Đề tài Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay

Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải một số vấn đề lý

luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt

Nam hiện nay. Những vấn đề đó là: 1. Khái niệm công bằng xã hội,

những điểm tương đồng và khác biệt giữa nó và khái niệm bình đẳng

xã hội; 2. Công bằng xã hội theo chiều dọc và công bằng xã hội theo

chiều ngang; 3. Công bằng về cơ hội và bình đẳng về cơ hội; vai trò

của trình độ phát triển kinh tế trong việc thực hiện công bằng xã hội;

4. Phân phối theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh tế; 5. Phân

phối theo cống hiến cho xã hội; 6. Công bằng xã hội và tăng trưởng

kinh tế; 7. Vấn đề thực hiện công bằng xã hội và bình đẳng xã hội.

Công bằng xã hội là một trong năm thành tố của mục tiêu chung mà

chúng ta đang phấn đấu để đạt tới trên con đường xây dựng một

nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,

văn minh”. Nhưng công bằng xã hội là gì? Những vấn đề gì đang đặt

ra trong quá trình thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay?

Để trả lời được những câu hỏi đó, cần làm rõ hàng loạt vấn đề lý

luận và thực tiễn cấp bách xoay quanh chủ đề công bằng xã hội.

pdf15 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Đề tài Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu triết học Đề tài: " MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XUNG QUANH VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY " MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XUNG QUANH VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LÊ HỮU TẦNG (*) Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay. Những vấn đề đó là: 1. Khái niệm công bằng xã hội, những điểm tương đồng và khác biệt giữa nó và khái niệm bình đẳng xã hội; 2. Công bằng xã hội theo chiều dọc và công bằng xã hội theo chiều ngang; 3. Công bằng về cơ hội và bình đẳng về cơ hội; vai trò của trình độ phát triển kinh tế trong việc thực hiện công bằng xã hội; 4. Phân phối theo kết quả lao động và theo hiệu quả kinh tế; 5. Phân phối theo cống hiến cho xã hội; 6. Công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế; 7. Vấn đề thực hiện công bằng xã hội và bình đẳng xã hội. Công bằng xã hội là một trong năm thành tố của mục tiêu chung mà chúng ta đang phấn đấu để đạt tới trên con đường xây dựng một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Nhưng công bằng xã hội là gì? Những vấn đề gì đang đặt ra trong quá trình thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay? Để trả lời được những câu hỏi đó, cần làm rõ hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách xoay quanh chủ đề công bằng xã hội. Trong phạm vi bài viết này, tôi chỉ xin đề cập đến một số trong hàng loạt vấn đề cấp bách ấy. Trước hết là bản thân khái niệm công bằng xã hội. Khái niệm này rất gần gũi với khái niệm bình đẳng xã hội và vì vậy, chúng rất dễ bị và thường bị đồng nhất với nhau. Chẳng hạn, có tác giả cho rằng: Trong những nước kém phát triển, nội dung quan trọng nhất của công bằng xã hội là công bằng về kinh tế. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, sự công bằng đó hàm nghĩa một sự “ngang nhau” nào đó về mức độ thỏa dụng trong tiêu dùng của các cá nhân. Khái niệm “công bằng xã hội” với nội hàm kinh tế như vậy có khuynh hướng coi công bằng tương đương (đồng nghĩa) với sự bình đẳng “cào bằng”. Một tác giả khác nêu ra năm tiêu chuẩn về sự công bằng: 1. Công bằng về cơ hội (được hiểu là sự bình đẳng trong việc tiếp cận với các cơ hội); 2. Được hưởng như nhau cho những đóng góp bằng nhau; 3. Công bằng về độ thỏa dụng; 4. Các quyền bình đẳng; 5. Xác định ưu tiên đối với việc cải thiện điều kiện ít thuận lợi nhất. Qua năm tiêu chuẩn này, ta thấy tác giả có lúc thì đồng nhất, có lúc thì tách biệt công bằng với bình đẳng, nhưng lại gộp chung các nội dung (các tiêu chuẩn) khác nhau ấy vào cùng một nội hàm được coi là của khái niệm công bằng xã hội. Sự lầm lẫn khi đồng nhất hai khái niệm này với nhau đã ảnh hưởng nhất định đến việc nhìn nhận những biến đổi đang diễn ra trong sự nghiệp đổi mới của chúng ta, đặc biệt là nhìn nhận hiện tượng phân tầng xã hội đang diễn ra với mức độ ngày càng tăng hiện nay. Sự thực thì hai khái niệm công bằng xã hội và bình đẳng xã hội tuy gần nhau nhưng dẫu sao, chúng vẫn là hai khái niệm khác nhau. Khi nói tới bình đẳng xã hội, người ta muốn nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về một phương diện xã hội nào đấy, chẳng hạn, về kinh tế, chính trị, văn hóa, v.v.. Còn khi nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người về mọi phuơng diện, tức là ta đã nói tới một sự bình đẳng xã hội hoàn toàn. Trong khi đó, công bằng xã hội cũng là một dạng (và chỉ là một dạng mà thôi) của bình đẳng xã hội, nhưng đó là sự bình đẳng, tức là sự ngang bằng nhau, giữa người với người không phải về mọi phương diện, cũng không phải về một phương diện bất kỳ, mà chỉ về một phương diện hoàn toàn xác định: phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Xét theo nghĩa vừa nói thì công bằng xã hội và bình đẳng xã hội có điểm chung, nhưng cũng có điểm khác nhau. Chẳng hạn, khi ta nói mọi người đều bình đẳng trước pháp luật thì điều đó có nghĩa là mọi người đều được đối xử ngang bằng nhau trước pháp luật, bất kể người đó là ai. Còn khi xét từng trường hợp cụ thể thì người làm nhiều sẽ được hưởng nhiều, người làm ít sẽ được hưởng ít, người có công sẽ được thưởng, người có tội sẽ bị phạt, công càng lớn thì mức thưởng càng lớn, tội càng nặng mức phạt sẽ càng nặng, v.v.. Một sự đối xử như vậy sẽ được coi là công bằng. Trong nội hàm của khái niệm công bằng vừa được trình bày, như ta có thể thấy, các khái niệm cống hiến và hưởng thụ ở đây được hiểu theo nghĩa rộng: chúng bao gồm không chỉ các khía cạnh tích cực như chúng ta vẫn quen dùng, mà cả khía cạnh tiêu cực nữa (như công, tội, thưởng, phạt, v.v.). Trong kinh tế học, người ta phân biệt hai khái niệm khác nhau về công bằng xã hội: công bằng xã hội theo chiều ngang nghĩa là đối xử như nhau đối với những người có đóng góp như nhau, còn công bằng xã hội theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau với những người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện sống khác nhau(1). Nếu nội hàm của khái niệm công bằng xã hội theo chiều ngang ở đây là rõ thì nội hàm của khái niệm công bằng xã hội theo chiều dọc lại không được rõ như vậy, vì “đối xử khác nhau với những người có các điều kiện sống khác nhau” thì mức khác nhau như thế nào sẽ được coi là công bằng? Thêm nữa, cùng một cách giải quyết cụ thể trong một trường hợp cụ thể nếu xét theo chiều ngang là công bằng, nhưng xét theo chiều dọc lại là không công bằng, và ngược lại. Chẳng hạn, việc cộng thêm điểm cư trú theo vùng vào kết quả thi đại học ở Việt Nam hiện nay, nếu xét theo chiều ngang là không công bằng, nhưng nếu xét theo chiều dọc thì lại được coi là công bằng. Vì vậy, không thể tán thành với ý kiến cho rằng “việc phân định và kết hợp công bằng theo chiều dọc và chiều ngang sẽ đảm bảo công bằng xã hội thực sự”. Ngược lại, theo chúng tôi, việc phân định và kết hợp công bằng như vậy sẽ thủ tiêu luôn vấn đề công bằng, khiến cho vấn đề ấy không còn cần phải xem xét nữa, vì ở khắp nơi, tất cả đều hoặc là công bằng, hoặc là không công bằng tuỳ thuộc vào các góc độ xem xét khác nhau. Gắn liền với vấn đề này, trong những năm gần đây, những người nghiên cứu ở Việt Nam ngày càng quan tâm đến vấn đề công bằng về cơ hội. Thậm chí, có tác giả còn đánh giá rằng, trong tư duy phát triển hiện đại, công bằng về cơ hội phát triển là nội dung bao trùm của công bằng xã hội. Theo tác giả đó, trong trường hợp này, nội hàm của khái niệm công bằng xã hội sẽ phải bao hàm sự công bằng trong việc phân phối các cơ hội và điều kiện thực hiện cơ hội. Nhưng thế nào là “công bằng trong việc phân phối các cơ hội và điều kiện thực hiện cơ hội”? Khái niệm công bằng ở đây không được giải thích nên không rõ phải làm thế nào? Chẳng hạn, thế nào là công bằng trong việc phân phối tư liệu sản xuất? Ở đây, khái niệm công bằng có thể có ít nhất có 4 cách hiểu khác nhau: chia đều theo đơn vị hành chính (chia đều cho 64 tỉnh, thành phố trong cả nước); chia theo mật độ dân số (nơi nào có mật độ dân số cao hơn sẽ được phân phối nhiều hơn); chia theo hiệu quả sản xuất kinh doanh (nơi nào có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn sẽ được phân phối nhiều hơn); chia theo hiệu quả kinh tế – xã hội (nơi nào đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn sẽ được phân phối nhiều hơn). Trong 4 cách trên đây, cách nào là công bằng? Do bản thân khái niệm công bằng không được giải thích nên nội hàm của khái niệm công bằng xã hội ở đây cũng không được giải thích. Hiện nay, khái niệm công bằng về cơ hội được các tác giả khác nhau biểu đạt bằng các cụm từ khác nhau, như: Công bằng về cơ hội; Tiếp cận công bằng với các cơ hội; Bình đẳng về cơ hội; Bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội; Tạo “cơ hội bình đẳng” cho các tầng lớp dân cư; v.v.. Rõ ràng, các cụm từ trên đây có nội hàm không hoàn toàn trùng nhau. Do vậy, nội hàm của các khái niệm công bằng về cơ hội hay bình đẳng về cơ hội có thể được hiểu hoặc giải thích một cách khác nhau. Theo chúng tôi, có lẽ nên thay khái niệm công bằng về cơ hội (vì không làm rõ được thế nào là công bằng trong trường hợp này) bằng khái niệm bình đẳng về cơ hội theo nghĩa bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội. Có thể coi bình đẳng về cơ hội là cách nói tắt của cụm từ bình đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội. Trong trường hợp đó, bình đẳng về cơ hội có vai trò gì trong việc thực hiện công bằng xã hội? Ở đây, khái niệm công bằng xã hội vẫn được hiểu theo nghĩa đã trình bày ở trên, nghĩa là những ai có cống hiến ngang nhau thì đều được hưởng thụ ngang nhau. Đó là “thước đo” của công bằng xã hội. Nhưng “thước đo” ấy chỉ “chuẩn xác” khi những người cống hiến này đều được xuất phát từ cùng một vạch, tức là từ cùng một mặt bằng trong việc tiếp cận các cơ hội. Điều đó có nghĩa là bình đẳng về cơ hội chính là tiền đề đảm bảo có công bằng xã hội thực sự. Ngoài bình đẳng về cơ hội, trình độ phát triển kinh tế có vai trò như thế nào trong việc thực hiện công bằng xã hội? Một số tác giả cho rằng, khi trình độ phát triển kinh tế còn thấp như ở Việt Nam hiện nay thì không thể thực hiện được công bằng xã hội. Số khác cho rằng, ít nhất cũng khó thực hiện. Theo chúng tôi, không hẳn như vậy, bởi vì cái chủ yếu của công bằng xã hội, như đã nói trên, chỉ có nghĩa là cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau. Theo nghĩa đó, không nhất thiết phải giàu có mới thực hiện được công bằng, hơn thế nữa, càng chưa giàu có, càng nghèo khó lại càng phải thực hiện công bằng nếu muốn tạo bầu không khí hoà thuận, tin yêu lẫn nhau, muốn giữ cho xã hội ổn định. Hồ Chí Minh đã từng căn dặn ngay trong những năm tháng khi cuộc sống còn hết sức thiếu thốn, gian khổ trong chiến tranh: Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên(2). Ngày nay, ở Việt Nam, người lao động sẵn sàng tạm thời chấp nhận sự chưa bình đẳng, nhưng không chấp nhận sự không công bằng, sẵn sàng chấp nhận những người có tài năng sống khá giả, còn những người kém cỏi sống nghèo hơn, nhưng không chấp nhận những kẻ buôn gian bán lận, tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, sống xa hoa, phè phỡn, còn những người lao động trung thực, cần mẫn lại sống trong nghèo khó, ngày đêm phải chật vật mưu sinh. Có thể nói, đây là một trong những “điểm nóng” nhất hiện nay. Giải quyết được nó trong lúc này sẽ có tác dụng tích cực tới tâm trạng của người lao động, thúc đẩy họ thêm phấn khởi hăng hái sản xuất, đảm bảo thực hiện đầy đủ hơn nguyên tắc công bằng xã hội. Tuy nhiên, bản thân nguyên tắc công bằng xã hội này và khả năng thực hiện nó cần được hiểu đúng. Trước hết, cần nhận xét rằng, công bằng xã hội không phải là một khái niệm bất di bất dịch. Nó mang tính tương đối và phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Tách khỏi hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà nói tới công bằng thì cái được coi là công bằng ấy có thể sẽ là không hợp lý và do đó, ít có khả năng trở thành hiện thực. Chẳng hạn, nếu trước đây, chúng ta coi phân phối theo lao động là tiêu chí duy nhất của sự công bằng (nhưng trên thực tế, trong thời kỳ trước đổi mới, lại thực hiện phân phối bình quân) thì ngày nay, trong quá trình đổi mới, với việc chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong khi vẫn coi việc thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, chúng ta đồng thời thực hiện phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Đây là một nguyên tắc phân phối khá công bằng, phù hợp với thực tiễn xây dựng đất nước Việt Nam hiện nay. Nói là khá công bằng vì theo chúng tôi, nguyên tắc phân phối ấy vẫn chưa tính đến một cách đầy đủ một đặc thù rất quan trọng của Việt Nam. Đó là, khác với nhiều nước, suốt mấy chục năm qua, nhân dân Việt Nam đã phải chiến đấu liên tục vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc. Trải qua cuộc chiến đấu ấy, rất nhiều người hoặc đã hy sinh, hoặc đã trở thành thương binh, bệnh binh. Họ còn rất ít, thậm chí không còn sức lao động nữa. Thêm vào đó, bản thân những con người ấy cùng gia đình họ, do đã cống hiến tất cả cho cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nay cũng chẳng có tài sản, tiền của gì đáng kể để có thể đóng góp vốn liếng cho sản xuất kinh doanh. Vì vậy, nếu giờ đây, chúng ta chỉ phân phối theo lao động và theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh thì họ là những người thiệt thòi nhất. Thực tế trong những năm qua, đây cũng là bộ phận dân cư có thu nhập thấp hơn cả và gặp nhiều khó khăn hơn cả. Thấu hiểu các khó khăn và tính đến các cống hiến đó, từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước chúng ta luôn luôn quan tâm đến những người có công với cách mạng, anh chị em thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng,…, coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là trách nhiệm của toàn dân, là sự “đền ơn đáp nghĩa”, “uống nước nhớ nguồn”. Cần phải nói rằng, có được chủ trương và chính sách trên đây là rất đáng quý, nhưng vẫn chưa đủ, vì bằng chính sách đó, chúng ta mới chỉ quan tâm đến những người thuộc diện chính sách từ phương diện đạo lý chứ chưa phải từ phương diện pháp lý, từ phương diện “đền ơn đáp nghĩa” chứ chưa phải từ phương diện quan hệ công bằng giữa cống hiến và hưởng thụ – một phương diện mà theo đó, những người mà chúng ta đang nói tới có quyền được hưởng một phần những thành quả của sự phát triển đất nước hôm nay vì những đóng góp hôm qua của họ, tạo tiền đề cho sự phát triển mà hôm nay chúng ta đang có. Vì vậy, để thực hiện đầy đủ hơn công bằng xã hội hiện nay ở Việt Nam, theo chúng tôi, cần mở rộng nguyên tắc phân phối theo lao động và theo mức đóng góp vốn vào sản xuất kinh doanh hiện nay thành nguyên tắc phân phối theo cống hiến (cả về lao động, nguồn vốn cùng mọi cống hiến khác) cho xã hội nói chung chứ không phải chỉ cho sản xuất, mặc dầu cống hiến cho sản xuất vẫn là chủ yếu. Có như vậy mới có thể coi là công bằng. Ngay trong phân phối theo lao động và mức vốn góp, tiêu chí của sự công bằng cũng không nên tuyệt đối hoá. Tiêu chí ấy cũng mang tính tương đối và nó được xác lập qua kiểm nghiệm trong thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn, trong hệ thống thang bậc lương chính thức của Nhà nước Việt Nam được thiết lập năm 1985 thì sự chênh lệch giữa mức lương cao nhất và mức lương thấp nhất là 3,5 lần, được thiết lập năm 1993 là 10 lần, còn được thiết lập năm 2004 là 13 lần. Trong khi đó, ở một số nơi, ví dụ ở xí nghiệp liên doanh MEKO (Hậu Giang), mức chênh lệch thu nhập giữa giám đốc và công nhân lên tới 150 lần(3), hoặc tại một xí nghiệp liên doanh ở Hà Nội, mức chênh lệch đó vào quãng 350 lần(4). Trong dịp tết Đinh Hợi (tháng 2 - 2007) mới đây, tiền thưởng và tiền lương ở các ngành và các vùng có sự giãn cách lớn, mức cao nhất là trên 124 triệu đồng, mức thấp nhất là 700.000 đồng(5). Trong tất cả các trường hợp trên đây, cái nào là hợp lý, cái nào là không hợp lý? Câu trả lời thật không đơn giản! Sự công bằng hay không công bằng ở đây cần được xem xét rất cụ thể và có lẽ, bên cạnh sự sàng lọc của thị trường, chúng cần được xem xét căn cứ vào hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị, vào kết quả tác động tích cực hay tiêu cực của mỗi trường hợp phân phối tới nhiệt tình của người lao động và tới bầu không khí chung của tập thể. Ngoài ra, trong bước quá độ từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường, cũng không nên và không thể đòi hỏi thực hiện cho được một sự công bằng tuyệt đối, chính xác ngay lập tức, đòi hỏi xoá bỏ ngay trong một thời gian ngắn mọi sự không công bằng hiện vẫn còn tồn tại. Đó là vì bản thân cơ chế bao cấp đã chứa đựng trong nó nhiều điều bất hợp lý và những bất hợp lý ấy đã được tích tụ lại quá nhiều trong thời gian quá dài. Nay nếu muốn khắc phục điều bất hợp lý này thì sẽ lập tức nảy sinh điều bất hợp lý khác, khắc phục sự không công bằng này thì sẽ lập tức làm nảy sinh sự không công bằng khác. Chính vì thế, không thể khắc phục tất cả ngay một lúc! Sự công bằng tuyệt đối ấy chỉ có thể đạt được dần dần trên con đường cũng không phải là ngắn ngủi tiến tới chỗ đạt được công bằng hoàn toàn. Việc thực hiện nguyên tắc công bằng này sẽ tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế? Một số tác giả cho rằng, công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế là hai mục tiêu không tương dung nhau trong sự vận động và phát triển của xã hội. Theo quan điểm đó, nếu nhấn mạnh thực hiện công bằng xã hội thì sẽ làm tổn hại tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế thì sẽ làm tổn hại công bằng xã hội. Theo chúng tôi, quan điểm đó là đúng nếu công bằng xã hội được hiểu theo nghĩa đồng nhất hoàn toàn với bình đẳng xã hội. Còn quan điểm đó sẽ là không đúng nếu công bằng xã hội được hiểu theo nghĩa là sự ngang bằng nhau giữa người với người chỉ trong mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ và được thực hiện theo nguyên tắc phân phối theo cống hiến như đã nói trên. Vì sao vậy? Vì nguyên tắc phân phối theo cống hiến buộc phải tính đến mọi cống hiến của mọi tầng lớp dân cư vào việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Ai đã có cống hiến thì tuỳ theo mức độ cống hiến mà được hưởng quyền lợi tương ứng, không ai bị thiệt thòi. Vì vậy, nguyên tắc phân phối trên đây là nguyên tắc rất công bằng, có tác dụng cuốn hút mọi người hăng hái góp công, góp của vào sự phát triển của đất nước nói chung, vào sự sản xuất kinh doanh nói riêng và nhờ đó, dẫn đến tăng trưởng kinh tế. Nói cách khác, chính nguyên tắc phân phối công bằng trên đây đã có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Nó đi cùng chiều với tăng trưởng kinh tế chứ không phải là ngược lại. Như vậy, trong mối quan hệ giữa công bằng xã hội và tăng trưởng kinh tế thì công bằng xã hội chính là động lực của tăng trưởng kinh tế. Càng thực hiện tốt công bằng xã hội bao nhiêu thì càng gia tăng sự tăng trưởng kinh tế bấy nhiêu. Tuy nhiên, sự thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo cống hiến trên đây lại dẫn đến một hậu quả khác khiến không ít người lo ngại, đó là sự phân cực ngày càng gia tăng giữa giàu và nghèo trên phạm vi toàn quốc. Một số người cho rằng, như vậy là công bằng xã hội đã bị vi phạm nghiêm trọng, rằng chủ nghĩa xã hội đang bị xói mòn. Liệu có thể tán thành với những nhận định như vậy được không? Theo chúng tôi, không! Vì sao? Vì: - Thứ nhất, kết quả của hàng loạt cuộc khảo sát mức sống dân cư với quy mô lớn từ năm 1992 đến nay cho thấy, sự phân biệt giàu, nghèo ở đây là sự phân biệt tương đối chứ không phải là tuyệt đối. Nghèo ở đây là nghèo so với giàu chứ không phải so với thời kỳ trước đổi mới. Nếu so với thời kỳ trước đổi mới thì mức sống của mọi người hiện nay, kể cả người giàu và người nghèo, đều được tăng lên đáng kể(6); không chỉ số hộ giàu và mức giàu tăng lên, mà cả số hộ nghèo và mức nghèo cũng giảm đi chứ không phải như có người nói là người giàu thì ngày càng giàu thêm, còn người nghèo ngày càng nghèo đi. - Thứ hai, loại trừ những kẻ giàu lên nhanh chóng bằng những thủ đoạn bất hợp pháp, như tham nhũng, buôn lậu, đặc quyền đặc lợi, làm ăn gian dối, lừa đảo,v.v., còn thì cả hộ giàu và hộ nghèo đều tạo ra thu nhập trước hết và chủ yếu bằng sức lao động và năng lực của chính mình, trong đó hộ nào có điều kiện hơn, có nhiều vốn liếng hơn, nhiều sức lao động hơn, có kinh nghiệm và tài năng sản xuất kinh doanh hơn, hộ ấy sẽ giàu hơn hoặc giàu nhanh hơn, còn ngược lại thì sẽ nghèo hơn hoặc “giàu” chậm hơn. Như vậy, sự phân hoá giàu nghèo ở đây không phải là biểu hiện của sự vi phạm công bằng xã hội, mà lại chính là biểu hiện của việc công bằng xã hội đang được lập lại: ai làm tốt, làm giỏi, làm nhiều, đóng góp vốn liếng nhiều,… thì được hưởng nhiều; còn ai làm kém, làm dở, làm ít, đóng góp vốn liếng ít,… thì được hưởng ít. Khẳng định trên đây đồng thời cũng có nghĩa là khẳng định rằng, thực hiện được công bằng xã hội không có nghĩa là đã thực hiện được bình đẳng xã hội, nhất là thực hiện được bình đẳng xã hội hoàn toàn. Nói cách khác, trong khi thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng như đã nêu trên, chúng ta không những chưa loại trừ được, mà vẫn còn buộc phải chấp nhận một tình trạng bất bình đẳng xã hội nhất định do chỗ các cá nhân khác nhau, có hoàn cảnh khác nhau (chẳng hạn, người này khỏe hơn, người kia yếu hơn, người này nhiều con hơn, người kia ít con hơn, v.v.) nên với việc hoàn thành một công việc ngang nhau và do đó, được hưởng thù lao ngang nhau, trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu hơn người kia. Đấy là thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội như C.Mác đã khẳng định. Như vậy, bất bình đẳng xã hội là một hiện tượng mà chúng ta chưa thể xoá bỏ ngay một sớm một chiều. Không những thế, chúng ta còn phải tiếp tục “chung sống” với nó trong suốt thời gian rất lâu dài nữa. Vì thế, không thể nôn nóng, muốn xoá bỏ mọi sự bất bình đẳng xã hội ngay lập tức, mà chỉ có thể thực hiện mục tiêu cuối cùng đó dần dần. Trước mắt, theo chúng tôi, thực hiện công bằng xã hội vẫn là yêu cầu hàng đầu, vì đó chính là một trong những động lực mạnh mẽ nhất của sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự ổn định xã hội. Song, nói như thế không có nghĩa là nói rằng, chúng ta có thể chấp nhận để cho tình trạng bất bình đẳng xã hội gia tăng liên tục và mãi mãi; ngược lại, phải tìm mọi cách kiềm chế sự gia tăng ấy, hạn chế bớt mức độ bất bình đẳng để tiến tới dần dần xoá bỏ nó. Vì vậy, cùng với chủ trương tiếp tục khuyến khích các hộ làm giàu hợp pháp, Nhà nước chúng ta cũng đồng thời đang mở rộng và đẩy mạnh cuộc vận động xoá đói giảm nghèo khá hiệu quả được đề ra từ đầu những năm 90 đến nay, trong đó tập trung xoá đói ở nông thôn, giảm nghèo ở cả nông thôn lẫn thành thị. Bằng việc thực hiện các chính sách ấy, chúng ta đang tiếp tục thực hiện một cách có hiệu quả một phần của yêu cầu “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay./. (*) Giáo sư, tiến sĩ, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam. (1) Xem: Lê Bộ Lĩnh. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.15-16. (2) Xem: Hồ Chí Minh. Toàn tập, t.12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.185. (3) Xem: Tạp chí Cộng sản, số 11, 1991, tr.19. (4) Xem: Báo Lao động, ngày 14 - 3 - 1996. (5) Xem: Báo An ninh Thủ đô, ngày 1 - 2 - 2007. (6) Theo bản tin của CIT ngày 23/5/2007 thì ông Martin Rama, Q.Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, khẳng định khi WB trở lại Việt Nam năm 1993, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 170 USD/năm. Theo bản tin của Vnexpress, ngày 14 - 11 - 2006 thì trong bản báo cáo mới công bố, IMF nhận định thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam năm 2006 đạt 715 USD/năm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftriet_hoc_45__3164.pdf