Đề tài Một vài nét nghiên cứu về nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái

Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội hoàn thiện và phức tạp nhất. Trong khi tìm đường lên các vì sao, loài người đồng thời quay trở lại tìm hiểu chính mình. Và công việc này cũng không kém phần khó khăn so với các nghiên cứu khoa học về vũ trụ, kỹ thuật và tự nhiên. Tiến bộ khoa học gần đây nhất - việc giải mã và công bố bản đồ gen đã mở ra cánh cửa cho việc đem lại những hiểu biết mới về con người, đặc biệt là đóng góp cho việc chữa trị những căn bệnh nan y. Tuy nhiên, với tư cách vừa là nhà nghiên cứu vừa là đối tượng nghiên cứu, con người đôi khi không thể tìm ra câu trả lời cho những câu đố về bản thân mình.

 

Hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một trong những vấn đề mà loài người hiện nay còn đang trên đường tìm hiểu về bản chất cũng như nguyên nhân và giải pháp cho nó. Xét về mặt y học, các nhà khoa học cho rằng đây có thể được coi là như một loại bệnh tâm thần. Họ xếp đồng tính luyến ái vào nhóm bệnh về lệch lạc đối tượng. Nhưng nguyên nhân dẫn đến nó không đơn thuần chỉ nằm ở khía cạnh bệnh lý mà còn ở cả khía cạnh tâm lý. Có thể đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp dẫn đến sự phát triển lệch lạc từ khi còn nhỏ hoặc bị người đồng giới lợi dụng. Và theo quan điểm của nhiều người, đồng tính luyến ái là một hiện tượng lệch chuẩn. Đây là một lối sống không có lợi cho xã hội cả về mặt đạo đức cũng như phát triển. Bởi những gia đình của người đồng tính luyến ái (nếu có) sẽ không thể thực hiện được một chức năng quan trọng - duy trì nòi giống để đảm bảo sự phát triển của xã hội.

Trong những năm gần đây trên thế giới và ở Việt Nam, hiện tượng đồng tính luyến ái phát triển mạnh mẽ. Đây đó đã xuất hiện những phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền được kết hôn cho những người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam, từ sau thời điểm mở cửa giao lưu kinh tế, những luồng văn hoá tư tưởng nước ngoài đã xâm nhập và gây ra những ảnh hưởng không phải lúc nào cũng tốt cho lối sống và quan niệm của người dân.

Tầng lớp chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nó chính là thanh niên. Đây là thế hệ sinh ra sau chiến tranh, lớn lên trong nền kinh tế thị trường nên quan niệm và lối sống có phần nào khác với thế hệ cha ông. Thêm nữa, tuổi trẻ thường chưa đủ năng lực nhận thức, đánh giá nên dễ bị hấp dẫn bởi những điều mới lạ chưa rõ tích cực hay tiêu cực.

 

Hiện tượng đồng tính luyến ái ở Việt Nam được quan niệm như một lối sống, một ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường khác với những giá trị truyền thống, nền tảng văn hoá của dân tộc. Trong thời gian gần đây, đã có rất nhiều bài báo viết về hiện tượng đồng tính luyến ái, chỉ ra những trường hợp coi đồng tính luyến ái như một cái mode để đua theo, hoặc do đối tượng bị cuốn hút bởi những miếng mồi vật chất của kẻ xấu. Đồng thời đồng tính luyến ái còn phát triển trở thành một tệ nạn xã hội - đặc biệt là đồng tính luyến ái nam. Chính vì thế dư luận xã hội thường không đồng tình và coi đây không chỉ là một loại bệnh lý thông thường mà còn phát triển thành một lối sống lệch lạc, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thêm nữa, người đồng tính luyến ái còn là nhóm nguy cơ cao về bệnh HIV do họ thường xuyên thay đổi bạn tình, ảnh hưởng tới sức khoẻ của cả cộng đồng.

 

Nhóm sinh viên là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao, đồng thời đây cũng là lớp người kế cận của đất nước. Do vậy đòi hỏi họ phải luôn có những hiểu biết và cách nhìn đúng đắn với các hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh mình. Thêm nữa họ cũng là một bộ phận của thanh niên, những người rất dễ bị ảnh hưởng, bị cuốn theo những điều mới lạ. Hiện tượng đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở bất kỳ giới nào, nghề nghiệp nào. Vì thế sinh viên cần có những hiểu biết nhất định về nó để ngăn chặn cũng như tránh khỏi sự lôi kéo của những đối tượng xấu. Xuất phát từ nhận định như vậy, tôi đã chọn đề tài "Một vài nét nghiên cứu về nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái" nhằm tìm hiểu phần nào hiểu biết cũng như thái độ của họ về hiện tượng này.

Trong phạm vi luận văn, tôi không có điều kiện nghiên cứu toàn bộ sinh viên trên địa bàn Hà Nội mà chỉ tập trung khảo sát nhóm sinh viên của hai trường đại học Khoa học xã hội - nhân văn và đại học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội.

 

 

doc98 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1592 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một vài nét nghiên cứu về nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài: Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội hoàn thiện và phức tạp nhất. Trong khi tìm đường lên các vì sao, loài người đồng thời quay trở lại tìm hiểu chính mình. Và công việc này cũng không kém phần khó khăn so với các nghiên cứu khoa học về vũ trụ, kỹ thuật và tự nhiên. Tiến bộ khoa học gần đây nhất - việc giải mã và công bố bản đồ gen đã mở ra cánh cửa cho việc đem lại những hiểu biết mới về con người, đặc biệt là đóng góp cho việc chữa trị những căn bệnh nan y. Tuy nhiên, với tư cách vừa là nhà nghiên cứu vừa là đối tượng nghiên cứu, con người đôi khi không thể tìm ra câu trả lời cho những câu đố về bản thân mình. Hiện tượng đồng tính luyến ái cũng là một trong những vấn đề mà loài người hiện nay còn đang trên đường tìm hiểu về bản chất cũng như nguyên nhân và giải pháp cho nó. Xét về mặt y học, các nhà khoa học cho rằng đây có thể được coi là như một loại bệnh tâm thần. Họ xếp đồng tính luyến ái vào nhóm bệnh về lệch lạc đối tượng. Nhưng nguyên nhân dẫn đến nó không đơn thuần chỉ nằm ở khía cạnh bệnh lý mà còn ở cả khía cạnh tâm lý. Có thể đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp dẫn đến sự phát triển lệch lạc từ khi còn nhỏ hoặc bị người đồng giới lợi dụng. Và theo quan điểm của nhiều người, đồng tính luyến ái là một hiện tượng lệch chuẩn. Đây là một lối sống không có lợi cho xã hội cả về mặt đạo đức cũng như phát triển. Bởi những gia đình của người đồng tính luyến ái (nếu có) sẽ không thể thực hiện được một chức năng quan trọng - duy trì nòi giống để đảm bảo sự phát triển của xã hội. Trong những năm gần đây trên thế giới và ở Việt Nam, hiện tượng đồng tính luyến ái phát triển mạnh mẽ. Đây đó đã xuất hiện những phong trào đòi quyền bình đẳng, đòi quyền được kết hôn cho những người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam, từ sau thời điểm mở cửa giao lưu kinh tế, những luồng văn hoá tư tưởng nước ngoài đã xâm nhập và gây ra những ảnh hưởng không phải lúc nào cũng tốt cho lối sống và quan niệm của người dân. Tầng lớp chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của nó chính là thanh niên. Đây là thế hệ sinh ra sau chiến tranh, lớn lên trong nền kinh tế thị trường nên quan niệm và lối sống có phần nào khác với thế hệ cha ông. Thêm nữa, tuổi trẻ thường chưa đủ năng lực nhận thức, đánh giá nên dễ bị hấp dẫn bởi những điều mới lạ chưa rõ tích cực hay tiêu cực. Hiện tượng đồng tính luyến ái ở Việt Nam được quan niệm như một lối sống, một ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường khác với những giá trị truyền thống, nền tảng văn hoá của dân tộc. Trong thời gian gần đây, đã có rất nhiều bài báo viết về hiện tượng đồng tính luyến ái, chỉ ra những trường hợp coi đồng tính luyến ái như một cái mode để đua theo, hoặc do đối tượng bị cuốn hút bởi những miếng mồi vật chất của kẻ xấu. Đồng thời đồng tính luyến ái còn phát triển trở thành một tệ nạn xã hội - đặc biệt là đồng tính luyến ái nam. Chính vì thế dư luận xã hội thường không đồng tình và coi đây không chỉ là một loại bệnh lý thông thường mà còn phát triển thành một lối sống lệch lạc, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc. Thêm nữa, người đồng tính luyến ái còn là nhóm nguy cơ cao về bệnh HIV do họ thường xuyên thay đổi bạn tình, ảnh hưởng tới sức khoẻ của cả cộng đồng. Nhóm sinh viên là nhóm xã hội có trình độ tri thức cao, đồng thời đây cũng là lớp người kế cận của đất nước. Do vậy đòi hỏi họ phải luôn có những hiểu biết và cách nhìn đúng đắn với các hiện tượng xã hội xảy ra xung quanh mình. Thêm nữa họ cũng là một bộ phận của thanh niên, những người rất dễ bị ảnh hưởng, bị cuốn theo những điều mới lạ. Hiện tượng đồng tính luyến ái có thể xảy ra ở bất kỳ giới nào, nghề nghiệp nào. Vì thế sinh viên cần có những hiểu biết nhất định về nó để ngăn chặn cũng như tránh khỏi sự lôi kéo của những đối tượng xấu. Xuất phát từ nhận định như vậy, tôi đã chọn đề tài "Một vài nét nghiên cứu về nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái" nhằm tìm hiểu phần nào hiểu biết cũng như thái độ của họ về hiện tượng này. Trong phạm vi luận văn, tôi không có điều kiện nghiên cứu toàn bộ sinh viên trên địa bàn Hà Nội mà chỉ tập trung khảo sát nhóm sinh viên của hai trường đại học Khoa học xã hội - nhân văn và đại học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. 2. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Xã hội học là bộ môn khoa học luôn đi sát với những biến đổi của thực tiễn. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào mới nảy sinh đều cần đến sự đánh giá tìm hiểu của xã hội học để từ đó đưa ra những hiểu biết cũng như xu hướng giải quyết. Đồng tính luyến ái là một hiện tượng không nằm ngoài quy luật đó. Vốn là một hiện tượng tưởng chừng như cá biệt nảy sinh từ lối sống hay quan hệ của con người nhưng đồng tính luyến ái nhanh chóng thu hút được sự quan tâm của xã hội bởi những ảnh hưởng của nó đối với nền tảng đạo đức, lối sống cũng như sự phát triển của cả cộng đồng. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này rất phức tạp. Có trường hợp là bẩm sinh như một loại bệnh lý nhưng nhiều khi đó là xuất phát từ ảnh hưởng của môi trường sống hoặc do lối sống, nhận thức của cá nhân. Trong khi các nhà khoa học còn đang tranh cãi về nguyên nhân của hiện tượng này thì nó đã kịp gây ra những ảnh hưởng tới đời sống của toàn xã hội. Nhóm đồng tính luyến ái được coi là nhóm nguy cơ cao về lây truyền căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS, cướp đi sinh mạng của hàng triệu người trên thế giới. Thêm nữa, lối sống bất bình thường của người đồng tính luyến ái tạo nên những tác động tới nền văn hoá, đạo đức và luật pháp của mỗi quốc gia. ở nước ta, tuy rằng đồng tính luyến ái vẫn chỉ tồn tại ở cá biệt một số nhóm đối tượng nhưng trong thời gian gần đây, nó có xu hướng phát triển mạnh hơn. Nhiều người, đặc biệt là tầng lớp thanh niên coi đây như một thứ mode, một cách ăn chơi sành điệu. Thêm nữa, tệ nạn mại dâm nam đã từng không ít lần gây đau đầu cho các nhà quản lý. ở Hà Nội, trong thời gian vừa qua không ít lần báo chí đã phải đề cập đến những tụ điểm tụ tập của giới đồng tính ngay tại những nơi vui chơi giải trí công cộng. Không chỉ là một hiện tượng lạ, một loại bệnh lý, đồng tính luyến ái ở Việt Nam được coi như sự đi xuống về đạo đức, trái với những giá trị văn hoá nước nhà. Việc giải quyết nó là một việc rất khó khăn bởi những người đồng tính luyến ái vẫn được coi như những thành viên trong xã hội, sự phát triển của họ gắn liền với sự phát triển của xã hội. Do vậy việc trước tiên của quá trình giải quyết hiện tượng này là tìm hiểu sự nhận thức và hiểu biết cũng như thái độ của người dân. ở đây, đề tài nghiên cứu tập trung vào nhóm sinh viên. Bởi đây là nhóm tiêu biểu cho thanh niên, đối tượng dễ bị ảnh hưởng bởi các hiện tượng xã hội mới lạ trong đó có đồng tính luyến ái. Sinh viên là những người làm chủ đất nước tương lai nên càng cần có sự hiểu biết để giải quyết, phòng ngừa và ngăn chặn hiện tượng này. 3. Mục tiêu nghiên cứu 3.1 Tìm hiểu nhận thức của nhóm sinh viên về bản chất cũng như những biểu hiện, nguyên nhân và đối tượng của hiện tượng đồng tính luyến ái. Từ đó làm rõ thái độ cũng như hành vi tương ứng của sinh viên. 3.2 Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức cũng như thái độ và hành vi của sinh viên 3.3 Tìm hiểu mức độ phổ biến của hiện tượng này qua sự đánh giá cuả sinh viên. 4. Đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu 4.1 Đối tượng nghiên cứu: Nhận thức của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái 4.2 Khách thể nghiên cứu: Sinh viên trường đại học KHXH-NV và trường đại học Tự Nhiên thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội. 4.3 Phạm vi và địa bàn nghiên cứu: - Địa bàn nghiên cứu Trường ĐH KHXH- NV và trường ĐH Tự nhiên - Phạm vi nghiên cứu: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên trường ĐH khxh-nv và trường đại học Tự Nhiên về hiện tượng đồng tính luyến ái cũng như thái độ, hành vi tương ứng. Đánh giá sự ảnh hưởng của yếu tố giới, nơi cư trú hiện nay, thành phần gia đình và nơi sống trước khi vào đại học với các yếu tố trên. Đề tài chỉ tập trung vào sự hiểu biết và đánh giá của sinh viên về hiện tượng này và khía cạnh xã hội mà không đi sâu vào khía cạnh khoa học. 4.4 Mẫu nghiên cứu: Mẫu nghiên cứu được lựa chọn gồm 200 sinh viên thuộc hai trường Khoa học xã hội- nhân văn và Khoa học Tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia. Cơ cấu mẫu như sau: - 50% sinh viên nam và 50% sinh viên nữ. - 50% sinh viên nông thôn và 50% sinh viên đô thị. - Tỷ lệ sinh viên có nơi cư trú là ký túc xá, nhà trọ và gia đình tồn tại ngẫu nhiên. - Tỷ lệ sinh viên thuộc loại hình gia đình công nhân viên chức, buôn bán, nghề nông và nhóm nghề khác tồn tại ngẫu nhiên. Cơ cấu mẫu điều tra Tiêu chí Đặc điểm Số lượng % Giới tính Nam 100 50% Nữ 100 50% Nơi cư trú Ký túc xá 54 27% Gia đình 72 36% Nhà trọ 74 37% Nơi sống trước khi vào đại học Đô thị 100 50% Nông thôn 100 50% Thành phần gia đình Công nhân - viên chức 117 58.5% Buôn bán 20 10% Nghề nông 41 20.5% Nghề khác 22 11% 5. Phương pháp nghiên cứu 5.1 Phương pháp luận: Trong luận văn, người viết sử dụng hệ phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhằm xem xét vấn đề nghiên cứu dưới góc độ khoa học. 5.2 Phương pháp cụ thể: 5.2.1 Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi: Chúng tôi đã phát 200 bảng hỏi chia đều cho hai nhóm sinh viên thuộc ĐH Khoa học xã hội - nhân văn và ĐH Tự nhiên. Bảng hỏi được xây dựng gồm 14 câu hỏi đóng và 1 câu hỏi mở nhằm tìm hiểu về : - Đặc điểm cá nhân của sinh viên như giới tính, nơi cư trú hiện nay, nơi sống trước khi vào đại học và nghề nghiệp của bố mẹ. - Nhận thức của họ về hiện tượng đồng tính luyến ái. - Mức độ phổ biến về hiện tượng này qua sự đánh giá của sinh viên. - Thái độ của sinh viên đối với hiện tượng đồng tính luyến ái và người đồng tính luyến ái. 5.2.2 Phương pháp phỏng vấn sâu Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi nêu trên có thể đem lại những thông tin định lượng có tính khái quát. Để tìm hiểu thêm những thông tin định tính chi tiết và sâu sắc hơn, tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 10 sinh viên của hai trường nhằm hiểu rõ hơn bản chất của vấn đề và phát hiện những khía cạnh mới mẻ và sâu sắc về vấn đề nghiên cứu. 5.2.3 Phương pháp phân tích tài liệu: Luận văn có sử dụng một số tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm thu được những thông tin có tính khách quan và khoa học. 6. Giả thuyết nghiên cứu: 6.1 Đồng tính luyến ái là một hiện tượng rất phức tạp của xã hội hiện nay và đã được đa số sinh viên biết đến. 6.2 Sinh viên có những hiểu biết tương đối về nguyên nhân, bản chất, biểu hiện cũng như đối tượng của hiện tượng này. Từ nhận thức, họ có thái độ và quan điểm đánh giá tương ứng. 6.3 Nhận thức cũng như thái độ, hành vi của nhóm sinh viên đối với hiện tượng này chịu sự chi phối của yếu tố kinh tế-văn hoá- xã hội, giới, nơi cư trú hiện nay, thành phần gia đình, nơi sống trước khi vào đại học. 7. Khung lý thuyết: Điều kiện kinh tế-văn hoá-xã hội Đặc điểm cá nhân của sinh viên Nhận thức của sinh viên về hiện tượng đồng tính luyến ái: - Nguyên nhân - Biểu hiện - Đối tượng - Bản chất Thái độ Hành vi Nội dung chính Chương 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài Cơ sở lý luận 1. Tổng quan về hiện tượng đồng tính luyến ái trên thế giới và ở Việt Nam và xu hướng giải quyết Hiện tượng đồng tính luyến ái đã xuất hiện từ lâu trên thế giới cùng với sự phát triển của con người. Như ở ấn Độ, vào độ tuổi vị thành niên, những chàng trai phải trở thành một giới thứ ba tức là yêu và sống chung với một người cùng giới như một dạng hôn nhân thử nghiệm. Sau giai đoạn đó họ lại yêu và lấy một người phụ nữ như bình thường. Hoặc ở Châu Phi, có trường hợp một người nam hay một người nữ có thể yêu một người cùng giới với mình trong một thời gian. Điều này là do yếu tố văn hóa của bộ tộc chi phối. Tuy nhiên hiện tượng chỉ dừng lại ở mức tồn tại trong một thời điểm hay một nền văn hoá riêng biệt chứ không mang tính công khai hay chính thức. Đồng tính luyến ái dù ở bất kỳ châu lục nào hay nền văn hóa nào cũng đều bị coi là một hiện tượng bất bình thường. ở châu Âu và Hoa Kỳ, những năm cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX là thời kỳ của những phong trào" giải phóng" của người đồng tính luyến ái, đấu tranh đòi quyền bình đẳng trong xã hội cũng như vượt qua những sự chỉ trích của cộng đồng. Đây cũng là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất của phong trào nữ quyền. Và dường như cũng đã có một sự thay đổi trong mức độ cởi mở khi bàn luận về đồng tính luyến ái cũng như sự đồng cảm đã tăng lên với những người thuộc giới thứ ba này. Tuy nhiên, liệu đồng tính luyến ái có thể đi vào cuộc sống như một hiện tượng bình thường được không và cộng đồng có chấp nhận sự bình đẳng của họ không khi gia đình vẫn thực sự là nền tảng của xã hội. Trên thực tế, người đồng tính luyến ái vấp phải rất nhiều khó khăn khi công khai giới tính của mình như bị khinh rẻ, bị đối xử bất bình đẳng và thậm chí bị đánh đập hay bị giết hại. Phong trào đòi quyền bình đẳng của người đồng tính luyến ái (Nguồn: Sociology of marriage and the family. Scott Coltrane/ Randall Collins) Theo một số nghiên cứu thì người đồng tính luyến ái chiếm khoảng từ 1 đến 12 % dân số thế giới. ở Hoa Kỳ con số này là trên 1% dân số. ở Trung Quốc có khoảng từ 36 đến 48 triệu người đồng tính luyến ái. Còn ở Việt Nam chưa có con số thống kê chính xác nhưng theo các nhà khoa học thì tỷ lệ người đồng tính luyến ái chiếm khoảng 1 % dân số. Xét theo số lượng thì con số trên không lớn nhưng những vấn đề xung quanh nhóm đối tượng này đã làm đau đầu những nhà quản lý văn hóa và xã hội. Bởi đồng tính luyến ái không chỉ là một căn bệnh mà nhiều khi là một lối sống thiếu lành mạnh gây hại cho văn hoá và là một nguy cơ chủ yếu dẫn tới sự gia tăng của bệnh HIV/ AIDS. ở Việt Nam, tệ nạn mại dâm đồng giới và đặc biệt là mại dâm nam đã manh nha phát triển. Một số báo chí trong thời gian gần đây đã thường xuyên đề cập đến hiện tượng này như báo An ninh thế giới( số 281- ngày 30/5/2002) đưa tin về một địa điểm tụ tập của giới đồng tính ngay giữa thành phố Hồ Chí Minh - rạp chiếu phim Đồng Khởi- quận 1. Loại tệ nạn xã hội này không những gây hại cho sự phát triển lành mạnh về mặt thể chất của xã hội mà sự tồn tại của nó còn ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục, lối sống của cộng đồng. Đặc biệt là một số sinh viên nam đã chấp nhận việc này để kiếm tiền như trên báo chí đã đăng tải. Chính vì vậy các quốc gia trên thế giới và cả Việt Nam đã và đang tìm hiểu và giải quyết vấn đề này. ở Hà Lan và một bang ở Hoa Kỳ đã có đạo luật cho phép người đồng tính luyến ái kết hôn. Hay Trung Quốc năm 1996 đã đồng ý với Tổ chức y tế thế giới không coi đây là một chứng bệnh, gạch tên nó trong danh sách các chứng rối loạn tâm thần. Việt Nam cũng đã có một số biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề này như kiên quyết xử lý tệ nạn mại dâm nam hay đưa lên phương tiện thông tin đại chúng coi đồng tính luyến ái như một lối sống lệch lạc. Nhìn chung dư luận xã hội đều không đồng tình và muốn ngăn chặn hiện tượng này. Tuy nhiên nếu đây là một lối sống lệch lạc, bệnh hoạn gây hại cho đạo đức cũng như sự phát triển của xã hội thì cách nhìn nhận và xử lý trên là hợp lý. Nhưng những trường hợp người đồng tính luyến ái là bẩm sinh và hoàn toàn muốn có một cuộc sống bình thường thì cũng đòi hỏi một sự cảm thông và giúp đỡ chân thành của cộng đồng. 2. Hệ khái niệm công cụ 2.1 Khái niệm sinh viên: Sinh viên theo từ gốc"student" trong tiếng Latinh là những người làm việc, học tập, tìm hiểu và khai thác tri thức. Theo nghĩa thông thường, sinh viên là người học tập ở bậc trung cấp, cao đẳng và đại học. 2.2 Khái niệm giới tính: Là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng sinh học của nam và nữ. Những đặc trưng sinh học dường như là bất biến và đó là cơ sở cho những chuẩn mực về vai trò giới sau này. Sự chuyển đổi giới tính có thể do sinh học, văn hoá, kinh tế.. * Các đặc điểm của giới tính - Là đặc trưng sinh học quy định hoàn toàn bởi gien qua cơ chế di truyền. - Bẩm sinh. - Đồng nhất vì đây là sản phẩm của sự tiến hoá sinh học nên không phụ thuộc vào không gian và thời gian. 2.3 Khái niệm giới: Giới là khái niệm dùng để chỉ những mối quan hệ xã hội của nam và nữ. Khái niệm giới liên quan đến sự học hỏi hành vi xã hội và những trông đợi được tạo nên với hai giới tính. Giới là một sản phẩm của xã hội và liên quan đến quá trình xã hội hoá. * Các đặc điểm của giới: - Một phần vẫn bị quy định bởi yếu tố sinh học của giới tính. - Không mang tính di truyền, bẩm sinh mà được hình thành qua quá trình học tập, xã hội hoá cá nhân. - Đa dạng, phong phú về nội dung và hình thức do sự đa dạng của xã hội, nền văn hoá. - Có thể biến đổi. 2.4 Khái niệm bản sắc giới Bản sắc giới liên quan tới sự nhận thức của cá nhân về nam giới hay nữ giới. Nói cách khác, bản sắc giới là sự cảm nhận của cá nhân về giới của mình trong nền văn hoá. Bản sắc giới thường phù hợp với giới tính của cá nhân nhưng không phải trường hợp nào bản sắc giới cũng đồng nhất với giới tính của cá nhân đó. 2.5 Khái niệm vai trò giới - Vai trò xã hội là những mong đợi của xã hội đối với một cá nhân nào đó phù hợp với địa vị của anh ta. Quyền lợi và nghĩa vụ là hai thành tố quan trọng nhất của vai trò xã hội. - Vai trò giới: là những mong đợi của xã hội với một chàng trai hay một cô gái về những mô hình, hành vi ứng xử phù hợp với phụ nữ hay nam giới. Những vai trò của giới bao gồm: - Vai trò sản xuất: là những hoạt động do đàn ông hay phụ nữ thực hiện( theo quan niệm truyền thống chủ yếu là nam giới) nhằm tạo ra của cải vật chất xã hội, hàng hoá dịch vụ để sử dụng trao đổi. - Vai trò tái sản xuất: là những hoạt động cần thiết đảm bảo tái sản xuất ra con người - lực lượng sản xuất. Những vai trò tái sản xuất bao gômg: sinh con, nuôi con, chăm sóc các thành viên trong gia đình đặc biệt là người già và trẻ em. Theo quan niệm truyền thống, vai trò này chủ yếu do phụ nữ đảm nhận. - Vai trò cộng đồng: là hoạt động diễn ra ở cộng đồng như làng xã, thôn bản nhằm duy trì ổn định quan hệ xã hội trong cộng đồng đó. Theo quan niệm truyền thống, vai trò này phụ nữ ít tham gia. 2.6 Khái niệm đồng tính luyến ái * Phân biệt một số thuật ngữ - Heterosexual - Dị tính ái( gốc từ Hy Lạp - heteros): dùng để chỉ những người có quan hệ tình dục với người khác giới. - Bisexual - dùng để chỉ những người có quan hệ tình dục với cả hai giới ( gốc từ bi - hai). - Transgenderist- dùng để chỉ những người có hành vi khác với giới của mình. Như nam giới nhưng lại có cách phục trang, ứng xử, phong cách như nữ giới và ngược lại. - Transsexual - xuyên giới tính: dùng để chỉ những người sống hoàn toàn khác với giới "trời cho" của mình. - Lưỡng giới - dùng để chỉ những người bẩm sinh có cả hai cơ quan sinh dục nam và nữ và mang trong mình những yếu tố gen, hoócmôn của cả hai giới. Đến một thời điểm nào đó do sự phát triển của cơ thể và đôi khi là do sức ép từ môi trường bên ngoài (gia đình, xã hội) bắt buộc họ phải có sự lựa chọn một giới tính và giới. Từ điển Bách Khoa Việt Nam tập 1 đã đưa ra định nghĩa về đồng tính luyến ái như sau:" Là quan hệ luyến ái, tình dục giữa những người cùng giới tính, đều có bộ phận sinh dục phát triển bình thường. Trên thực tế thường gặp đồng tính luyến ái giữa nam với nam, ít gặp ở nữ hơn. Đồng tính luyến ái tồn tại từ lâu ở các nước phương Tây, có nơi chấp nhận như hợp pháp. Gần đây, được dư luận xã hội chú ý vì là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây lan tràn AIDS (hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải)". Homosexual (gốc từ Hy Lạp homos - cùng) là thuật ngữ dùng để chỉ những người đồng tính luyến ái - những người chỉ quan hệ tình dục với những người cùng giới với mình. Hiện tượng đồng tính luyến ái hay còn gọi là tình dục đồng giới là sự hấp dẫn tình cảm và tình dục giữa những người cùng giới - nam với nam, nữ với nữ. Những người đồng tính luyến ái nam trong tiếng Anh được gọi là gay. Còn những người đồng tính luyến ái nữ là lesbian. * Khía cạnh bệnh lý, sinh học: Về khía cạnh bệnh lý, có rất nhiều giả thuyết đưa ra nhưng những nhà khoa học dường như đều nhất trí rằng đồng tính luyến ái là bẩm sinh chứ không phải mắc phải. Người đồng tính luyến ái chẳng có gì khác so với người bình thường ngoại trừ những lệch lạc về định hướng tình dục. Các nhà bệnh lý học tâm thần xếp người đồng tính luyến ái vào nhóm lệch lạc đối tượng trong các bệnh lệch lạc tình dục. Họ được coi là "thiểu số tình dục". Là một loại bệnh tâm thần, đồng tính luyến ái cần hội tụ 3 điều kiện: - Có tính chất cưỡng chế, dù có ý thức hay không, họ cũng không thể cưỡng lại được. - Chủ yếu ở nam giới(nhưng hiện nay cũng đã có xuất hiện nhiều ở giới nữ). - Xuất hiện sau tuổi trưởng thành. * Khía cạnh tâm lý: Ngoại trừ nhóm người đồng tính luyến ái do yếu tố bẩm sinh thì một số lượng không nhỏ trong nhóm đối tượng này có biểu hiện đồng tính luyến ái do những nguyên nhân về tâm lý. - Thứ nhất, đó là do cách giáo dục của gia đình không phù hợp, lệch lạc. Một gia đình quá hà khắc và gia trưởng hay cách sống không lành mạnh có thể dẫn đến những tổn thương về tâm lý trong đứa trẻ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nhân cách và giới của đứa trẻ khi trưởng thành. Và đặc biệt là nội dung, cách thức giáo dục giới tính trong gia đình còn chưa được quan tâm đến một cách đúng đắn. - Thứ hai, đó là sự lạm dụng tình dục với trẻ em, đặc biệt là của người cùng giới với chúng. Điều này tạo nên một trạng thái ám ảnh suốt thời thơ ấu. Và khi trưởng thành, nó có thể trở thành một nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đồng tính luyến ái. * Khía cạnh cá nhân và xã hội: Theo các nhà nghiên cứu hầu hết các hiện tượng đồng tính luyến ái mà người ta ngộ nhận thường do yếu tố môi trường, bản thân chứ ít khi là do bẩm sinh. - Thứ nhất : do sự tò mò của bản thân. Hiện tượng này phổ biến ở lứa tuổi thanh niên, khi hiểu biết còn chưa đầy đủ nhưng lại dễ bị cuốn hút bởi những điều mới lạ. - Thứ hai: do sự lôi kéo hoặc đua đòi. Dư luận xã hội về vấn đề này càng được mở rộng càng làm nảy sinh một số lượng người đồng tính luyến ái "dởm", a dua theo bạn bè. Họ coi đây là một thứ "mode" chứ không phải do bản chất. Và cũng không ít những trường hợp những người bình thường tự biến mình thành người đồng tính luyến ái vì lợi ích kinh tế hay những lợi ích khác. - Thứ ba: do ảnh hưởng của luồng văn hoá nước ngoài. Nước ta từ khi mở cửa, giao lưu kinh tế đồng thời cũng bắt buộc phải " giao lưu" với những luồng văn hóa nước ngoài mà không ít trong số đó kém lành mạnh, đi ngược lại với những quan niệm, thuần phong mỹ tục vốn có. Sự ảnh hưởng của văn hoá có thể nhìn nhận rõ ràng qua cách sống, cách tiêu dùng văn hoá của người dân đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Văn hóa nước ngoài với cái nhìn khá "thoáng" về các vấn đề giới tính hay tình dục dễ dàng ảnh hưởng đến nhóm đối tượng còn chưa có nhiều hiểu biết và năng lực đánh giá này. * Khía cạnh xã hội học: Với cách tiếp cận xã hội học thì đồng tính luyến ái có thể được coi là một hiện tượng lệch chuẩn. Bởi lối sống của người đồng tính luyến ái đi ngược lại với những quan niệm đạo đức xã hội cũng như luật pháp của một số nước, nghĩa là trái với những chuẩn mực tồn tại trong xã hội. Durkhiem trong cuốn "Các quy tắc của phương pháp nghiên cứu xã hội học" đã đưa ra quan điểm: sai lệch là tiền đề của biến đổi xã hội. Hiện tượng đồng tính luyến ái đã tạo ra những thay đổi trong quan niệm của một số nước như chấp nhận họ như những người bình thường, một giới tính thứ ba. Hà Lan và một bang của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã cho phép người đồng tính luyến ái được kết hôn, nghĩa là đã có sự chấp nhận của luật pháp. 2.7 Khái niệm lệch chuẩn: * Chuẩn mực là tổng số những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc của xã hội được ghi nhận bằng lời, bằng ký hiệu hay bằng các biểu trưng cho hướng cơ bản đối với các hành vi của thành viên trong xã hội. Những mong đợi, những yêu cầu, những quy tắc xã hội đó xác định rõ cho mọi người những việc nào nên làm và cần phải xử sự như thế nào cho đúng trong các tình huống xã hội khác nhau. Chuẩn mực thực hiện chức năng liên kết điều chỉnh, duy trì quá trình hoạt động của xã hội như là hệ thống của các mối quan hệ tác động lẫn nhau của các cá nhân. Phạm vi của chuẩn mực là rất rộng. Trong cuốn" Những quy tắc của phương pháp xã hội học",E .Durkhiem đưa ra quy tắc đòi hỏi nhà nghiên cứu xã hội học phải phân biệt được cái chuẩn mực, cái "bình thường" với các dị biệt, cái " không bình thường" vì mục tiêu sâu xa của khoa học xã hội học là tạo dựng và chỉ ra được những gì là mẫu mực, tốt lành cho cuộc sống của con người. Theo Durkhiem thì những cái bình thường, cái chuẩn mực là cái thường gặp, cái chung, cái trung bình, cái điển hình của xã hội. Những gì lệch chuẩn là dị biệt, không bình thường. Với cách nhìn như vậy đồng tính luyến ái chính là một hiện tượng lệch chuẩn bởi nó chỉ là một hiện tượng của một nhóm nhỏ trong xã hội, một lối sống khác thường. 3. Các hướng tiếp cận lý thuyết 3.1 Lý thuyết xã hội hoá vai trò giới R. Stark đưa ra luận điểm " Xã hội hoá là quá trình cá nhân học đóng vai trò xã hội của mình". Do vậy xã hội hoá vai trò giới có thể hiểu là quá trình nam và nữ học hỏi cách đóng vai trò xã hội phù hợp với giới của mình: p

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4.doc
Tài liệu liên quan