Đến nay, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Chúng ta đang khơi dậy và phát huy mạnh mẽ sức mạnh nội sinh, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chúng ta cũng cố gắng thu hút các nguồn đầu tư, viện trợ nước ngoài và sử dụng chúng một cách hợp lý, kịp thời, có hiệu quả.
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, trong chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, vốn ODA không thể thay thế được vốn trong nước, mà chỉ là “chất xúc tác”, tạo điều kiện để khai thác tối đa và có hiệu quả mọi nguồn vốn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá và hiệu đại hoá đất nước.
Hơn nữa, kinh nghiệm thu hút sử dụng vốn từ bên ngoài của nhiều nước trên thế giới cho thấy không phải lúc nào ODA cũng mang lại hiệu quả tốt. ODA có hai mặt, nếu sử dụng khéo sẽ hỗ trợ thật sự cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Nếu ngược lại sẽ dẫn đến hậu quả gánh nặng nợ nần khó trả cho nhiều thế hệ. Trong một số trường hợp, viện trợ đã không làm giảm được tình trạng nghèo khổ, mà trái lại có khi nó còn làm trầm trọng thêm tình trạng này do tệ quan liêu, tham nhũng, cũng như việc xử lý và phân bổ không hợp lý nguồn viện trợ ở các nước nhận viện trợ. Vấn đề đặt ra là làm sao khai thác được mặt tốt của ODA và đồng thời cũng hạn chế được tác động và hậu quả không tốt của nó.
Đề tài: "Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005". Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức đồng thời đánh giá khái quát thực trạng quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ở Việt Nam trong những năm qua.
48 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1110 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đến nay, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Chúng ta đang khơi dậy và phát huy mạnh mẽ sức mạnh nội sinh, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, chúng ta cũng cố gắng thu hút các nguồn đầu tư, viện trợ nước ngoài và sử dụng chúng một cách hợp lý, kịp thời, có hiệu quả.
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, trong chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là một trong những nguồn vốn nước ngoài có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, vốn ODA không thể thay thế được vốn trong nước, mà chỉ là “chất xúc tác”, tạo điều kiện để khai thác tối đa và có hiệu quả mọi nguồn vốn phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá và hiệu đại hoá đất nước.
Hơn nữa, kinh nghiệm thu hút sử dụng vốn từ bên ngoài của nhiều nước trên thế giới cho thấy không phải lúc nào ODA cũng mang lại hiệu quả tốt. ODA có hai mặt, nếu sử dụng khéo sẽ hỗ trợ thật sự cho công cuộc phát triển kinh tế - xã hội. Nếu ngược lại sẽ dẫn đến hậu quả gánh nặng nợ nần khó trả cho nhiều thế hệ. Trong một số trường hợp, viện trợ đã không làm giảm được tình trạng nghèo khổ, mà trái lại có khi nó còn làm trầm trọng thêm tình trạng này do tệ quan liêu, tham nhũng, cũng như việc xử lý và phân bổ không hợp lý nguồn viện trợ ở các nước nhận viện trợ. Vấn đề đặt ra là làm sao khai thác được mặt tốt của ODA và đồng thời cũng hạn chế được tác động và hậu quả không tốt của nó.
Đề tài: "Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005". Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm hệ thống hoá các vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức đồng thời đánh giá khái quát thực trạng quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ở Việt Nam trong những năm qua.
Nội dung
I - tình hình sử dụng và quản lý ODA ở Việt Nam
giai đoạn 1993-2000
1. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển ODA ở Việt nam.
1.1.Thời kỳ trước năm 1993.
a. Các mốc chính .
Ngoài quan hệ viện trợ truyền thống với khối các nước XHCN Đông âu duy trì cho đến trước khi Liên Xô (cũ) tan rã vào đầu thập niên 90, bức tranh về viện trợ bên ngoài của Việt Nam còn được xác định ở các mốc sau:
1969: bắt đầu quan hệ viện trợ Thuỵ Điển
1975: thiết lập quan hệ viện trợ với Nhật Bản , thời gian này , viện trợ tiếp nhận chủ yếu dưới dạng hàng hoá như bông vải sợi , hoá chất .
1977: quan hệ chính thức với hệ thống các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc bao gồm UNDP, IFAD, GEF, ILO, UNCDE, UNDCP, UNESCO, UNICEF, IMF, WB, WHO, UNHCR, UNFPA, UNIDO (một số tổ chức trực thuộc hệ thống này đến Việt Nam sớm hơn, ví dụ như WFP hay PAM -Chương trình lương thực thế giới vào Việt Nam từ 1974-1975 để thực hiện các chương trình viện trợ lương thực)
1978: quan hệ với một số tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF hay chính phủ như Nhật Bản bị gián đoạn do sự kiện Campuchia và sau này là thời kỳ Mỹ cấm vận Việt Nam. Từ thời gian này cho đến cuối thập niên 80, viện trợ bên ngoài nhận được chủ yếu từ khối XHCN cũ và chấm dứt hoàn toàn vào đầu thập niên 1990 sau khi Liên Xô (cũ) tan rã. Hai tổ chức viện trợ duy nhất còn lại là UNDP và SIDA Thuỵ Điển với mức hạn chế không đầy 1% GDP.
1993: quan hệ viện trợ chính thức được nối lại, đánh dấu bằng hội nghị CG đầu tiên tại Paris (11/1993). Hội nghị này đã ghi nhận sự hoà nhập hoàn toàn trở lại của Việt Nam với cộng đồng tài trợ quốc tế và sự thừa nhận của cộng đồng này đối với các nỗ lực cải cách kinh tế và mở cửa của chính phủ Việt Nam .
b.Tình hình sử dụng vốn ODA .
ODA được sử dụng trong hầu hết các ngành kinh tế lớn của quốc gia , và tập trung chủ yếu vào các ngành nhằm phát triển hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội như năng lượng, giao thông vận tải, y tế, giáo dục, thuỷ lợi, cấp thoát nước. Ngoài ra, một phần không nhỏ nguồn vốn ODA (chiếm khoảng 15% tổng số vốn) được sử dụng dưới dạng các hỗ trợ kỹ thuật nhằm tăng cường năng lực cho các cơ quan khác nhau của Chính phủ, tiến hành các cuộc nghiên cứu chương trình, dự án phát triển, nghiên cứu khoa học, khảo sát, điều tra cơ bản, v.v. Các hỗ trợ kỹ thuật này trên thực tế đã có tác dụng quan trọng góp phần cho cải cách kinh tế, phát triển thể chế, cải cách hành chính và đào tạo đội ngũ cán bộ cho giai đoạn chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường.
Bên cạnh những thành tựu đạt được việc sử dụng nguồn vốn ODA thời gian này nói chung không đạt được chỉ tiêu, kế hoạch đề ra nên Việt Nam đã bị rơi vào tình trạng không trả được nợ, bị mất tư cách thành viên trong ADB, WB, IMF và không được vay nợ khác.
Đặc biệt sau sự kiện Campuchia năm 1979 Mỹ cấm vận Việt Nam và các tư bản khác đóng cửa.
1. 2. Thời kỳ từ 1993 đến nay .
Sự sụp đổ của hàng loạt các nước Đông âu ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế của các nước nhận viện trợ đặc biệt trong đó có Việt Nam.
Trong bối cảnh thế giới như thế, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 Chính phủ Việt Nam đã thay đổi đường lối phát triển kinh tế, đặc biệt là chính sách đối ngoại, Chính phủ đã mở cửa làm bạn với các nước trên thế giới.
Công cuộc cải cách và mở cửa do Chính phủ khởi xướng đem lại các kết quả tích cực: tăng trưởng kinh tế cao và ổn định trong một thời gian dài (cho đến trước cuộc khủng hoảng tài chính Châu á), thu hút đầu tư nước ngoài mạnh mẽ, sự phát triển nhanh chóng của các thành phần kinh tế và tăng thu nhập cho nhân dân.
Việc xây dựng các chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 1991-2000 và chiến lược 2001-2010 mới được thông qua tạo cơ sở cho việc định hướng thu hút ODA từ phía Chính phủ Việt Nam cũng như cơ sở cho các nhà tài trợ xác định chiến lược viện trợ của mình .
Kết quả nhìn thấy được là sự tăng dần mức cam kết của cộng đồng các nhà tài trợ trong thời gian qua...
II. Đánh giá tình hình cam kết và sử dụng ODA giai đoạn 1993 - 2000
2.1. Đánh giá về động thái chung của ODA
-Cam kết và ký kết .
Bảng 1: Tình hình cam kết và ký kết ODA giai đoạn 1993-2000
Đơn vị: Tỷ USD
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
Cam kết
1,81
1,94
2,26
2,43
2,40
2,20*
2,1**
2,4
17,54
Ký kết
2,079
1,656
1,798
2,276
1,421
1,659
1,705
12,6
Nguồn: Báo cáo tình hình ODA năm 2000 của Vụ Kinh tế Đối ngoại- Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Ghi chú:
(*) chưa kể 0,5 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế
(**) chưa kể 0,7 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế
-Tổng nguồn ODA được cam kết trong thời kỳ 1993-2000 đạt 17,54 tỷ USD với xu thế cam kết năm sau cao hơn năm trước. Kể cả những năm tình hình tài chính của một số nhà tài trợ gặp khó khăn. Trị giá các chương trình, dự án ODA được ký kết đạt hơn 10 tỷ USD, chiếm gần 70% tổng vốn cam kết.
-Tình hình giải ngân nguồn ODA có tiến bộ dần qua các năm trong thời kỳ1993 - 2000, đạt hơn 8,01 tỷ USD, chiếm hơn 40% so với nguồn ODA đã được cam kết.
Bảng 2: Tình hình giải ngân ODA giai đoạn 1993-2000
Đơn vị: tỷ USD
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
Cam kết
1,810
1,940
2,260
2,430
2,400
2,200
2,210
2,400
17,540
Thực hiện
0,413
0,725
0,737
0,900
1,00
1,242
1,350
1,650
8.017
Nguồn: Báo cáo tình hình ODA năm 2000 của Vụ Kinh tế Đối ngoại- Bộ Kế hoạch &Đầu tư
-Mức giải ngân ODA bình quân 1 năm trong thời kỳ1996 - 2000 ước đạt khoảng 1,1 tỷ USD, như vậy mới đạt khoảng hơn 70% kế hoạch đề ra cho thời kỳ 5 năm này(theo kế hoạch 1996 - 2000, cần thực hiện 7 - 8 tỷ USD vốn ODA).
-Số lượng các nhà tài trợ trong giai đoạn vừa qua đã tăng lên đáng kể. Theo đánh giá của UNDP, hiện nay đang có trên 45 nhà tài trợ song phương và đa phương chính thức hoạt động tại Việt Nam. Ngoài ra còn có trên 350 các tổ chức phi chính phủ (NGO).
Sắp xếp theo giá trị ODA cam kết tại Hội nghị Nhóm tư vấn năm 1999, hiện có 11 nhà tài trợ lỡn xếp theo thứ tự là;Nhật bản, WB, Ngân hàng Phát triển Châu á; các tổ chức LHQ; Pháp; Tây Ban Nha; Cộng hoà Liên bang Đức; Thuỵ Điển: ôxtrâylia; Đan Mạch; Uỷ ban châu âu.
Trong số các nhà tài trợ nói trên Nhật Bản, WB, Ngân hàng Phát triển Châu á, đã nổi lên là ba nhà tài trợ hàng đầu và tổng số vốn ODA giải ngân thời kỳ 1993 - 1998 chiếm hơn 45% tổng tất cả các khoản giải ngân trong thời kỳ này.
-Hình thức cung cấp ODA trong thời gian qua khá phong phú, trên đại thể có thể chia thành hai nhóm lớn:
Nhóm 1: Bao gồm các chương trình với những hoạt động trong một lĩnh vực cụ thể, ví dụ: Chương trình dân số và sức khoẻ sinh sản; Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn... Các tổ chức LHQ thường cung cấp ODA dưới dạng các chương trình với một chu kỳ nhất định, ví dụ Chương trình dân số và sức khẻo sunh sản của UNFPA chu kỳ 1996 –2000...
Chương trình cũng còn được cung cấp gắn với khung Chính sách để hỗ trợ thực hiện các biện pháp cải cách kinh tế. Ví dụ, Chương trình hỗ trợ phát triển khu vực tư nhân (sáng kiến Miyazawa), Chương trình công nghiệp và quản lý công ty (ADB), Chương trình ESAP (IMF) và SAC-1 (WB)...Đây là các chương trình giải ngân nhanh và vừa qua đã có đóng góp đáng kể hỗ trợ ngân sách của Việt Nam.
Nhóm 2 bao gồm các dự án. Đây là hình thức cung cấp ODA chủ yếu và phổ biến ở Việt Nam hiện nay. Được chia làm hai loại:
(i)Dự án hỗ trợ kỹ thuật nhưng dự án này mang lại cho Việt Nam kiến thức, công nghệ ,kĩ năng quản lý và một số trang thiết bị cần thiết đóng góp vào việc tăng cường năng lực của con người ,phát triển thể chế. Một số lượng đáng kể hỗ trợ kỹ thuật cũng đã được sử dụng để chuẩn bị các dự án đầu tư.Tỷ trọng các khoản hỗ trợ kĩ thuật trong tổng giải ngân các dự án ODA đạt khoảng trên 30% năm 1998.
(ii) Dự án đầu tư: Các dự án này thường có nội dung chủ yếu gắn với đầu tư xây dựng cơ bản tạo ra hạ tầng phần cứng cho nhiều lĩnh vực kinh tế, xã hội quan trọngcủa Việt Nam trong thời gian qua, trước hết là giao thông (đường bộ, cảng, cầu); điện (các nhà máy nhiệt điện và thuỷ điện, đường dây tải điện và hệ thống phân phối); nông nghiệp (trạm bơm, đê,...); thuỷ sản (cảng cá); môi trường (các hệ thống cấp, thoát nước): đào tạo (phát triển hệ thống giáo dục tiểu học, trung học, đại học, dạy nghề); y tế (bệnh viện...)...
Có thể nhận thấy rằng cơ cấu ODA trong những năm quachuyển dịch theo hướng tăng nhanh các dự án đầu tư cho cơ sở hạ tầng công cộng, các dự án đầu tư chiếm 50% tổng giải ngân trong thời kỳ vừa qua và hơn 60% trong năm 2000. Tỷ trọng này sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tới đây khi hàng loạt các dự án đầu tư bằng nguồn ODA đi vào giai đoạn kết thúc xây dựng.
-Phương thức cung cấp ODA có hai loại:
ODA không hoàn lại và
ODA vốn vay
Tỷ trọng bình quân ODA không hoàn lại trong thời gian qua chiếm khoảng15% tổng nguồn ODA cam kết. ở Việt Nam tỷ trọng này tương đối thấp so với một số nước đang tiếp nhận ODA khác. Đa phần các nhà tài trợ đang hoạt động ở Việt Nam hiện nay cung cấp đồng thời cả ODA hoàn lại và ODA vốn vay. Có nhận xét rằng trong ODA vốn vay nhiều nhà tài trợ áp dụng các điều kiện có ràng buộc (phải mua thiết bị, vật tư, dịch vụ tư vấncủa nước cung cấp ODA vốn vay).
-Cơ cấu sắp xếp ODA về mặt địa lý ngày càng trở nên cân đối hơn, phù hợp với ưu tiên và chú trọng của Chính phủ Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông thôn và xoá đói giảm nghèo. Theo UNDP, tỷ lệ nguồn vốn ODA giải ngân cho các khu vực ngoài thành phố chính tăng từ29% năm 1995 lên 52% năm 2000.
Tóm lại trong thời kỳ 1993 - 2000 chiến lược và chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam đã giành được sự dồng tình và hỗ trợ của cộng đồng tài trợ quốc tế thông qua việc cung cấp viện trợ phát triển cho Việt Nam. Việc sử dụng ODA trong thời gian qua phù hợp với những ưu tiên phát triểncủa Chính phủ Việt Nam và về cơ bản có hiệu quả và đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam.
2.Đánh giá về cơ cấu ODA.
2.1.Đánh giá về cơ cấu ODA theo ngành.
Bảng 3:Cơ cấu ngành trong tổng giá trị các Hiệp định đã ký kết
thời kỳ 1993-2000
Ngành
Tỷ lệ (%)
Tổng số
100
Năng lượng điện
24,22
Giao thông vận tải
27,49
Nông, lâm, thuỷ sản, thuỷ lợi
12,74
Y tế, xã hội, giáo dục - đào tạo, khoa học
11,87
Cấp, thoát nước
7,81
Các ngành khác
10,32
Hỗ trợ ngân sách
5,55
Biểu đồ 1:
Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình sử dụng ODA giai đoạn 1993 – 2000- Vụ Kinh tế Đối ngoại – Bộ Kế hoạch & Đầu tư
Từ năm 1993 đến hết năm 2000, nguồn vốn ODA đã được sử dụng và có tác động vào các ngành như sau:
(i) Năng lượng điện: khoảng 24% (tương đương 3tỷ USD) nguồn vốn ODA đã ký kết được sử dụng cho ngành điện, trong đó có 5 nhà máy điện lớn (Phú mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận - đa Mi, Sông Hinh, Phả lại 20 có tổng công suất lắp đặt chiếm hơn 705 tổng công suất điện Việt Nam dự kiến phát triển trong 5 năm1996 – 2000, tổng công suất phát điện sẽ tăng thêm 3403 MW, bằng tổng công suất cả nước từ trước cho tới năm 1995. Ngoài phát triển nguồn điện, hệ thống đường dây tải điện và lưới điện phân phối, các trạm biến thế cũng được quan tâm. Một số dự án dã hoàn thành hiện đang có tác dụng tích cực, góp phần cải thiện đời sống của nhân dân.
(ii) Khoảng 27,5% (3,4 tỷ USD là giá trị nguồn vốn ODA trong tổng số vốn ODA ký kết được sử dụng cho nhiều công trình giao thông chủ chốt của nền kinh tế Việt Nam như Quốc lộ 1, Quốc lộ 5, Quốc lộ 18, xây dựng cầu mỹ thuận, cải tạo cảng Hải Phòng, cảng Sài Gòn, nhiều cầu trên Quốc lộ 1A và đường sắt Thống Nhất, phát triển giao thông nông thôn…Cứa tạo nâng cấp khoảng 3100 Km đường tỉnh lộ và khoảng 14000 Km đường nông thôn, làm mời được 70 câù lớn với tổng chiều dài là 15634 m. Nhiều công trình, dự án đã hoàn thành đang phát huy tác dụng tích cực, phục vụ nhu cầu thiết thực của người dân (cơ hội tăng thu nhập cho người dân, đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm và tiếp cân nhanh với các dịch vụ xã hội cơ bản).
(iii) Phát triển nông nghiệp, nông thôn và miền núi (bao gồm cả thuỷ sản): tổng giá trị nguồn vốn ODA đạt 1,6 tỷ USD, chiếm 12,74%tổng giá trị nguồn vốn ODA ký kết. Nguồn vốn ODA được thực hiện thông qua một loạt các dự án phát triển cà phê, chè; trồng rừng; xây dựng các cảng cá; phát triển chăn nuôi; thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo và phát triển cơ sở hạ tầng ở nhiều tỉnh nghèo. Một số hệ thống thuỷ lợi lớn ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam đang đuợc khôi phục và phát triển…Nhìn chung các chương trình, dự án, đặc biệt là các dự án xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, thời gian qua đã thực sự đem lại những lợi ích trực tiếp cho những người dân nghèo trên khắp cả nước, cải thiện đáng kể đời sống văn hoá và tinh thần của đồn bào.
(iv) Nguồn vốn ODA đã hỗ trợ đáng kể, chiếm 11,87% (tương đương 1,4 tỷ USD) vào lĩnh vực y tế, xã hội, giáo dục và đào tạo v.v…Cải thiện, cung cấp nước sinh hoạt tại các thành phố, thị xã và các vùng nông thôn, miền núi là lĩnh vực ưu tiêncao trong sử dụng ODA Các chương trình, dự án về vệ sinh môi trường và cấp nước sinh hoạt của UNICEF, và một số nhà tài trợ song phương (Phần Lan, ôxtrâylia, Đan Mạch…) đã cải thiện rõ rệt việc cung cấp nước. Đến nay hầu hết các thành phố, thị xã của các tỉnh đã có các dự án ODA về phát triển hệ thống cung cấp nước sinh hoạt…Các chương trình học bổng từ nguồn vốn ODA của các nhà tài trợ đã giúp đào tạo cho Việt Nam một đội ngũ các cán bộ, sinh viên, học sinh có trình dộ cao về chuyên môn và ngoại ngữ, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đáng kể nhất là các trường học ở các vùng lũ được xây dựng bằng nguồn vốn ODA đã phát huy tác dụng rất tích cực trong thời gian qua, khi thiên tai lũ lụt liên tiếp xảy ra.
(v) Nguồn ODA cũng góp phần hỗ trợ đáng kể nhằm thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế (các khoản tín dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế mở rọng, quỹ Miyazawa…). Các chương trình giải ngân nhanh thời gian qua, đã góp phần tích cựcphát triển môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, góp phần giữ vững ổn định kinh tế.
2.2.Cơ cấu ODA theo lĩnh vực.
Hệ thống phân tích hợp tác phát triển (DCAS) của UNDP Xác định 16 ngành và 73 phân ngành và bao gồm gần 16000 bản ghi được xây dựng dựa trên số liệu do cộng đồng quốc tế cung cấp. Trong phạm vi bài viết này, các ngành và phân ngành đó được chia lại thành sáu lĩnh vực lớn (i) những công trình hạ tầng lớn, (ii) phát triển con người, (iii) phát triển nông thôn, (iv) hỗ trợ chính sách và thể chế, (v) tài nguyên thiên nhiên và phát triển công nghiệp, và (vi) cứu trợ khẩn cấp.
2.2.1. ODA phục vụ cho phát triển hạ tầng kinh tế.
Kinh phí ODA ngày càng được sử dụng nhiều hơn cho các chương trình và dự án lớn về cơ sở hạ tầng. Tỷ trọng ODA trong lĩnh vực này từ chỗ chỉ chiếm khoảng 15% tổng nguồn vốn ODA vào năm 1994 - 1995 đã nhanh chóng tăng lên tới 56% (741 triệu USD) vào năm 1999 và đạt trên 60% năm 2000. Điều đó phù hợp với những dự kiến to lớn của Chính phủ đề ra trong Chiến lược Phát triển Kinh tế -Xã hội 10 năm (2001-2010) cũng như chiến lược của các ngành trong thập kỷ tới .Mặc dù đã tăng cường đáng kể các dịch vụ cơ sở hạ tầng trong những năm 1990, song mức tiêu thụ năng lượng, cơ sở hạ tầng về thông tin liên lạc và các dịch vụ thông tin của Việt Nam vẫn dưới mức trung bình của các nước có thu nhập thấp.
Với 3,4 tỷ USD (27,5% nguồn vốn ODA), ngành giao thông vận tải lại được xếp thứ hai về mức đầu tư kinh phí ODA trong năm 2000. Không dưới 85% các chương trình do một số ít nhà tài trợ cung cấp, cụ thể là JIBIC (95 triệu USD), ADB (61 triệu USD) và WB (50 triệu USD). Cả ba nhà tài trợ này đều giải ngân nhiều hơn so với năm 1998. Đại bộ phận các khoản đầu tư này vẫn được tập trung cho các công trình xây dựng đường quốc lộ số 1, 5 và 18 cũng như các chương trình khôi phục cầu, như trên quốc lộ 1A và đường sắt Thống nhất. Tuy nhiên, hệ thống đường nông thôn sử dụng trong mọi điều kiện thời tiết hiện còn trong tình trạng kém phát triển và vẫn chưa được các nhà tài trợ quan tâm nhiều.
Ngành năng lượng chiếm hơn một nửa nguồn vốn đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng lớn. Lượng ODA giải ngân cho lĩnh vực này trong năm 2000 là 3tỷ, chiếm 24% tổng nguồn vốn ODA. Các dự án ODA chủ yếu tập trung cho việc xây dựng các nhà máy. Những công trình đầu tư này thường đi kèm với các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật nhằm cải thiện và tăng cường năng lực các hệ thống cung cấp điện. Phần lớn các nguồn vốn ODA này thuộc về các dự án của Nhật Bản.
Bên cạnh các ngành giao thông, năng lượng, ngành thuỷ lợi cũng là một ngành được đầu tư kinh phí ODA cao trong năm 2000 (12,74%).
Lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường vẫn thường được cung cấp 1/8 tổng nguồn vốn ODA vào giữa những năm 1990, song tỷ trọng ODA cho lĩnh vực này đã giảm xuống còn 5% vào cuối thập kỷ. Tuy nhiên, mức giải ngân tuyệt đối từ năm 1998 trở về trước khá ổn định (khoảng 50 triệu USD) nhưng đã tăng vọt lên gần 70 triệu USD vào năm 1999 và chiếm tới trên 105 triệu USD vào năm 2000. Lượng kinh phí này được phân bổ trong phạm vi khoảng 50 dự án (chủ yếu là cấp vùng) với sự hỗ trợ của rất nhiều nhà tài trợ song phương. Ngoài ADB, cung cấp 1/3 nguồn vốn ODA, hầu như các tổ chức đa phương khác đều không tham gia vào lĩnh vực này. Vẫn còn nhiều việc phải làm, như các cuộc điều tra chính thức cho thấy mới có khoảng một nửa số dân Việt Nam được cấp nước sạch và các phương tiện vệ sinh có hiệu quả .
Cuối cùng, các chương trình phát triển đô thị được cung cấp 18,9 triệu USD trong năm 2000, phần nào ít hơn so với năm trước đó. Trước tình hình mức độ đô thị hoá ngày càng tăng, dự tính 1/3 dân số sẽ sống ở các khu vực thành thị vào năm 2010.Hy vọng lĩnh vực này sẽ được các nhà tài trợ chú ý giúp đỡ nhiều hơn trong tương lai. Hiện nay hầu hết các kinh phí viện trợ được chi cho các hệ thống thoát nước ở Hà Nội (do JIBIC tài trợ) và thành phố Hồ Chí Minh (do Thuỵ Sỹ tài trợ). Những dự án này giúp Chính phủ thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ dân số ở thành thị được cung cấp nước sạch từ 65-70% trong năm 2000 lên tới 80-85% vào năm 2010.
Có ý kiến cho rằng trong tương lai các nhà tài trợ quốc tế như JIBIC , WB, ADB, Thuỵ Điển và các nhà tài trợ song phương khác sẽ không tiếp tục đầu tư nhiều vào các dự án cơ sở hạ tầng nữa. Chiến lược trung hạn của họ sẽ chuyển sang đầu tư nhiều hơn cho các hoạt động xoá đói giảm nghèo trực tiếp và tăng cường khả năng vươn tơí các vùng sâu, vùng xa, đồng thời giảm mức độ đầu tư cho các dự án xây dựng nhà máy nhiệt điện và các dự án khác mà khu vực tư nhân có thể sẵn sàng tài trợ. Trong chiến lược này, các nhà tài trợ còn thể hiện mạnh mẽ hơn ý thức sẵn sàng hỗ trợ khuyến khích đầu tư của tư nhân thông qua các cơ chế đảm bảo và tăng cường các hoạt động tín dụng (Ngân hàng Thế giới /ADB/UNDP, 2000). Điều này có thể tạo ra một khoảng cách lớn giữa nhu cầu đầu tư của quốc gia và hỗ trợ đầu tư trực tiếp của các nhà tài trợ quốc tế, ít ra là trong giai đoạn ban đầu.
2.2.2.Phát triển con người.
Trong năm 1997-1998, lĩnh vực phát triển con người có mức giải ngân ODA lớn thứ ba, chỉ ít hơn một chút so với lĩnh vực phát triển nông thôn. Năm 1999, lĩnh vực phát tiển con người lại được xếp ở vị trí thứ hai với mức đầu tư là 207 triệu USD (16% tổng nguồn vốn ODA hàng năm). Trong năm 2000 lĩnh vực phát triển con người có mức giải ngân 1,4 tỷ USD (11,87%). Lý do chính là mức chi tiêu rất lớn cho việc cải tạo bệnh viện Bạch Mai, trong đó JICA viện trợ không hoàn lại 33 triệu USD. Hầu hết nguồn vốn tài trợ trong lĩnh vực phát triển con người được phân bổ cho y tế (107 triệu USD) và Giáo dục - Đào tạo(85 triệu USD). Số kinh phí còn lại (khoảng 15 triệuUSD) được chi cho một loạt các phân ngành phát triển xã hội, như luật pháp xã hội và quản lý hành chính, nhà ở, văn hoá, phòng chống tội phạm và lạm dụng ma tuý, phát triển các phương tiện thông tin đại chúng. Trong giai đoạn 1993-2000, mỗi lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo và y tế tiếp nhận khoảng 0,5 tỷ USD tiền viện trợ, trong đó hầu hết được cung cấp dưới dạng viện trợ không hoàn lại phục vụ cho mục đích hợp tác kỹ thuật độc lập .
Trong một vài năm gần đây chiều hướng giải ngân trong lĩnh vực y tế đã dần dần chuyển từ tiêm chủng và các chương trình phòng chống bệnh khác - với mức tài trợ 11 triệu USD trong năm 2000- sang xây dựng chính sách và lập kế hoạch cho các ngành với mức tài trợ giờ đây lên tới gần 18 triệu USD. Có lẽ chiều hướng này cũng phản ánh thành công của các chương trình quốc gia về chăm sóc sức khoẻ cộng đồng như chiến dịch tiêm chủng .Mặc dù có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, song các chỉ số về sức khoẻ của Việt Nam có thể so sánh với các nước có thu nhập trung bình .Song không thể phủ nhận tình trạng bất bình đẳng khá lớn ở nông thôn và những vấn đề nghiêm trọng mà Việt Nam vẫn phải đối mặt (xem ngân hàng thế giới /ADB/UNDP,2000). Ngoài ra trong năm 1999 - 2000, mức viện trợ cho các hoạt động chăm sóc sức khoẻ sinh sản và kế hoạch hoá gia đình cao hơn 2- 3 lần so với 2 năm trước đó. Một phần lớn kinh phí hỗ trợ cho lĩnh vực này do ADB, WB và Đức cung cấp. Đối với ngành y tế nói chung ,các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc, đặc biệt là WHO, UNFPA và UNICEF, đã cung cấp hơn 14 triệu USD trong năm 2000, trong đó có một phần kinh phí do một số nhà tài trợ song phương đóng góp.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, các tổ chức quốc tế như ADB, WB, và UNICEF tập trung tài trợ cho giáo dục tiểu học và trung học, còn các nhà tài trợ song phương như JICA và AUASID thì tập trung hỗ trợ nhiều hơn cho giáo dục đại học và dạy nghề. Điều được quan tâm đặc biệt là những sáng kiến mới về đào tạo các cán bộ công nghệ tin học trong tương lai, phù hợp với dự kiến của Chính Phủ là chuyển nhanh sang nền kinh tế tri thức .Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu to lớn này cần phải nỗ lực và hỗ trợ nhiều hơn.
Cả hai lĩnh vực giáo dục - đào tạo và y tế đều có một số lượng lớn các dự án đơn lẻ và thường là quy mô nhỏ. Ví dụ trong năm 2000, có hơn 200 dự án về y tế đang được triển khai, đó là chưa kể những dự án do các tổ chức phi Chính phủ trực tiếp hỗ trợ. Trong tổng số hơn 150 dự án góp phần vào con số giải ngân trong năm 2000, thì chưa đến một nửa có tổng mức cam kết trên 1 triệu USD, dẫn đến con số giải ngân tương đối nhỏ qua từng năm .Những dự án đơn lẻ này có thể phát huy tác dụng rất lớn đối với việc cải thiện tình hình sức khoẻ của người dân, nhưng cũng có chi phí giao dịch cao về phía nhà tài trợ cũng như phía cơ quan tiếp nhận viện trợ. Tình trạng manh mún ở mức độ khá cao như vậy đạt ra câu hỏi phải chăng phương thức tiếp cận theo ngành hay theo chương trình phù hợp hơn đối với những ngành này , ngành khác?
2.2.3.Phát triển nông thôn .
Phát triển nông thôn được với mức đầu tư ODA là 12,74% (1,6tỷ USD). Tổng mức giải ngân đã giảm trong giai đoạn 1997-2000. Mặc dù nhiều dự án khác cũng thường phục vụ lợi ích của cư dân nông thôn, song tình trạng giảm sút về mức độ giải ngân ODA này cũng đáng lo ngại trước thực tế là 85% người nghèo sống ở nông thôn và 79% người nghèo làm nghề nông .Một nhu cầu hết sức cấp bách đặt ra là cần phải nâng cao năng suất nông nghiệp cũng như tăng cường cơ hội việc làm phi nông nghiệp, như đã được ghi nhận trong chiến lược phát triển Kinh tế -Xã hội 10 năm cũng như trong chiến lược nghành .
Phần lớn kinh phí viện trợ cho phát triển nông thôn liên quan tới các khoản vay phục vụ cho mục đích tài trợ, tín dụng, cơ sở
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62043.doc