Thế kỷ XX là thế kỷ của những biến động to lớn trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Thế kỷ XX là thế kỷ của những phát minh vĩ đại, của những cuộc chiến tranh lớn, của tự do, bình đẳng và của sự lớn mạnh, phát triển của nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Trong thế kỷ XX, những thành tựu khoa học được ứng dụng rộng rãi trong quá trình sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cao, thỏa mãn nhu cầu của con người về vật chất. Trong nông nghiệp, máy móc được đưa vào sử dụng, giải phóng sức lao động của con người. Các loại phân hóa học được sản xuất với số lượng lớn đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của nông nghiệp. Các hệ thống thủy lợi, giao thông vận tải, công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển mạnh mẽ đã rút ngắn thời gian vận chuyển hàng nông sản đến tay người tiêu dùng. Khái niệm “nông nghiệp công nghiệp hóa” xuất hiện.
Song “nông nghiệp công nghiệp hóa” cũng chứa đựng nhiều vấn đề cần được giải quyết, mà quan trọng và cấp bách hơn cả là vấn đề môi trường. Việc sử dụng quá nhiều phân hóa học, lạm dụng máy móc trong sản xuất, chủ quan trong chỉ đạo và thực hiện các kỹ thuật canh tác đã làm cho ruộng đất ngày càng xấu đi. Việc chặt phá rừng lấy gỗ sản xuất, lấy đất trồng cấy gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đã không còn là vấn đề của riêng ngành nào, của riêng quốc gia nào mà đã trở thành vấn đề chung của cả thế giới.
Vậy phải phát triển nông nghiệp như thế nào để vừa đạt năng suất cao vừa bảo vệ được môi trường là câu hỏi khó giải quyết của các nhà chính sách.
Thế giới đã có nhiều hội nghị thượng đỉnh bàn về vấn đề môi trường, phát triển, tương lai của nhân loại. Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro (Braxin), với 179 nước tham gia. Tại Hội nghị này, khái niệm về “phát triển bền vững” đã được chấp thuận một cách rộng rãi và các quốc gia đã thỏa thuận một chương trình nghị sự về phát triển bền vững cho thế kỷ XXI (gọi tắt là Agenda 21). Theo đó, phát triển bền vững là khai thác tốt các tài nguyên thiên nhiên để phục vụ lợi ích của thế hệ này mà không gây trở ngại cho các thế hệ mai sau, tất cả các ngành, các lĩnh vực của các nước tham dự đều cố gắng thực hiện đúng tinh thần của Hội nghị này. Và nông nghiệp không phải là ngoai lệ.
Trở lại vấn đề của Việt Nam, đang trong quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), phát triển nông nghiệp bền vững là một vấn đề rất khó khăn. Bởi muốn xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại ta cần có nhiều vốn, năng suất phải cao, phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ và phải có sự dư thừa lương thực thực phẩm. Song trên thực tế, nước ta còn rất nhiều hộ nghèo, cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn, chất lượng nông sản còn thấp. Không những thế, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang là xu thế của thế giới. Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó. Ngày 7-11-2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế WTO, mở ra nhiều cơ hội phát triển đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều khó khăn như sự cạnh tranh công bằng, hàng hóa nước ngoài giá rẻ, chất lượng tốt tràn ngập thị trường . tạo nhiều bất lợi cho sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững, phát huy những ưu điểm và hạn chế tối đa nhược điểm là xu thế chung của thế giới. Trong hoàn cảnh của nước ta đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải có định hướng và những chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành nông nghiệp.
ĐỀ TÀI: “Một số vấn đề lý luận và giải pháp trong xây dựng nông nghiệp bền vững ở VN”
79 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1072 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số vấn đề lý luận và giải pháp trong xây dựng nông nghiệp bền vững ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Thế kỷ XX là thế kỷ của những biến động to lớn trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Thế kỷ XX là thế kỷ của những phát minh vĩ đại, của những cuộc chiến tranh lớn, của tự do, bình đẳng và của sự lớn mạnh, phát triển của nhiều nền kinh tế trên thế giới.
Trong thế kỷ XX, những thành tựu khoa học được ứng dụng rộng rãi trong quá trình sản xuất, đem lại hiệu quả kinh tế cao, thỏa mãn nhu cầu của con người về vật chất. Trong nông nghiệp, máy móc được đưa vào sử dụng, giải phóng sức lao động của con người. Các loại phân hóa học được sản xuất với số lượng lớn đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh của nông nghiệp. Các hệ thống thủy lợi, giao thông vận tải, công nghiệp chế biến thực phẩm phát triển mạnh mẽ đã rút ngắn thời gian vận chuyển hàng nông sản đến tay người tiêu dùng. Khái niệm “nông nghiệp công nghiệp hóa” xuất hiện.
Song “nông nghiệp công nghiệp hóa” cũng chứa đựng nhiều vấn đề cần được giải quyết, mà quan trọng và cấp bách hơn cả là vấn đề môi trường. Việc sử dụng quá nhiều phân hóa học, lạm dụng máy móc trong sản xuất, chủ quan trong chỉ đạo và thực hiện các kỹ thuật canh tác đã làm cho ruộng đất ngày càng xấu đi. Việc chặt phá rừng lấy gỗ sản xuất, lấy đất trồng cấy gây nên những hậu quả nghiêm trọng, đã không còn là vấn đề của riêng ngành nào, của riêng quốc gia nào mà đã trở thành vấn đề chung của cả thế giới.
Vậy phải phát triển nông nghiệp như thế nào để vừa đạt năng suất cao vừa bảo vệ được môi trường là câu hỏi khó giải quyết của các nhà chính sách.
Thế giới đã có nhiều hội nghị thượng đỉnh bàn về vấn đề môi trường, phát triển, tương lai của nhân loại. Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển tại Rio de Janeiro (Braxin), với 179 nước tham gia. Tại Hội nghị này, khái niệm về “phát triển bền vững” đã được chấp thuận một cách rộng rãi và các quốc gia đã thỏa thuận một chương trình nghị sự về phát triển bền vững cho thế kỷ XXI (gọi tắt là Agenda 21). Theo đó, phát triển bền vững là khai thác tốt các tài nguyên thiên nhiên để phục vụ lợi ích của thế hệ này mà không gây trở ngại cho các thế hệ mai sau, tất cả các ngành, các lĩnh vực của các nước tham dự đều cố gắng thực hiện đúng tinh thần của Hội nghị này. Và nông nghiệp không phải là ngoai lệ.
Trở lại vấn đề của Việt Nam, đang trong quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH), phát triển nông nghiệp bền vững là một vấn đề rất khó khăn. Bởi muốn xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại ta cần có nhiều vốn, năng suất phải cao, phải có cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ và phải có sự dư thừa lương thực thực phẩm. Song trên thực tế, nước ta còn rất nhiều hộ nghèo, cơ sở vật chất kỹ thuật thiếu thốn, chất lượng nông sản còn thấp. Không những thế, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đang là xu thế của thế giới. Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế đó. Ngày 7-11-2006, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế WTO, mở ra nhiều cơ hội phát triển đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều khó khăn như sự cạnh tranh công bằng, hàng hóa nước ngoài giá rẻ, chất lượng tốt tràn ngập thị trường…. tạo nhiều bất lợi cho sản xuất trong nước, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển bền vững, phát huy những ưu điểm và hạn chế tối đa nhược điểm là xu thế chung của thế giới. Trong hoàn cảnh của nước ta đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần phải có định hướng và những chính sách phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành nông nghiệp.
ĐỀ TÀI: “Một số vấn đề lý luận và giải pháp trong xây dựng nông nghiệp bền vững ở VN”
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ XÂY DỰNG NỀN NÔNG NGHIỆP BỀN VỮNG
I – CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Bản chất của nền nông nghiệp bền vững:
1.1. Nông nghiệp công nghiệp hóa:
Với những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, ở các nước công nghiệp phát triển đã hình thành và phát triển một nền nông nghiệp mới hẳn so với trước: nền nông nghiệp công nghiệp hóa.
Nông nghiệp công nghiệp hóa là nền nông nghiệp của Mỹ, của nhiều nước Tây Âu và Nhật Bản; trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp tùy theo trình độ phát triển công nghiệp của từng nước. Nông nghiệp được công nghiệp hóa ở trình độ cao nhất là ở Mỹ, nước có công nghiệp phát triển vào loại hàng đầu thế giới. Mặc dù trình độ nông nghiệp công nghiệp hóa ở các nước có sự khác nhau nhưng tất cả các nền nông nghiệp công nghiệp hóa đều có một số đặc trưng chính sau đây:
1.1.1. Đặc trưng nổi bật của nông nghiệp công nghiệp hóa là sản xuất lớn. Sản xuất lớn với ưu thế của nó đã đè bẹp sản xuất nhỏ của chế độ phong kiến. Sản xuất lớn được thể hiện qua nhiều chỉ tiêu về quy mô của nông trại và tính chất của hàng hóa.
Ở Mỹ, trước những năm 50 của thế kỷ XX, quy mô nông trại trung bình là 100-150 acre. Đến năm 1959, quy mô này đã là 220-250 acre. Số lượng nông trại giảm dần theo quy luật các nông trại lớn sẽ thôn tính dần các nông trại bé hơn.
Bảng 1: Số nông trại của Mỹ qua các thời kỳ
Đơn vị : Triệu
Các thời kỳ
1935-1939
1945-1949
1950-1954
1955-1959
1960-1964
1980
1990
Số nông trại
6,8
5,9
5,6
4,6
3,9
>2
>1
Quy mô trung bình của các nông trại ở Mỹ khoảng hơn 200 ha, nhưng diện tích của các nông trại chuyên môn hóa dao động rất lớn: nông trại sản xuất trứng 4 ha, nông trại chăn nuôi gia cầm 45 ha, nông trại sản xuất sữa 68 ha, nông trại ngũ cốc 350 ha, nông trại chăn nuôi vùng Đông Bắc 560 ha và vùng Texas 4500 ha.
Pháp là một nước có nền nông nghiệp lâu đời, đất hoang hóa không nhiều, nhưng trang trại đã được mở rộng không ngừng. Đầu năm 1970 có 1,5 triệu nông trại và có nhà nông nghiệp hữu cơ đã tính toán rằng cứ 10 phút thì mất đi một nông trại, nên đến năm 1985 chỉ còn 25 vạn nông trại. Dân số nông nghiệp của Pháp cũng giảm từ 3 triệu xuống 60-70 vạn.
Đan Mạch là một nước nhỏ ở Bắc Âu, sau năm 1945 chỉ có khoảng 3,1 triệu ha đất nông nghiệp. Năm 1950 có 20 vạn nông trại lớn với 20 vạn công nhân nông nghiệp. Năm 1983, đất nông nghiệp chỉ còn 2,8 triệu ha với ngót 10 vạn nông trại và chỉ còn 2,4 vạn công nhân nông nghiệp. Hiện nay, số nông trại chuyên ở Đan Mạch còn ít: có 25% nông trại lợn và bò (năm 1950 trên 80%), 28% nông trại trồng ngũ cốc, củ cải đường, cây công nghiệp, khoai tây, cải dầu, còn các nông trại khác kinh doanh hỗn hợp. Đan Mạch sản xuất đủ cho nhu cầu nông sản trong nước và dành tới 2/3 nông sản để sản khẩu.
Quy mô nông trại chỉ là một chỉ tiêu của sản xuất lớn, chỉ tiêu quan trọng hơn là tính chất hàng hóa của sản phẩm. Có những trường hợp quy mô của trang trại nhỏ, chiếm ít diện tích nhưng lại là cơ sở kinh doanh rất lớn do sản phẩm có tính hàng hóa cao.
Trong nền nông nghiệp công nghiệp hóa, chủ trại sản xuất ra để bán trong nước hay xuất khẩu, chứ không phải để tự túc.
1.1.2.Nông nghiệp công nghiệp hóa sử dụng nhiều máy móc và vật tư nông nghiệp. Vào đầu thế kỷ XX, khi nghiên cứu về nông nghiệp tư bản chủ nghĩa ở Mỹ và một số nước châu Âu. Lênin đã phát hiện: những số liệu về chi phí, phân bón và máy móc là biểu hiện chính xác nhất của trình độ thâm canh trong nông nghiệp. Đến nay, tình hình nông nghiệp công nghiệp hóa đã diễn ra đúng quy luật ấy. Viện sĩ Nazarenkô (Liên Xô) đã kiểm điểm tình hình sử dụng phân khoáng và máy móc trong nông nghiệp đến đầu những năm 80 như sau: 1000 ha đất ở Mỹ có 33 máy kéo, Anh có 61, Pháp có 84, Italia có 105, Cộng hòa Liên bang Đức có 194, Mỹ dành 600 triệu sức ngựa cho nông nghiệp, bình quân một công nhân nông nghiệp ở nước này có 100 sức ngựa. Về phân khoáng tính theo NPK, ở Mỹ từ 42 kg năm 1960 cho một hécta đã tăng lên 120 kg/ha năm 1981, Anh và Pháp đạt 300 kg/ha, Cộng hòa Liên bang Đức 500 kg/ha, Bỉ 600 kg/ha và Hà Lan đạt hơn 800 kg/ha.
Bảng 2: Số lượng máy móc sử dụng trong nông nghiệp
của Niu Dilân(chiếc)
1979 – 1981
1991
1993
Máy kéo
91783
75000
76000
Máy liên hợp thu hoạch
4265
2950
3100
Máy vắt sữa
17147
1290
13000
Ngoài máy móc và phân khoáng là chủ yếu, hiện nay phải kể tới các loại thuốc phòng trừ sâu bệnh, các chất kích thích sinh trưởng, các thiết bị, các nhà kính v.v.. Đối với chăn nuôi công nghiệp hóa thì cần chuồng trại, thiết bị hiện đại, thức ăn tổng hợp, thuốc thú y. Người ta đã so sánh chi phí về chuồng trại, thiết bị để nuôi một trại bò sữa ở Đức bằng chi phí để xây dựng một căn hộ đầy đủ tiện nghi cho một người. Cả trồng trọt và chăn nuôi đều cần những giống tốt đã sản xuất ở những cơ sở chuyên môn hóa. H.D Virieu (Pháp) tính toán rằng muốn nông nghiệp công nghiệp hóa thì vốn cần cho một lao động nông nghiệp là 100.000 frăng trong khi vốn cần cho một lao động ngành dệt, cơ khí, công nghiệp chế biến chỉ là 20.000-30.000 frăng và trong ngành dầu khí là 50.000 frăng (tính theo giá giữa những năm 70 ở Pháp).
1.1.3.Năng suất cây trồng và chăn nuôi gia súc cao. Các nước công nghiệp phát triển có nền nông nghiệp hóa đều đạt năng suất cây trồng và chăn nuôi gia súc cao hơn nhiều so với mức bình quân của thế giới.
Đáng chú ý là nhiều loài cây có nguồn gốc nhiệt đới hay á nhiệt đới lại cho năng suất cao nhất ở các nước ôn đới có nền nông nghiệp công nghiệp hóa. Lúa nước châu Á, nguồn gốc ở Đông Nam Á hiện chỉ có năng suất 25-30 tạ/ha, lại cho năng suất cao nhất thế giới là 80 tạ/ha ở Australia trên diện tích 2 vạn ha hay ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ đều đã cho năng suất 55-60 tạ/ha trên diện tích hàng triệu hécta. Lúa mì nguồn gốc ở Trung Đông với năng suất khoảng 20-25 tạ/ha hiện nay đã có năng suất trên duới 50 tạ/ha ở Pháp, Anh, Hà Lan và năm 1984 đã đạt 64 tạ/ha ở Pháp. Khoai tây nguồn gốc ở vùng núi Andes (Nam Mỹ) cho năng suất cao nhất thế giới ở Mỹ và ở Hà Lan (28-30 tấn củ tươi/ha). Khoai lang nguồn gốc ở Trung Mỹ cho năng suất cao nhất ở Nhật Bản (22 tấn củ tươi/ha). Ngô nguồn gốc ở Mexico cho năng suất cao nhất ở Mỹ (73 tạ hạt/ha) và ở Pháp trên 60 tạ/ha. Đỗ tương nguồn gốc ở Trung Quốc cho năng suất cao nhất ở Mỹ (20 tạ/ha). Đối với các loài cốc khác như: mạch, đại mạch, tiểu mạch, kiều mạch… hay đối với củ cải đường, hướng dương và nhiều loại rau quả cũng đã cho năng suất cao ở các nước có nông nghiệp công nghiệp hóa.
Bảng 3: Năng suất một số sản phẩm nông nghiệp
của Pháp (tấn/ha)
1939
1950
1960
1980
1990
Lúa mì
1,52
1,9
2,4
5,0
6,4
Ngô
1,66
1,84
2,9
5,4
7,9
Khoai tây
11,0
13,6
15,3
28,4
36,6
Sữa
1,8
2,0
2,35
4,58
5,89
Đối với chăn nuôi cũng vậy. Một hécta đồng cỏ ở Hà Lan được bón đầy đủ phân khoáng (thường có liều lượng cao nhất ở đồng cỏ) cung cấp đủ cỏ tươi cho 2 bò sữa với thức ăn tổng hợp ăn kèm và sản xuất được 1 vạn kg sữa/năm. Trong khi ở châu Phi hay Nam Mỹ, trên những trảng cỏ khô cằn phải cần tới 10 ha cho một bò sữa mà sản lượng chỉ thu được 200kg sữa/năm/con.
1.1.4.Năng suất lao động sống cao. Với việc được trang bị đầy đủ máy móc và năng lượng, nông nghiệp công nghiệp hóa đã đạt năng suất lao động cao, hay rất cao.
Năm 1954, René Dumont đã tiến hành điều tra năng suất lao động nông nghiệp ở một số vùng trên thế giới. Kết quả điều tra cho thấy, một ngày công ở châu Á hay châu Phi sản xuất được từ 7-20kg hạt cốc, ở vùng Trung Âu 40-50kg hạt cốc, ở vùng Tây nước Pháp 120kg hạt cốc và ở vành đai ngô ở Mỹ 2000-4000 kg.
Năng suất lao động sống cao nhất là ở Mỹ. Chỉ cần 10-15 phút để sản xuất 1 tạ gạo, 15-20 phút để sản xuất 1 tạ ngô, 3 giờ để sản xuất 1 tạ thịt lợn, 2 giờ để sản xuất 1 tạ thịt bò, 1,5 giờ để sản xuất 1 tạ gà giò. Năng suất lao động cao trong nông nghiệp còn thể hiện ở tỷ lệ người tham gia lao động nông nghiệp trong nước. Trước đây, tỷ lệ này ở Mỹ là 3%, nay rút xuống còn 2%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp ở Đan Mạch cũng chỉ còn 6%, ở Pháp là 5%. Số lượng lao động nông nghiêp có xu thế giảm dần ở các nước có nông nghiệp công nghiệp hóa. Ngay cả NICs châu Á như Hàn Quốc và Đài Loan, tỷ lệ lao động nông nghiệp cũng chỉ còn 10-12%.
Bảng 4: Chi phí lao động cho 1 ha gieo trồng
một số cây trồng ở Mỹ
(giờ công/ha)
1910-1930
1935-1939
1963-1967
Ngô
86,9
67,7,
15
Lúa mì
37,5
21,7
7,2
Khoai tây
187,5
172,2
113,4
Bông
286
245
93,9
Thuốc lá
879,3
1025
1230
Cỏ khô
29,3
27,9
13,6
1.1.5.Nông nghiệp công nghiệp hóa tiêu tốn nhiều năng lượng. Máy móc, phân khoáng, thuốc trừ sâu bệnh… đều được sản xuất trong các nhà máy và các nhà máy này đều cần năng lượng để vận hành, chủ yếu là năng lượng của than đá, dầu khí (năng lượng hóa thạch).
Người ta có thể quy các “đầu vào” và “đầu ra” của nông nghiệp thành đơn vị năng lượng để xem xét tỷ lệ giữa đầu ra với đầu vào. Đơn vị năng lượng có thể biểu hiện bằng đơn vị nhiệt hay calo, hoặc bằng đơn vị công là jun. Xem xét như vậy sẽ thấy rõ nhược điểm của nông nghiệp công nghiệp hóa đã sử dụng quá nhiều năng lượng, và khi sử dụng quá nhiều năng lượng sẽ không có lãi hay lãi quá thấp. Theo Sozinov tính toán: nông nghiệp Pháp phải tiêu thụ tới 13,8 triệu tấn nhiên liệu quy ước để sản xuất được 12,5 triệu tấn nhiên liệu quy ước trong lương thực, thực phẩm. Và muốn sản xuất 1 calo lương thực, thực phẩm đòi hỏi phải có 1,1 calo năng lượng hóa thạch.
Evans so sánh năng lượng sản xuất ra được với năng lượng đầu tư vào, với các kiểu canh tác khác nhau: hái lượm cho một số sản phẩm bằng 40-50 lần năng lượng đầu tư, canh tác thủ công bằng 16-17 lần, canh tác với gia súc bằng 10 lần, và canh tác với cơ giới chỉ bằng 0,2-0,3 lần (năm 1975). Steiphart tính số calo cần thiết để sản xuất ra 1 calo lương thực, thực phẩm bằng săn bắn hái lượm cần 0,1-0,2 calo, làm rẫy cần 0,03-0,06 calo; trồng lúa quảng canh cần 0,02-0,01 calo, trồng lúa thâm canh cần 0,1-0,2 calo, trồng ngô thâm canh cần 0,5 calo, nuôi bò thả cần 3 calo, nuôi bò cho ăn hạt cần 15 calo, nuôi gà thâm canh cần 3 calo (năm 1974).
Pimentel tính năng lượng đầu tư vào và năng lượng sản xuất ra với 3 cách trồng lúa:
-Trồng lúa hiện đại của Mỹ với năng suất thóc 58 tạ/ha, đã đầu tư vào một hécta là 64.885 jun x106 và tỷ lệ năng lượng sản xuất ra gấp 1,3 lần năng lượng đầu tư.
-Trồng lúa kiểu trung gian (Philippin) có các số liệu tương ứng là 27 tạ thóc/ha; năng lượng đầu tư vào là 6.385 jun x 106 và tỷ lệ năng lượng sản xuất ra so với đầu tư vào là 6,2 lần.
-Trồng lúa cổ truyền (Philippin), các số liệu tương ứng là 12,5 tạ/ha. Năng lượng đầu tư vào là 173 jun x 106 và tỷ lệ năng lượng sản xuất ra so với đầu tư vào là 106,9 lần.
Như vậy, trồng lúa cổ truyền có lãi nhất, còn trồng lúa kiểu hiện đại công nghiệp hóa không những lãng phí năng lượng nhất mà còn làm cạn kiệt dần các nguồn năng lượng hóa thạch của trái đất.
1.1.6.Hệ thống trồng trọt không đất (hệ thống hydroponic). Từ lâu các phòng nghiên cứu đã dùng những dung dịch các chất dinh dưỡng được pha chế với thành phần nhất định để trồng cây nhằm nghiên cứu về nhiều mặt, nhất là về sinh lý thực vật và đã có nhiều hiểu biết về dinh dưỡng khoáng của cây trồng. Áp dụng kinh nghiệm này vào sản xuất, các nhà khoa học đã xây dựng được phương pháp trồng cây không đất mà chỉ dùng dung dịch dinh dưỡng. Hiện nay, phương pháp này đã được áp dụng ở nhiều nước có nông nghiệp công nghiệp hóa để sản xuất hoa và rau trong các nhà kính, nhất là vào khi thời tiết bên ngoài không thích hợp (mùa đông).
Phương pháp trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng đã phát triển ở nhiều nước Tây Âu và Mỹ. Và từ những năm 70, hệ thống trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng đã được nâng cao thêm với hiểu biết sâu hơn về dinh dưỡng cây trồng với kỹ thuật vi điện tử.
Hệ thống trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng dựa vào hai phương pháp khác nhau:
-Phương pháp thứ nhất sử dụng một số chất bám cho cây (mỗi cây từ 3-10 kg chất bám). Chất bám có thể là những mẩu vụn của vỏ cây, rơm rạ băm nhỏ, hoặc một loại hỗn hợp đất với những chất khác như len, khoáng chất, hay các sản phẩm như péclit…
Các chất bám được đựng trong bồn, chậu, túi ni-lông cách biệt với nền đất trong nhà kính. Do chất bám ít, không thể thường xuyên cung cấp đủ nước và chất dinh dưỡng cho cây, nên người ta đã dùng một loại bình, hay bể để chứa dung dịch dinh dưỡng và cho chảy nhỏ giọt xuống từng cây một. Phương pháp này vì vậy còn được gọi là phương pháp tưới nhỏ giọt. Phương pháp tưới nhỏ giọt cũng đã được áp dụng ở nhiều nước có nông nghiệp công nghiệp hóa. Ở Đức có nơi đã dùng phân hữu cơ làm chất bám, vừa kinh tế hơn vừa để đạt sản lượng cao hơn.
-Phương pháp thứ hai không sử dụng chất bám mà toàn bộ rễ cây được ngâm trong dung dịch dinh dưỡng có nhiệt độ nhất định và thường xuyên lưu thông. Dung dịch dinh dưỡng cho chảy trong một rãnh chứa làm bằng kim loại không gỉ hay chất dẻo. Rãnh rộng khoảng 30cm, phía trên che kín, không cho ánh sáng lọt xuống, có độ dốc 1% cho dung dịch dinh dưỡng chảy đều. Toàn bộ rễ cây được đặt trong rãnh và sẽ hút chất dinh dưỡng trong dung dịch dinh dưỡng chảy qua. Dung dịch dinh dưỡng chưa được hấp thụ hết sẽ chảy vào một bình đặt ở đầu thấp của rãnh, rồi sẽ được bổ sung thêm nước, các chất dinh dưỡng điều chỉnh độ pH như lúc ban đầu, rồi lại đưa vào đầu rãnh trên sau khi đã làm nóng lên 250 -300 C và lại sẽ chảy qua rãnh. Phương pháp thứ hai này tiết kiệm chất dinh dưỡng nhưng đòi hỏi những thiết bị cần thiết. Với thiết bị vi điện tử, người ta điều chỉnh chính xác nhiệt độ của dung dịch dinh dưỡng, thành phần dinh dưỡng của dung dịch, độ pH và các điều kiên: không khí, ánh sáng, độ ẩm, khí CO2 trong nhà kính.
Bằng cách sử dụng dung dịch dinh dưỡng theo phương pháp thứ nhất hay phương pháp thứ hai, nhiều cơ sở ở Đức đã đạt sản lượng cà chua từ 180 tấn - 200 tấn/ha/năm và ngành sản xuất hoa Hà Lan đã có lãi lớn với hoa xuất khẩu trên thị trường thế giới.
Ở Nhật Bản lại có kiểu trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng kiểu Japonica. Hãng KYOWA ở Nhật Bản đã hoàn thiện hệ thống này với những công thức cần thiết được giữ bí mật, và được coi là một cuộc cách mạng trong kỹ thuật trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng. Tất cả đã được trồng trong nhà kính với nhiệt độ hầu như không thay đổi, phù hợp với mỗi loài cây, theo hướng dẫn của máy tính điện tử với những dung dịch dinh dưỡng được điều chỉnh cùng với thiết bị điện tử. Những kết quả của phương pháp japoniaca đã được trình bày ở triển lãm EXPO 85 và đã làm mọi người đến xem ngạc nhiên:
-Một cây cà chua trong thời gian triển lãm đã phát triển thành một cây cao tới 5m, có tán rộng 10m2 và cho 7 tạ quả, có quả nặng 1kg.
-Có những quả dưa chuột dài nửa mét và nặng 5kg và những quả dưa bở lớn gấp 8 lần bình thường.
-Những cây mía ngoài đồng ít khi cao quá 2,5m nhưng trồng trong dung dịch dinh dưỡng kiểu này đã có chiều cao tới 5-6m mà chỉ sau 6 tháng.
-Với lúa đại mạch, theo cách trồng này, lúa phát triển nhanh và cho sản lượng rất cao (tuy kích thước hạt lúa vẫn bình thường), 100m2 đã cho sản lượng bằng 1 hécta. Saoburo Nozawa, phó chủ tịch hãng KYOWA cho rằng các hộp trồng rau theo kiểu không cần đất này có thể đặt trong điều kiện khác nhau từ sa mạc Gôbi ở châu Á đến sa mạc Sahara ở châu Phi.
Nhưng từ triển lãm đến cuộc sống còn là một quãng đường dài. Thực tiễn cho thấy chất lượng nông sản của nông nghiệp công nghiệp hóa thường không cao. Các sản phẩm chăn nuôi, cách đây mấy năm, ở Anh vốn là một nước chăn nuôi bò đã thấy xuất hiện ở đàn bò bệnh bò điên, bệnh Creuzfeld Jacob vì bò đã được nuôi theo kiểu công nghiệp hóa và phải ăn thức ăn tổng hợp mà thành phần chế biến có các loài cừu thải loại mà cừu đã bị nhiễm bệnh này. Bệnh bò điên đã gây tác hại nghiêm trọng đến ngành chăn nuôi bò ở Anh và Chính phủ Anh đã phải ra lệnh giết hàng chục vạn bò bệnh. Ở Pari, một con gà do nông dân nuôi đắt gấp đôi một con gà công nghiệp. Ngay trên thị trường Hà Nội gà ri bán với giá 50.000 đồng một kilôgam gà sống trong khi gà công nghiệp chỉ bán được 25.000-26.000 đồng một kilôgam gà sống. Cũng có sự chênh lệch giữa giá trứng gà ở nông thôn đem bán và trứng gà công nghiệp (1.500 đồng/trứng so với dưới 1.000 đồng/trứng)…
1.2.Nông nghiệp hữu cơ:
Trước khuynh hướng nông nghiệp công nghiệp hóa ngày càng tăng, từ cuối những năm 60 thế kỷ XX ở các nước nông nghiệp phát triển đã xuất hiện những trường phái nông nghiệp mới: nông nghiệp sinh học ở Tây Âu và Mỹ.
Từ những năm 60 do những kết quả không tốt của nông nghiệp công nghiệp hóa và những nông sản chất lượng kém mà nền nông nghiệp này tạo ra, nên nhiều khuynh hướng sinh học chống lại nông nghiệp công nghiệp hóa đã nảy sinh ở ngay chính những nước phát triển như:
-Nông nghiệp sinh học ở Anh và Mỹ.
-Nông nghiệp sinh động học ở Đức.
-Nông nghiệp hữu cơ ở Thụy Sĩ.
-Nông nghiệp sinh học ở Pháp.
Có những biến dạng của nông nghiệp sinh học tùy theo kỹ thuật được đề nghị sử dụng, nhưng tất cả đều thống nhất ở điểm chống nông nghiệp công nghiệp hóa.
Đến năm 80 của thế kỷ XX, tất cả các khuynh hướng nông nghiệp sinh học đều được gọi với tên chung là nông nghiệp hữu cơ, để đối lập với nông nghiệp công nghiệp hóa (còn được hiểu là nông nghiệp hóa học).
Các trường phái nông nghiệp mới đều phê phán những mặt tiêu cực của nông nghiệp hóa. Các ý kiến này được trình bày rõ trong cuốn sách của Aubert (Pháp): “Công nghiệp hóa nông nghiệp, hạnh phúc hay sự tự sát của loài người (Pari -1970). Cuốn sách bắt đầu với câu dẫn của Mahatma Gandhi: “Không phải mọi người lầm, mà sai lầm trở thành chân lý” và tuyên bố thẳng thừng “nông nghiệp công nghiệp hóa chỉ là một sự ngu xuẩn”. Sai lầm của nông nghiệp công nghiệp hóa là đã coi những cây trồng và gia súc là những cái máy để sản xuất các nông sản và đã đối xử với chúng như những cái máy, không coi trọng các quy luật sinh học bình thường của chúng. Gà muốn ăn phải mổ các hạt thóc và đi tìm bới sâu bọ chứ không thể đứng yên một chỗ rồi nhồi nhét thức ăn tổng hợp, mặc dù được chế biến có thể là khoa học, nhưng chưa hẳn đã đáp ứng yêu cầu của cơ thể. Năm 1930, phải mất 4,5 tháng và 5kg hạt cốc mới nuôi được một con gà 1,5kg, nay chỉ cần 49 ngày và 2kg thức ăn tổng hợp. Năm 1930, phải cần một công nhân để nuôi một vạn con gà thì nay một công nhân có thể nuôi được vài chục vạn con. Nhưng những con gà đó có chất lượng thịt không giống nhau. Còn cây trồng phải sinh sống tự nhiên trên đất, hút thức ăn từ đất với hoạt động của nhiều loại vi sinh vật, nó sẽ khỏe mạnh và chống chịu được với sâu bệnh. Sâu bệnh cũng không nhiều khi trồng nhiều loại cây, có chế độ luân canh hợp lý, và bảo vệ môi trường trồng trọt với sự có mặt của thiên địch hại sâu bệnh cây trồng. Cây trồng sử dụng phân khoáng ngày càng tăng để có năng suất ngày càng cao, nhưng sức đề kháng của cơ thể yếu, và chất lượng nông sản giảm. Do đó, thuốc trừ sâu bệnh đã phải dùng ngày càng nhiều.
Đất là một “vật sống” có các quy luật của nó, nhưng nông nghiệp công nghiệp hóa coi thường hoạt động sinh học của đất, đã bón quá nhiều phân hóa học dễ tiêu nhằm tăng sản lượng cây trồng nên đã làm cho nhiều loại đất chai cứng, mất hay giảm sự sống. Việc rắc thuốc trừ cỏ làm chết cỏ, đồng thời cũng làm chết nhiều loài vi sinh vật và động vật nhỏ có ích trong đất trồng. Dùng cày to, nặng và máy kéo lớn (có khi tới 300-500 mã lực) làm cho đất mất cấu tượng tốt cần cho hoạt động tốt của rễ cây và vi sinh vật trong đất. Và để đối phó lại, lại bón phân hóa học nhiều hơn.
Như vậy là bắt đầu với phân khoáng, thuốc trừ sâu bệnh, trừ cỏ, mà khối lượng sử dụng có xu hướng tăng ở tất cả các nước phát triển, sau đó là sự tràn ngập của hóa học vào nông nghiệp công nghiệp hóa. Đến lúc, khi có thể thì hóa học sẽ thay thế người, thay thế máy, thay thế cây trồng hay gia súc:
-Cày hóa học: thay việc cày đất bằng phun một chất trừ cỏ, tiện hơn và rẻ hơn.
-Trừ cỏ bằng thuốc hóa học, chỉ diệt cỏ và không động đến cây.
-Tỉa bớt quả đi, để có quả to bằng phun thuốc hóa học.
-Làm cho cây cối lùn xuống để chống đổ bằng chất hóa học CCC (Cheloro Cheline).
-Hãm sự phát triển cành cây của các cây ăn quả để có nhiều quả bằng phun thuốc hóa học.
-Làm rung lá bông bằng chất hóa học để dễ hái bông.
-Dùng chất hóa học để cải tạo cấu tượng đất, không cần mùn mà dùng các chất nhân tạo như polyvinyl… Có thể kéo dài thêm với các chất kích thích sinh trưởng cho cây trồng hay gia súc lớn nhanh với các nguyên tố, các chất vitamin và axit amin tổng hợp. Đỉnh cao của hóa học trong nông nghiệp công nghiệp hóa là trồng cây trong dung dịch dinh dưỡng để cho cây hút thẳng dung dịch và có thức ăn cần thiết, không cần sự khoáng hóa và hoạt động vi sinh vật học của đất.
Nhiều sản phẩm của nông nghiệp công nghiệp hóa có hại cho sức khỏe con người do hàm lượng chất hóa học trong đó quá cao.
Nông nghiệp công nghiệp hóa là một nền nông nghiệp chỉ nhằm sản xuất chạy theo số lượng lớn chứ không sản xuất ra sản phẩm chất lượng tốt, không phục vụ sức khỏe con người.
Nông nghiệp sinh học xuất phát từ luận điểm: hoạt động nông nghiệp vận dụng các cơ thể sinh vật để sản xuất ra lương thực, thực phẩm và các thứ cần dung khác. Sinh vật sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học mà khoa học không ngừng tìm hiểu nhưng đến nay vẫn chưa hiểu được bao nhiêu, nên khi hành động, con người phải cân nhắc, phải có thái độ phù hợp với thiên nhiên, với sự sống.
Toàn bộ lý luận và kỹ thuật cụ thể của nông nghiệp sinh học dựa vào phương châm: coi trọng các quy luật sống, tạo điều kiện cho các quy luật này phát huy tác dụng, không biến cây trồng hay gia súc thành các cỗ máy,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 560.doc