Đề tài Một số giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 ở Việt Nam

Một trong những thách thức lớn của các nước đang phát triển, nhất là Việt Nam hiện nay là đói, nghèo, nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng sự cố gắng nỗ lực lớn của Chính phủ, các Bộ, ban, ngành, đoàn thể và các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, công cuộc xoá đói giảm nghèo trong 10 năm qua đã đạt thành tựu to lớn, giảm tỷ lệ đói nghèo 30% (1993) xuống còn 11% (năm 2000), trung bình mỗi năm giảm gần 300.000 hộ đói nghèo.

Một trong những bài học về thành công của xóa đói giảm nghèo là phải thực hiện xã hội hoá. Đây là một giải pháp quan trọng hàng đầu trong các biện pháp xoá đói giảm nghèo nhằm thu hút sự tham gia ủng hộ của mọi thành phần trong xã hội, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho xoá đói giảm nghèo.

Tuy nhiên, đói nghèo ở Việt Nam còn trầm trọng và vẫn là một thách thức lớn, tỷ lệ đói nghèo theo chuẩn mực mới hiện nay là 24% - 25% (năm 2000). Vì vậy trong 5 - 10 năm tới, đói nghèo vẫn là một vấn đề thời sự được toàn xã hội quan tâm. Trong Báo cáo chính trị về các văn kiện Đại hội Đảng khoá IX chỉ rõ: xoá đói, giảm nghèo trong 5 - 10 năm tới là một trong những nhiệm vụ kinh tế chính trị quan trọng, cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã đề ra mục tiêu cho xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 là giảm tỉ lệ đói nghèo xuống còn 11% (theo chuẩn mực mới) (tức là giảm bình quân mỗi năm là 3%).

Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo những năm vừa qua cho thấy, để đạt được mục tiêu này quả không đơn giản, nó đòi hỏi sự cố gắng quyết tâm nỗ lực lớn của toàn xã hội. Do đó, xã hội hoá xoá đói giảm nghèo vẫn là một biện pháp quan trọng, cần thiết hơn bao giờ hết cho xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn tới. Vì vậy, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 ở Việt Nam". Hy vọng đóng góp đôi chút lý luận cho thực tiễn.

 

doc71 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ viết tắt sử dụng trong tài liệu ATK: An toàn khu. Bộ LĐ-TB và XH: Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội. XĐGN: Xoá đói giảm nghèo. XHH XĐGN: Xã hội hoá xoá đói giảm nghèo. CNXH: Chủ nghĩa Xã hội. TCPCP: Tổ chức phi chính phủ. HDI: Human Development Index -Chỉ số về phát triển con người. PQLI: Product Quality Life Index- Chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống. ODC: Offshore Development Council- Hội đồng phát triển Hải ngoại. Lời nói đầu Một trong những thách thức lớn của các nước đang phát triển, nhất là Việt Nam hiện nay là đói, nghèo, nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng cùng sự cố gắng nỗ lực lớn của Chính phủ, các Bộ, ban, ngành, đoàn thể và các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, công cuộc xoá đói giảm nghèo trong 10 năm qua đã đạt thành tựu to lớn, giảm tỷ lệ đói nghèo 30% (1993) xuống còn 11% (năm 2000), trung bình mỗi năm giảm gần 300.000 hộ đói nghèo. Một trong những bài học về thành công của xóa đói giảm nghèo là phải thực hiện xã hội hoá. Đây là một giải pháp quan trọng hàng đầu trong các biện pháp xoá đói giảm nghèo nhằm thu hút sự tham gia ủng hộ của mọi thành phần trong xã hội, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước cho xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, đói nghèo ở Việt Nam còn trầm trọng và vẫn là một thách thức lớn, tỷ lệ đói nghèo theo chuẩn mực mới hiện nay là 24% - 25% (năm 2000). Vì vậy trong 5 - 10 năm tới, đói nghèo vẫn là một vấn đề thời sự được toàn xã hội quan tâm. Trong Báo cáo chính trị về các văn kiện Đại hội Đảng khoá IX chỉ rõ: xoá đói, giảm nghèo trong 5 - 10 năm tới là một trong những nhiệm vụ kinh tế chính trị quan trọng, cơ bản của Đảng và Nhà nước ta. Đảng và Nhà nước đã đề ra mục tiêu cho xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 là giảm tỉ lệ đói nghèo xuống còn 11% (theo chuẩn mực mới) (tức là giảm bình quân mỗi năm là 3%). Kinh nghiệm xoá đói giảm nghèo những năm vừa qua cho thấy, để đạt được mục tiêu này quả không đơn giản, nó đòi hỏi sự cố gắng quyết tâm nỗ lực lớn của toàn xã hội. Do đó, xã hội hoá xoá đói giảm nghèo vẫn là một biện pháp quan trọng, cần thiết hơn bao giờ hết cho xóa đói giảm nghèo trong giai đoạn tới. Vì vậy, tôi xin mạnh dạn chọn đề tài: "Một số giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 ở Việt Nam". Hy vọng đóng góp đôi chút lý luận cho thực tiễn. Nội dung đề tài gồm: Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn về xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo. Chương II: Thực trạng xã hội hoá công tác Xoá đói giảm nghèo giai đoạn vừa qua. Chương III: Phương hướng, giải pháp tăng cường xã hội hoá xoá đói giảm nghèo giai đoạn 2001-2005 ở Việt Nam. Chương I Cơ sở lý luận và thực tiễn về xã hội hoá công tác xoá đói giảm nghèo. I. Quan niệm đói nghèo: Có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo. Quan niệm chung nhất cho rằng: Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không có đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu của cuộc sống như ăn, mặc, ở, vệ sinh, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp xã hội... Tình trạng đói nghèo ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau về mức độ và số lượng, thay đổi theo không gian và thời gian. Người nghèo của quốc gia này có thể có mức sống cao hơn mức sống trung bình của quốc gia khác. Bởi vậy nhìn nhận và tổ chức thực hiện vấn đề xoá đói giảm nghèo một cách đầy đủ và có căn cứ cần tham khảo khái niệm, kinh nghiệm, chỉ tiêu, chuẩn mực đánh giá và các giải pháp thực hiện xoá đói giảm nghèo của thế giới; cũng như nắm vững thực tế ở Việt Nam để có những khái niệm, xác định chuẩn mực, xây dựng hệ thống giải pháp thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh ở Việt Nam trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên để phục vụ cho phần sau, ở đây chỉ khảo sát về khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực nghèo đói của thế giới và Việt Nam. 1. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá nghèo đói của thế giới: 1.1. Khái niệm đói nghèo của thế giới. Thế giới thường dùng khái niệm nghèo khổ mà không dùng khái niệm đói nghèo như ở Việt Nam và nhận định nghèo khổ theo 4 khía cạnh: thời gian, không gian, giới và môi trường. - Về thời gian: Phần lớn người nghèo khổ là những người có mức sống dưới mức "chuẩn" trong một thời gian dài. Cũng có một số người người nghèo khổ "tình thế", chẳng hạn như những người thất nghiệp, những người nghèo do suy thoái kinh tế hoặc do thiên tai, địch hoạ, tệ nạn xã hội, rủi ro...v.v. - Về không gian: Nghèo đói diễn ra chủ yếu ở nông thôn, nơi có 3/4 dân số sinh sống. Tuy nhiên tình trạng đói nghèo ở thành thị, trước hết là ở các nước đang phát triển cũng có xu hướng gia tăng. - Về giới: Người nghèo là phụ nữ đông hơn nam giới. Nhiều hộ gia đình nghèo nhất do phụ nữ là chủ hộ. Trong các hộ nghèo đói do đàn ông làm chủ hộ thì phụ nữ khổ hơn nam giới. - Về môi trường: Phần lớn người thuộc diện đói nghèo đều sống ở những vùng sinh thái khắc nghiệt mà ở đó tình trạng đói nghèo và sự xuống cấp về môi trường đều đang ngày càng trầm trọng thêm. Từ nhận dạng trên Liên Hiệp Quốc đưa ra hai khái niệm chính về đói nghèo: + Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng những nhu cầu cơ bản tối thiểu để duy trì cuộc sống. + Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng đầy đủ những nhu cầu cơ bản tối thiểu; nhu cầu cơ bản tối thiểu cho cuộc sống là những đảm bảo ở mức tối thiểu về ăn, mặc, ở, giao tiếp, xã hội, vệ sinh, y tế và giáo dục. Ngoài những đảm bảo trên, cũng có ý kiến cho rằng, nhu cầu tối thiểu bao gồm có quyền được tham gia vào các quyết định của cộng đồng. Tuỳ mức độ đảm bảo nhu cầu tối thiểu mà sự nghèo khổ của dân cư được chia thành nghèo, rất nghèo, hoặc nghèo bậc I, bậc II. 1.2. Chỉ tiêu đánh giá đói nghèo của thế giới: Chỉ tiêu đánh giá sự đói nghèo trong một quốc gia bắt đầu từ việc vạch ra giới hạn đói nghèo. Khi đánh giá nước giàu, nước nghèo trên thế giới, giới hạn đói nghèo được biểu hiện bằng chỉ tiêu chính là thu nhập quốc dân bình quân đầu người (GDP). Một số nhà nghiên cứu cho rằng, chỉ căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập thì chưa đủ để đánh giá. Vì vậy, bên cạnh chỉ tiêu này, tổ chức Hội Đồng phát triển Hải Ngoại (ODC) đưa ra chỉ số chất lượng vật chất của cuộc sống (PQLI). Căn cứ để đánh giá chỉ số PQLI bao gồm 3 chỉ tiêu cơ bản: - Tuổi thọ. - Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh. - Tỷ lệ xoá mù chữ. Gần đây tổ chức UNDP đưa thêm chỉ số về phát triển con người (HDI), bao gồm 3 chỉ tiêu: - Tuổi thọ. - Tình trạng biết chữ của người lớn. - Thu nhập. Căn cứ vào 3 chỉ tiêu này, UNDP đánh giá Việt Nam đứng thứ 121/175 nước trên thế giới (tài liệu công bố năm 1997 và lấy cơ sở số liệu năm 1995). Như vậy, chỉ tiêu đánh giá nước giàu, nước nghèo của các quốc gia vẫn căn cứ vào chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân đầu người là chính. Khi kết hợp với các chỉ số PQLI hay HDI chỉ bổ sung cho việc nhìn nhận các nước giàu, nghèo chính xác hơn khách quan hơn. - Về hộ nghèo: Giới hạn đói nghèo biểu hiện dưới dạng chỉ tiêu thu nhập quốc dân bình quân tính theo đầu người nằm dưới giới hạn nghèo được coi là hộ nghèo. Quy mô nghèo của từng vùng, của một quốc gia được xác định bằng tỷ lệ số hộ nghèo đói trên tổng số hộ dân cư thuộc vùng hoặc quốc gia đó. Quy mô nghèo của vùng hoặc quốc gia ồ Số hộ nghèo đói của vùng hoặc quốc gia ồ Số hộ dân cư của vùng hoặc quốc gia Công thức tính quy mô nghèo của vùng hoặc quốc gia. 1.3. Chuẩn mực đói nghèo của thế giới: Nói chung quan niệm của nhiều nước cho rằng hộ nghèo có mức thu nhập dưới 1/3 mức thu nhập trung bình của toàn xã hội. Với quan niệm này, hiện trên thế giới có 1,12 tỷ người (20%) đang sống trong tình trạng nghèo khổ, tức là sống dưới 420 USD/người/năm hoặc 35 USD/người/tháng mà Ngân hàng thế giới đã ấn định. - Các nước phát triển: Lấy nước Mỹ làm đại diện cho các nước phát triển. Năm 1992, Mỹ lấy chuẩn mực một người trong hộ có thu nhập bình quân tháng dưới 71 USD là người nghèo khổ (852 USD/năm). - Các nước đang phát triển: Mỗi nước có một chuẩn mực khác nhau: Pakitstan lấy 6 USD/người/tháng; Indonesia 6 USD/người/tháng; Philippin 7 USD/người/tháng. Cũng có nước dùng chỉ tiêu Kalory/người/ngày như Bănglađét dưới 1650 Kalory/người/ngày. 2. Khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá hộ đói nghèo của Việt Nam: ở Việt Nam đã có nhiều quan điểm đưa ra xung quanh vấn đề khái niệm, chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá đói nghèo. Song các ý kiến sau đây là tập trung nhất. 2.1. Khái niệm: Tách riêng đói và nghèo không khái niệm chung như thế giới. - Nghèo: là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần các nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện. + Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối thiểu là những đảm bảo ở mức tối thiểu những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở và sinh hoạt hàng ngày gồm văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp. + Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xét. - Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn đứt bữa từ 1 đến 2 tháng, thường vay nợ của cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. 2.2. Chỉ tiêu đánh giá hộ nghèo của Việt Nam: - Chỉ tiêu chính: Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng (hoặc 1 năm) được đo bằng chỉ tiêu giá trị hay hiện vật quy đổi, thường lấy lương thực (gạo) tương ứng một giá trị nhất định để đánh giá. Khái niệm thu nhập ở đây được hiểu là thu nhập thuần tuý (bằng tổng thu trừ đi tổng chi phí sản xuất). Song cần nhấn mạnh chỉ tiêu thu nhập bình quân nhân khẩu tháng là chỉ tiêu cơ bản nhất để xác định mức đói nghèo. - Chỉ tiêu phụ: là dinh dưỡng bữa ăn, nhà ở, mặc và các điều kiện học tập, chữa bệnh, đi lại...v.v. Lấy chỉ tiêu thu nhập là cơ bản để phản ánh mức sống, biểu hiện bằng giá trị. Tuy nhiên, trong điều kiện giá cả không ổn định như nước ta thì cần thiết sử dụng hình thức hiện vật, phổ biến là quy ra gạo tiêu chuẩn (gạo thường), tương ứng với một giá trị nhất định. Việc sử dụng hiện vật quy đổi tương ứng với một giá trị so sánh mức thu nhập của người dân theo thời gian và không gian được dễ dàng. Đặc biệt đối với người nghèo nói chung và người nghèo đói ở nông thôn nói riêng, chỉ tiêu lượng kilôgam gạo bình quân 1 người trong 1 tháng tương ứng 1 lượng giá trị nhất định là rất có ý nghĩa thực tế. 2.3. Chuẩn mực xác định nghèo của Việt Nam hiện nay. ở Việt Nam để đo tình trạng nghèo đói nhiều địa phương cơ bản lấy tiêu chuẩn thu nhập bình quân 1 khẩu trong 1 năm. Chẳng hạn thành phố Hồ Chí Minh lấy mức thu nhập bình quân dưới 3 triệu ở thành thị và dưới 2,5 triệu ở nông thôn /1 khẩu/1 năm. Một số nhà kinh tế lấy tiêu thức lương thực bình quân nhân khẩu, gia đình nào có thu nhập bình quân dưới 30 kg gạo/khẩu/tháng được coi là nghèo. Theo Tổng cục Thống kê, để xác định hộ nông dân nghèo được căn cứ vào thu nhập tính bình quân đầu người, nếu đạt dưới 2100 Kalory/ngày/người sẽ là hộ nghèo. Một khuynh hướng khác lại lấy mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định làm chuẩn. Người có mức sống dưới mức nghèo khổ là người có thu nhập bình quân một tháng thấp hơn mức lương tối thiểu ( Mức lương tối thiểu hiện nay là 210.000 đồng/tháng). Các chuẩn mực trên có thể đúng với từng địa bàn cụ thể song không thể áp dụng cho mọi đối tượng, mọi vùng trên phạm vi cả nước. Còn theo quy định tại thông báo 1751/LĐTBXH ngày 20/5/97 của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội thì: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo: - Vùng nông thôn, miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương đương 55 ngàn đồng). - Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương đương 70 ngàn đồng). - Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90 ngàn đồng). Đây là chuẩn mực tối thiểu chung cho cả nước, khi áp dụng vào từng địa phương cần có điều chỉnh thích hợp tuỳ theo điều kiện cụ thể của địa phương đó. Ngoài ra, cũng cần phải xem xét các đặc trưng cơ bản như: Thiếu ăn từ 3 tháng trở lên trong năm, nợ sản lượng khoán triền miên, vay nặng lãi, con em không có điều kiện đến trường (mù chữ hoặc bỏ học), thậm chí phải cho con hoặc tự bản thân đi làm thuê cuốc mướn để kiếm sống qua ngày hoặc đi ăn xin... Nếu đưa chuẩn mực này ra để xác định thì rất dễ phân biệt hộ đói nghèo ở nông thôn. Về hộ đói: Theo Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, trong giai đoạn hiện nay nếu thu nhập bình quân trong hộ đạt dưới 13 kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000 đ/người/tháng) là hộ đói. Song thực tế những hộ nào thiếu lương thực trong gia đình phải đứt bữa hoặc ăn bữa cơm bữa cháo, ăn độn khoai sắn... là biểu hiện của hộ đói. Theo chuẩn mực trên, đến hết năm 1999, cả nước còn khoảng 2 triệu hộ (khoảng 11 triệu người) nghèo đói chiếm tỷ lệ 13%; năm 2000 ước tính 1,7 triệu hộ (8,4 triệu người nghèo đói) chiếm tỷ lệ 11%. Theo Bộ LĐ-TB và XH công bố mới đây( cuối năm 2000) về chuẩn mực mới áp dụng cho 5 năm tới thì: Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng tính theo giá hiện hành (cao gấp 1,5 lần chuẩn cũ), cụ thể như sau: - Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 80.000 đồng. - Vùng nông thôn đồng bằng,trung du: dưới 100.000 đồng. - Vùng thành thị: dưới 150.000 đồng. Hộ đói là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người một tháng dưới 60.000 đồng. Theo chuẩn này, đến hết năm 2000, cả nước có khoảng 4 triệu hộ nghèo, chiếm tỷ lệ 24-25% tổng số hộ trong cả nước. Trong đó 4 vùng có tỷ lệ nghèo đói trên 30%. Kể từ khi phát động phong trào XĐGN ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 1992 đến nay, Bộ LĐ -TB và XH đã ban hành các chuẩn mực về đói nghèo khác nhau cho phù hợp với một thực tiễn là kinh tế ngày càng phát triển, đời sống ngày càng nâng cao, thu nhập bình quân trên đầu người từ 257 USD/năm (năm 1992) lên tới 370 USD (năm 2000). Các chuẩn mực mới đưa ra ngày càng cao không những chỉ là dấu hiệu về sự tiến bộ của kinh tế đất nước mà còn là dấu hiệu về sự thành công trong công tác XĐGN. Chuẩn mực mới đưa ra( cuối năm 2000) là hợp lý vì: - Phản ánh đúng thực trạng đói nghèo ở nước ta. Tuy XĐGN trong những năm qua gặt hái thành quả đáng kể, đời sống nhân dân được nâng lên, song thực trạng đói nghèo vẫn trầm trọng, chênh lệch giữa các vùng ngày càng tăng. - Phù hợp quá trình hội nhập quốc tế. Vấn đề đói nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu, nhất là đối với Việt Nam. Vì vậy, học hỏi kinh nghiệm và trợ giúp lẫn nhau là vấn đề cốt yếu trong hội nhập. Mỗi nước phải đưa ra được chuẩn mực phù hợp với nước mình và phù hợp với quốc tế. - Khả năng huy động nguồn lực cho XĐGN được bảo đảm. - Phù hợp khoa học và thực tiễn. 3. Khái niệm liên quan khác nhau: 3.1. Khái niệm về vùng nghèo: - Là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc chỉ một làng, một xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn, bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng như : Đất đai khô cằn, thời tiết khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản xuất tự cung tự cấp. Và có mức sống dân cư trong vùng thấp hơn so với mức sống chung của cả nước xét trong cùng một thời điểm (trích Giáo trình kinh tế lao động - Nxb Giáo Dục, Hà Nội-1998, tr.244). Từ khái niệm này có thể suy ra các khái niệm tương đương như: thôn nghèo, làng nghèo, xã nghèo, cụm xã nghèo, huyện nghèo, tỉnh nghèo... 3.2. Khái niệm về giải pháp xoá đói giảm nghèo: - Giải pháp theo từ điển bách khoa: là phương pháp giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó. - Giải pháp xoá đói giảm nghèo là phương pháp giải quyết tình trạng đói nghèo của dân cư nhằm nâng cao mức sống, phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng. II. Quan điểm về công tác xoá đói giảm nghèo ở nước ta. 1. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị - xã hội trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân: Xoá đói giảm nghèo là một sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa cao quý, là một chính sách xã hội cơ bản của quốc gia, có ý nghĩa to lớn về cả kinh tế - chính trị - xã hội và an ninh quốc phòng, mang tính nhân văn sâu sắc và phát huy bản chất tốt đẹp của dân tộc. Bài phát biểu của Đ/c Mai Chí Thọ, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, tại hội nghị sơ kết chương trình xoá đói giảm nghèo của thành phố Hồ Chí Minh (3/10/92) viết: "Xoá đói giảm nghèo là đạo lý dân tộc, là lý tưởng đạo đức cộng sản". "Với chủ trương xoá đói giảm nghèo, phát triển công tác xã hội và từ thiện chúng ta đáp ứng đúng nhu cầu bức thiết của nhân dân ta, đất nước ta một cách toàn diện về cả chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng". Bài phát biểu của Đồng chí Nguyễn Văn Linh, cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong Hội nghị sơ kết chương trình xoá đói giảm nghèo của thành phố Hồ Chí Minh (ngày 3/10/92) viết: "Chương trình xoá đói giảm nghèo có một ý nghĩa xã hội rất rộng lớn là một đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng CNXH. Các Đồng chí gọi đây là một cuộc cách mạng là rất đúng. Cuộc cách mạng này đòi hỏi phải làm lâu dài và rất kiên trì. Thực hiện thành công chương trình này chúng ta sẽ dần dần xoá bỏ cuộc sống quá chênh lệch giữa đồng bào, những sự bất bình đẳng, những bất công trong xã hội, tạo nên sự đoàn kết, tương trợ tương thân, tương ái với tinh thần tình làng nghĩa xóm "lá lành đùm lá rách", một truyền thống rất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam chúng ta. Đây là một mặt của nền văn hoá dân tộc mà chúng ta không được xao lãng". - Trích "xoá đói giảm nghèo vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh" - Thành phố Hồ Chí Minh 1992, trang 46. Tại Hội nghị triển khai chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa ngày 6-7/1/1999. Thủ tướng Phan Văn Khải phát biểu : "... Điều thường xuyên trăn trở của Đảng và Nhà nước ta hơn 10 năm đổi mới là làm sao người nghèo có cơ hội để thoát nghèo khổ, làm sao để người dân hiện nay còn nghèo đói có được điều kiện thuận lợi, tự vươn lên tổ chức được sản xuất và cải thiện từng bước đời sống để cùng đồng bào cả nước bước vào thế kỷ XXI không còn đói, mọi người đều có cơ hội tham gia xây dựng một xã hội công bằng, văn minh. Những thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhân dân ta đạt được là rất quan trọng, nhưng những vấn đề tồn tại, đặc biệt là vấn đề chênh lệch giàu nghèo cũng diễn ra gay gắt hơn, đòi hỏi phải có chính sách và cách làm phù hợp để giải quyết vấn đề này một cách cơ bản. Đường lối đổi mới của Đảng và nhà nước ra nhằm khuyến khích mọi người đem tài năng sức lực làm giàu hợp pháp và góp phần xây dựng đất nước. Mặt khác, Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng những thành tựu của công cuộc đổi mới, đây là bản chất ưu việt của chế độ ta, đặc biệt là phải quan tâm đến một bộ phận dân cư ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn đang bị đói nghèo, đang sống trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt...". - Trích Kỷ yếu Hội nghị triển khai công trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và chương trình phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa, trang 29. Cũng tại hội nghị này Đồng chí tổng bí thư Lê Khả Phiêu phát biểu: "... Thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo tức là chúng ta thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch, thực hiện Nghị quyết của Trung ương VI (lần 1), Nghị quyết của Bộ chính trị về nông nghiệp nông thôn, đó vừa là trách nhiệm vừa là tình cảm chân thành của chúng ta đối với bộ phận dân nghèo...". - Trích kỷ yếu (như trên) trang 27. Từ Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VII) Đảng ta đã đề ra chủ trương xoá đói, giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu khoá VIII của Đảng một lần nữa đã nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của xoá đói, giảm nghèo, đã xác định phải nhanh chóng đưa các hộ đói nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu hiện nay và sớm hoà nhập với sự phát triển chung của đất nước. 2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước hết là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xoá đói giảm nghèo và tạo tiền đề để xoá đói giảm nghèo bền vững. Đây là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước ta, hợp với quy luật khách quan của phát triển kinh tế - xã hội trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Muốn thực hiện tốt chủ trương này cần phải kết hợp chương trình xoá đói giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, giảm dần khoảng cách về mức sống giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, nâng cao chất lượng cuộc sống. 3. Quan điểm xoá đói giảm nghèo trên cơ sở phát huy nội lực của người nghèo, xã nghèo tự vươn lên thoát khỏi nghèo đói, kết hợp với sự hỗ trợ của nhà nước và cộng đồng, đồng thời tranh thủ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hợp tác quốc tế để đẩy nhanh xoá đói giảm nghèo vững chắc. 4. Quan điểm xoá đói giảm nghèo tập trung vào địa bàn nông thôn nơi chiếm 90% số hộ nghèo đói, xã đặc biệt khó khăn, vùng ATK, khu căn cứ cách mạng, biên giới, hải đảo, đồng bào dân tộc, phụ nữ nghèo. III. Nhân tố ảnh hưởng đến công tác xoá đói giảm nghèo. Có nhiều nhân tố tác động trực tiếp và gián tiếp đến kết quả công tác xoá đói giảm nghèo. Song có thể kể ra những nhân tố chính sau: chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, những chính sách và phương thức tác động thích hợp của nhà nước, sự thay đổi cung cách làm ăn của các hộ nghèo để phát huy nội lực và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế để thu hút ngoại lực là những nhân tố ảnh hưởng đến xoá đói giảm nghèo. 1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước và địa phương là một nhân tố cơ bản xuyên suốt trong phát triển kinh tế - xã hội mà bất cứ giai cấp nào nắm quyền hành nhà nước đều phải đưa ra được cương lĩnh chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội. Đó là kim chỉ nam định hướng cho phát triển kinh tế - xã hội: Đi theo hướng nào? Để phục vụ cho ai? Ai thực hiện nó? Trong bao lâu?...v.v. ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, do đó vấn đề xoá đói giảm nghèo bảo đảm công bằng xã hội là một trong những mục tiêu chính trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng, nhà nước. Xoá đói giảm nghèo là điểm nổi bật thể hiện chính sách kinh tế gắn với cuộc sống xã hội. Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị - xã hội trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân (như đã phân tích ở phần trên). Một chiến lược tốt không chỉ thu hút sự quan tâm của cả dân tộc, thu hút được cộng đồng quốc tế một cách thường xuyên mà còn phải được thể chế thành những chương trình phù hợp thiết thực có căn cứ. Điều quan trọng nhất là: thận trọng trong việc hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô nhằm xử lý đồng thời hai vấn đề kinh tế trì trệ và nghèo đói, phải giải quyết từng bước vững chắc đồng thời hai mục tiêu, tăng trưởng kinh tế và chống nghèo đói bằng các chương trình đồng bộ và thiết thực. 2. Những chính sách và phương thức tác động: Những chính sách và phương thức tác động thích hợp của nhà nước để xoá đói giảm nghèo có ý nghĩa thiết thực: Người nghèo giảm bớt được đói nghèo, xã hội giảm bớt được sự chênh lệch giàu nghèo quá thái, vì thế: tài chính tiền tệ, đầu tư, tự do hoá thương mại với tỷ giá cạnh tranh, hạn chế và đi tới không phân biệt đối xử với người lao động, đối với các hình thức sản xuất kinh doanh, ưu tiên đầu tư hỗ trợ tài chính, cũng như đảm bảo chi tiêu xã hội cho vùng nghèo, khó khăn. Nhờ đó mà các đối tượng nghèo đói có các cơ hội về thu nhập, giảm bớt nghèo đói cho chính mình và cho xã hội. Cùng với sự tác động về chính sách vĩ mô ,vấn đề phương thức tác động thông qua các công cụ như: Thuế, giá cả, cải thiện cơ sở hạ tầng, chuyển giao công nghệ, ...v.v... còn giúp người nghèo có cơ hội tiếp cận các nguồn lực. Vì thực tế hộ đói nghèo thường khó tiếp cận các nguồn lực, dẫu rằng có nhiều nguồn lực tuy sẵn có, mà tiếp cận và kiểm soát các nguồn lực là yếu tố then chốt của xoá đói giảm nghèo. Do đó, phương thức tác động của nhà nước là cầu nối giữa các nguồn lực với những người nghèo trong xã hội. Đây là những nhân tố ảnh hưởng thể hiện rõ vai trò chính sách và phương thức tác động thích hợp của nhà nước trong điều hành kinh tế vĩ mô để phát huy nội lực. 3. Vai trò của các tổ chức quốc tế: Tác động hiệu quả đến xoá đói giảm nghèo, cần phải nhận thức đầy đủ vai trò của các tổ chức quốc tế. Nhất là đối với các nước kém phát triển. Đối với nước ta điều đó càng có ý nghĩa. Đành rằng sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế không thể thay thế được nội lực bên trong của đất nước, nhưng rõ ràng và thực tế trong những năm đổi mới ở nước ta đã khẳng định: sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế theo các chương trình dự án: Chuyển giao công nghệ - môi trường sinh thái - chuyển sang dinh dưỡng trẻ em Việt Nam đã có tác động tích cực. Vì thế vấn đề hoàn thiện các thể chế pháp lý, thể chế hành chính, tạo môi trường thuận lợi để thu hút các tổ chức quốc tế tham gia vào chương trình xoá đói giảm nghèo là giải pháp thực tế góp phần xoá đói giảm nghèo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc18.doc
Tài liệu liên quan