phối chứng khoán ra công chúng là những đối tượng mà tổ chức phát hành không có quan hệ chặt chẽ. Thông thường nếu tổ chức phát hành lựa chọn phát hành chứng khoán ra công chúng thì việc chọn cho mình một tổ chức bảo lãnh uy tín là điều vô cùng cần thiết để có thể đảm bảo cho đợt huy động vốn được diễn ra một cách thuận lợi. * Điều kiện phát hành chứng khoán ra công chúng: Điều kiện để một công ty có thể phát hành chứng khoán ra công chúng là: -Tổ chức đó phải có quy mô lớn, mức vốn điều lệ tối thiểu thực có đến ngày xin phép phát hành tuỳ theo mức quy định của từng nước. Ví dụ đối với Việt Nam là 10 tỷ. -Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi trong vòng hai năm liên tục gần nhất với đợt phát hành chứng khoán. - Có tình hình tài chính lành mạnh và triển vọng. - Có phương án kinh doanh khả thi, việc sử dụng vốn một cách hiệu quả. - Có hội đồng quản trị, đội ngũ quản lý kinh doanh nhiều kinh nghiệm. - Có điều kiện về bảo lãnh phát hành chứng khoán. - Có quy định về việc nắm giữ cổ phiếu đối với cổ đông sáng lập. * Các hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng: Có ba hình thức phát hành chứng khoán ra công chúng trên thị trường sơ cấp: - Phát hành trực tiếp (tự phát hành): là phương thức phát hành trong đó tổ chức phát hành tự bán chứng khoán ra công chúng. Muốn tự phát hành ra công chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải có mạng lưới chi nhánh nhiều địa điểm khác nhau, phải am hiểu thị trường,có khả năng phân tích và xử lý thông tin. - Phát hành bắng phương thức đấu thầu: phương thức phát hành thông qua đấu thầu thường áp dụng đối với Trái phiếu Chính phủ và tín phiếu Kho Bạc Nhà nước. Có hai phương pháp đấu thầu: + Đấu thầu theo kiểu Hà Lan: giá trúng thầu là mức giá dự thầu thấp nhất tại đó đạt được khối lượng tổ chức phát hành cần huy động. Các đơn vị đặt thầu với mức giá lớn hơn hoặc bằng mức giá này đều trúng thầu. Các đơn vị trúng thầu đều được giải quyết theo mức giá thống nhất đó. + Đấu thầu theo kiểu Mỹ: các đơn vị đặt thầu với mức giá lớn hơn hoặc bằng mức giá mà tại đó đạt được khối lượng tổ chức phát hành cần huy động đều trúng thầu. Các đơn vị trúng thầu đặt thầu với mức giá nào thì được giải quyết theo mức giá đó => các nhà đầu tư phải cân nhắc kỹ khi đặt giá. - Phát hành gián tiếp thông qua bảo lãnh phát hành: đây là phương thức phát hành gián tiếp, tổ chức phát hành nhờ ngân hàng hoặc công ty chứng khoán bảo lãnh phát hành. Phương thức này tạo ra khả năng bán chứng khoán tốt bởi các tổ chức bảo lãnh phát hành có hệ thống bán, kinh nghiệm, khả năng về vốn. * Lợi ích của việc phát hành chứng khoán ra công chúng: Việc phát hành chứng khoán ra công chúng ngày càng thu hút được nhiều doanh nghiệp tham gia và điều này đã làm cho thị trường sơ cấp hoạt động sôi nổi và thúc đẩy cho thị trường thứ cấp phát triển. Đó là do phát hành chứng khoán đem lại khá nhiều lợi ích cho doanh nghiệp: Một là, giúp doanh nghiệp huy động được nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh không bị ngưng trệ. Thông qua việc phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu, nguồn vốn nợ và vốn cổ phần của doanh nghiệp tăng lên là cơ sở đảm bảo cho nguồn vốn ổn định hơn. Hai là, làm tăng uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp, nhờ đó công ty dễ dàng hơn và tốn ít chi phí hơn trong việc huy động vốn qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu những lần sau. Hơn nữa khách hàng và nhà cung ứng của công ty cũng sẽ trở thành cổ đông của công ty và do vậy công ty sẽ rất có lợi trong việc mua nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm. Ba là, giúp cho công ty có thể thu hút và giữ lại những nhân viên có trình độ cao bởi vì một tỷ lệ chứng khoán nhất định nằm trong tay họ. Các nhân viên chính là cổ đông là chủ sở hữu của công ty do đó họ luôn phát huy tinh thần trách nhiệm cao, làm việc có hiệu quả và nó kích thích sự cạnh tranh đối với các công ty khác. Quyền lợi của những người nắm giữ cổ phiếu của công ty luôn gắn chặt với lợi ích mà họ tạo ra cho công ty đó. Bốn là, làm cho tính thanh khoản của chứng khoán tăng lên vì lúc này thị trường dành cho các cổ phiếu ra đời đó chinh là thị trường thứ cấp. Nhờ đó giá trị tài sản của các cổ đông trong công ty cũng được tăng lên, uy tín của công ty cũng được thay đổi với những hình ảnh tốt đẹp hơn. Khi uy tín và hình ảnh của công ty tăng lên giúp cho công ty có thể huy động vốn một cách dễ dàng hơn từ ngân hàng, công ty có thể vay vốn với những điều kiện ưu đãi hơn về lãi suất, thủ tục vay và thủ tục về tài sản cầm cố sẽ ít phiền hà hơn, công ty có thể có những khuyến khích đáng kể về thuế. Năm là, làm tăng chất lượng và độ chính xác của các báo cáo tài chính vì các báo cáo tài chính phải được lập theo các tiêu chuẩn chung do cơ quan quản lý quy định. Hơn nữa các thông tin tài chính của doanh nghiệp phát hành phải được công khai một cách rõ ràng, minh bạch, điều này làm cho việc đánh giá và so sánh kết quả hoạt động của công ty được thực hiện một cách dễ dàng và thúc đẩy việc quản trị cũng như kinh doanh của công ty có hiệu quả hơn. 1.2.2.3. Sự cần thiết của nghiệp vụ tư vấn phát hành: Đối với các doanh nghiệp hay các tổ chức có nhu cầu huy động vốn và lựa chọn phương án phát hành chứng khoán thì vấn đề đầu tiên là phải lựa chọn công cụ chứng khoán, mục đích của nghiệp vụ tư vấn phát hành là giúp cho tổ chức phát hành lựa chọn công cụ và phương thức phát hành chứng khoán có lợi nhất. Đối với các tổ chức hành chính địa phương hay các dự án đầu tư đặc biệt thì khả năng huy động vốn bằng phát hành chứng khoán chỉ thực hiện được bằng phương thức phát hành trái phiếu. Nhưng đối với các doanh nghiệp thì việc lựa chọn loại chứng khoán nào là công việc phức tạp nhất,vì mỗi công cụ có từng lợi thế riêng và cũng có những bất lợi riêng mà đại hội đồng cổ đông của doanh nghiệp phải suy xét trên cơ sở chiến lược của mình. Cụ thể: Công cụ Lợi thế Hạn chế Trái phiếu - K

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc572.doc
Tài liệu liên quan