Tiến trình hội nhập đang đến rất gần, các rào cản dần dần được tháo gỡ, thị
trường dần dần đồng nhất và ngày càng công bằng hơn cho các chủ thể tham gia thị
trường. Các thế lực cạnh tranh ngày càng gia tăng áp lực. Nhu cầu thị trường luôn
đa dạng và luôn biến đổi. Muốn tồn tại và phát triển, chúng ta phải dùng công cụ
marketing nhằmhiểu rõ thị trường để từ đó tạo ra, trao đổi và cung cấp giá trị cho
khách hàng. Thật đáng tiếc, Marketing lại không thật sự được vận dụng ở VBH.
Mãi đến cuối năm 2004, trong loạt biện pháp thực hiện các chỉ tiêu đặt ra có
nêu:“Đầu tư đẩy mạnh công tác thị trường để làm tốtcông tác tiêu thụ cho năm
2004 và các năm sau”. Đến nay, công ty vẫn chưa có cách thứccũng như nhân sự
lẫn cơ cấu để thực hiện công tác marketing. Theo tôi, để tiến hành, cần thực hiện
các biện pháp sau:
-Thay đổi nhận thức về marketing. Hiện nay, lãnh đạo công ty vẫn còn quan
niệm sai lầm khi cho rằng Marketing là bán hàng. Tất nhiên bánhàng là một phần
của marketing, nhưng Marketing còn bao gồm rất nhiều điều khác nữa. Marketing
không thể đồng nhất với bán hàng vì Marketing bắt đầu từ rất lâu trước khi công ty
đưa ra một sản phẩm mới. Phải hiểu Marketing là công việc thường nhật của các
giám đốc khi họ phân tích, đo lường mức độ sâu, rộng của các nhu cầu, và xác định
xem có tồn tại một cơ hội thu lợi hay không? Marketing vẫn phải tiếp tục trong suốt
thời gian sản phẩm tồn tại, tìm kiếm khách hàng mới; cải tiến mẫu mã và tính năng
của sản phẩm, rút ra bài học từ kết quả bán hàng và quản lý việc bán hàng cho các
khách hàng thường xuyên.
-“Công ty hóa” hoạt động Marketing. Tất nhiên sẽ có một bộ phận Marketing
nơi đa số các ý tưởng và thực hành Marketing diễn ra. Tuy nhiên, nếu mọi quan
điểm và công việc Marketing chỉ gói gọn trong một phòng ban thì hiệu quả sẽ
không cao. Đơn cử, nếu ngoại trừ phòng Marketing, các phòng ban khác đều không
có cung cách ứng xử tốt với khách hàng thì mọi nỗ lực của bộ phận Marketing đều
không mang lại hiệu quả. Hơn nữa, mỗi phòng ban đều có những chức năng riêng
và đều nằm trong tiến trình tạo ra giá trị gia tăng cho sản phẩm/dịch vụ cung cấp
cho khách hàng.Do vậy, nếu tất cả phòng ban đều tham gia Marketing thì chắc
chắn hiệu quả sẽ cao hơn.
-Cần tiếp nhận Marketing ở cả hai khíacạnh, đó là Marketing chiến lược
(Marketing Strategy) và Marketing chiến thuật(Marketing Tactic) một cách đồng
thời.
Marketing chiến lược giúp chúng ta phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường
mục tiêu, và định vị sản phẩm. Nếu làm tốtcông tác này chúng ta sẽ lựa chọn đúng
một hay nhiều phân khúc mà ở đó công ty có khả năng phát huy năng lực lõi của
mình để làm thị trường mục tiêu.
73 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1192 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty TNHH một thành viên Điện Tử Bình Hòa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ong ngành điện tử
luôn đòi hỏi một chi phí khá lớn mà nếu đơn lẻ sẽ rất khó thực hiện. Việc xác định,
xây dựng và phát triển năng lực lõi là cơ sở vững chắc cho việc lựa chọn thị trường
mục tiêu. Thị trường mục tiêu được lựa chọn dựa trên năng lực lõi sẽ bảo đảm cho
công ty một năng lực cạnh tranh mạnh ngay từ đầu và như vậy sẽ là một tiền đề
bảo đảm cho sự thành công của công ty.
3.5 Nhóm giải pháp về lựa chọn sản phẩm:
Nền tảng của công cuộc kinh doanh là tạo ra một sản phẩm/dịch vụ để chào
bán cho khách hàng và thông qua đó để thu lợi nhuận. Yêu cầu trước tiên của sản
phẩm là thỏa mãn nhu cầu của khách hàng nhưng quan trọng hơn là tạo ra giá trị
cho khách hàng nhiều hơn hẳn các sản phẩm/dịch vụ cùng loại. Đây là một vũ khí
cạnh tranh hữu hiệu. Việc lựa chọn sản phẩm/dịch vụ tùy thuộc vào nhiều yếu tố,
theo tôi để lựa chọn đúng sản phẩm/dịch vụ,VBH cần chú trọng đến những vấn đề
sau:
-Nghiên cứu kỹ ngành điện tử của Việt Nam, của khu vực và cả thế giới để
phát hiện ra các thông tin: (i) sản phẩm;(ii) công nghệ; (iii) dung lượng thị trường và
tốc độ tăng trưởng ngành; (iv) xu hướng phát triển; (v) nguồn cung cấp đầu vào; (vi)
đối thủ chính; (vii) kinh nghiệm của các doanh nghiệp.
-Thông qua chiến lược kinh doanh, năng lực lõi và thị trường mục tiêu đã lựa
chọn để xác định sản phẩm cung ứng.
-Sản phẩm được lựa chọn phải theo hướng ngày càng gia tăng giá trị gia tăng
về công nghệ, về kỹ thuật, về nghiên cứu, thiết kế. Hạn chế dần các sản phẩm chỉ
đơn thuần gia tăng giá trị các yếu tố thâm dụng lao động.
-Chọn sản phẩm là một khâu trong mạng lưới sản xuất điện tử công nghiệp
toàn cầu. Bước đầu tăng cường năng lực sản xuất theo hợp đồng, nhân rộng mô
hình sản xuất theo hợp đồng tương tự như đối với công ty Nemic Lambda
(Malaysia), tiếp đến chuyển sang sản xuất các thiết bị chính (OEMs) và sản xuất
mẫu thiết kế chính.
Việc liên doanh với công ty Texatronics (Mỹ) xây dựng nhà xưởng sản xuất
bảng mạch điện tử (PCBs) theo công nghệ SMT (phần góp vốn của Texatronics) là
việc đầu tư đúng hướng. Do mối quan hệ, kinh nghiệm quản lý; trình độ công nghệ,
khả năng tiếp cận với các nguồn cung cấp cũng như tiêu thụ theo chuẩn quốc tế của
đối tác nước ngoài sẽ là cơ hội để VBH mở rộng năng lực sản xuất, đổi mới và phát
triển công nghệ, tiếp cận với các nguồn đầu vào phong phú, chất lượng cao cũng
như tạo dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, trình độ quản lý nhằm vươn lên trở thành nhà
sản xuất theo hợp đồng (dạng chìa khóa trao tay) hay xa hơn nữa là nhà sản xuất
các thiết bị chính và sản xuất mẫu thiết kế chính.
Việc đầu tư xây dựng phân xưởng sản xuất lõi sắt từ (Ferrite core) tại Hố Nai để
dần dần chủ động một phần bán thành phẩm đầu vào cũng là một hướng đầu tư
đúng. Nếu việc phát triển tốt hy vọng công ty sẽ là nguồn cung cấp lõi sắt từ cho
các doanh nghiệp khác.
Công ty cần nghiên cứu kỹ lại kế hoạch gia tăng doanh số nội địa lên 25% tổng
doanh thu thông qua việc sản xuất các sản phẩm điện dân dụng mà chủ yếu là các
sản phẩm nghe nhìn như đầu VCD-DVD, Tivi, Ampli và máy lạnh … bởi nó thực sự
chưa phải là cơ hội của công ty.
3.6 Nhóm giải pháp nâng cao giá trị gia tăng:
Cơ sở của nhóm giải pháp này là tình trạng năng lực cạnh tranh hiện có của
công ty rất yếu và cấp bách hơn nữa là lộ trình cắt giảm các rào cản thuế quan đã
đến rất gần. Chủ trương của chính phủ là dần dần loại bỏ sự bảo hộ đối với các
doanh nghịệp quốc doanh (cho dù còn có những chính sách hổ trợ ngành). Môi
trường cạnh tranh đang nóng lên từng ngày, không nâng cao năng lực cạnh tranh
cho chính mình cũng như tự mình đào thải khỏi cuộc chơi.
Nội dung của giải pháp đề cập đến những lĩnh vực chủ yếu sau:
3.6.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm:
Để thực hiện việc nâng cao chất lượng sản phẩm, trước hết chúng ta phải làm rõ
được hai khía cạnh về chất lượng, đó là (i) chất lượng chuẩn mực và (ii) chất lượng
vượt trội.
Việc đạt được chất lượng chuẩn mực chỉ là điều kiện cần để tham gia thị trường.
Do vậy bằng mọi nguồn lực công ty phải đạt được chất lượng chuẩn mực. Chất
lượng chuẩn mực có thể đạt được thông qua việc thực hiện những yêu cầu của các
bộ tiêu chuẩn chất lượng quốc tế như ISO9000, ISO14000 …, nhưng quan trọng hơn
là các giải pháp chuyên sâu như : JIT, JOT, TQM, Kaizen … Bước đầu, cần nghiên
cứu các tiêu chuẩn của các hệ thống chất lượng này. Lấy đó làm định hướng thực
hiện việc xây dựng tiêu chuẩn chất lượng của công ty. Qua thời gian rút ngắn dần
khoảng cách về chất lượng của công ty với các hệ thống tiêu chuẩn chất lượng quốc
tế với mục tiêu đạt được chất lượng chuẩn mực. Song song với quá trình này là quá
trình nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm từ các doanh nghiệp trong ngành để hiệu quả
thực hiện tốt hơn, rút ngắn thời gian và giảm chi phí.
Vạch kế hoạch và nêu lộ trình cụ thể để hoàn thành việc đạt được thêm hai bộ
tiêu chuẩn chất lượng quốc tế nữa, đó là hệ thống chất lượng môi trường
(ISO14000) và hệ thống chất lượng về trách nhiệm xã hội (SA8000).
Muốn có tính cạnh tranh cao, VBH phải đạt điều kiện đủ về chất lượng, đó là
chất lượng vượt trội. Đây là yếu tố cốt lõi bảo đảm lợi thế cạnh tranh về mặt chất
lượng. Muốn đạt chất lượng vượt trội, VBH phải luôn luôn đổi mới sản phẩm (tức
cần đầu tư cho việc nghiên cứu và phát triển) để tạo ra sự khác biệt so với đối thủ.
Các công việc cụ thể cần phải thực hiện để đạt được mục đích trên bao gồm:
7 Xác định mục tiêu về chất lượng: Muốn đạt được chất lượng phải cụ thể hóa
mục tiêu chất lượng đó là như thế nào? Phải xây dựng và phổ biến trong toàn công
ty các mục tiêu chất lượng của công ty (thông qua sổ tay chất lượng). Đề nghị các
phòng ban nêu ra các mục tiêu chất lượng cụ thể của mình và các giải pháp để thực
hiện nó. Các mục tiêu chất lượng của các phòng ban phải được xây dựng trên
nguyên tắc cùng thực hiện mục tiêu chất lượng của công ty.
Tổ chức: bao gồm việc thiết lập bộ phận quản lý chất lượng chuyên trách đảm
nhận việc theo dõi, đôn đốc tư vấn việc thực hiện mục tiêu chất lượng của các
phòng ban và tiến hành các cuộc đánh giá chất lượng nội bộ. Xây dựng một cơ cấu
tổ chức để thống nhất các yếu tố kỹ thuật, công nghệ, hành chính, nhân sự, quản lý
sản xuất tài chính … cùng thực hiện mục tiêu.
Xây dựng hệ thống thông tin: Bao gồm thông tin nội bộ và thông tin bên ngoài:
Thiết lập một cơ sỡ dữ liệu và hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu hiện đại. Bảo đảm dữ
liệu cập nhật, chính xác và dễ dàng truy cập. Chú trọng hệ thống thông tin nhằm
quản lý NVL, bán thành phẩm, thành phẩm ở từng công đoạn một cách nhanh
chóng và chính xác. Điều này giúp công ty quản lý tồn kho một cách hiệu quả. Đối
với thông tin bên ngoài, cần thiết lập một nguồn thông tin về công nghệ, về khách
hàng, về nhà cung cấp, về đối thủ cạnh tranh … tổ chức tốt việc thu nhận thông tin
phản hồi từ khách hàng, từ nhà cung cấp và các bên có liên quan như kho vận, thuế,
Hải quan, chính phủ … một cách nhanh chóng để có đối sách hợp lý.
Kiểm soát: Để bảo đảm các mục tiêu chất lượng được thực hiện tốt cần lưu ý các
điểm sau :(1)Mọi mục tiêu, cách thức, nguồn lực thực hiện mục tiêu tùy theo cấp độ
phải được lãnh đạo tương ứng phê duyệt và tổ chức thành bộ tiêu chuẩn cơ sở;
(2)Chất lượng phải được theo dõi trong suốt quá trình từ nguyên vật liệu đầu vào
cho đến sản phẩm đầu ra và cả thời gian sản phẩm được tiêu dùng (hay mức độ
thỏa mãn của khách hàng đối với sản phẩm);(3)Cụ thể hóa, hay định lượng các tiêu
chuẩn chất lượng của mỗi công đoạn, mỗi quá trình để xác định mức độ thực hiện
các mục tiêu chất lượng; (4)Các dụng cụ, thiết bị đo lường phải thật chính xác. Các
phương pháp đánh giá phải khoa học, hiện đại phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
3.6.2 Nâng cao chất lượng thời gian:
Trong quản lý sản xuất, kinh doanh hiện đại, thời gian là yếu tố quan trọng.
Nó quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng thời gian bao
gồm việc đón đầu được trào lưu thị trường (JOT) và đúng ngay lúc mà sản xuất yêu
cầu (JIT).
Muốn thực hiện tốt JOT, VBH cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị
trường, nắm bắt kịp thời nhu cầu thị trường, từ đó lên phương án sản xuất nhanh
chóng. Song song đó cần đẩy mạnh hoạt động bán hàng, hoạt động phân phối để
chắc chắn rằng mọi sản phẩm được khách hàng biết đến và tiện cho họ thực hiện
việc mua bán.
Việc thực hiện JOT của VBH chính là việc tạo điều kiện thuận lợi cho các
khách hàng công nghiệp thực hiện JIT, do vậy nó bao gồm cả chất lượng dịch vụ
(xây dựng cơ chế tiếp nhận đơn hàng, xử lý đơn hàng một cách mau chóng. Bảo
đảm đáp ứng đơn hàng đúng số lượng, đạt chất lượng, ngay thời điểm mà khách
hàng yêu cầu) dành cho khách hàng.
Để thực hiện JIT, VBH cần tiến hành các biện pháp sau(1) Xây dựng hệ thống
thông tin (đã đề cập ở phần nâng cao chất lượng sản phẩm) nhằm quản lý nguyên
vật liệu–bán thành phẩm–thành phẩm nhanh chóng nhằm rút ngắn thời gian chờ
đợi, cũng như làm giảm tỉ lệ tồn kho mỗi công đoạn, hỗ trợ tốt cho công tác lập kế
hoạch sản xuất; (2)Phối hợp hoạt động một cách nhuần nhuyễn, chính xác và nhanh
gọn ở tất cả các công đoạn trong quá trình sản xuất;(3)Thường xuyên mở các lớp
nâng cao tay nghề nhân viên, giáo dục nhân viên tính năng chuyên cần, năng động
và trách nhiệm cao; (4)Chỉ định bộ phận mua (Purchasing) sàn lọc, lựa chọn các
nhà cung cấp uy tín, chất lượng và giá cả hợp lý. Cố gắng mua hàng bằng các điều
kiện nhóm C, D (theo Incorterm 2000) để chủ động lựa chọn phương tiện vận tải
nhằm giảm giá thành và rút ngắn thời gian vận chuyển; (5)Chỉ định bộ phận xuất
nhập khẩu phải thực hiện thông quan hàng hóa ngay trong ngày khi có lệnh giao
hàng từ các hãng giao nhận. Bảo đảm rút ngắn thời gian lưu thông hàng hóa một
cách tối ưu. Tổ chức tốt bộ phận hậu cần, rút ngắn thời gian vận chuyển hàng hóa.
3.6.3 Nâng cao chất lượng không gian:
Như đã nêu ở phần trước, chất lượng không gian rất quan trọng đối với khách
hàng. Việc xây dựng một không gian mang lại sự tiện nghi, sự an toàn về chất
lượng, sự chuyên nghiệp đối với ngành hàng...là rất quan trọng, đặc biệt đối với
khách hàng là người tiêu dùng. Riêng đối với khách hàng công nghiệp, việc tạo
dựng một giao dịch chuyên nghiệp và thân thiện là rất cần thiết. Đây là ấn tượng
đầu tiên quyết định cho các lần giao dịch diễn ra sau này. Do vậy, cần thực hiện
các giải pháp sau:
Thiết kế, chỉnh sửa lại trang web hiện có. Chú ý đến giao diện đồ họa, khả
năng liên kết, tốc độ truy cập, tính cập nhật của thông tin. Sẵn sàng trả lời, cung
cấp thêm các thông tin qua mạng, qua điện thoại, qua tiếp xúc trực tiếp... với khách
hàng ngay khi có yêu cầu.
Dành riêng những line điện thoại cho bộ phận tiếp xúc với khách hàng qua
điện thoại để đảm bảo cho khách hàng dễ thiết lập cuộc gọi.
3.6.4 Nâng cao chất lượng giá cả:
Việc thiết lập các phương pháp định giá một cách bài bản, chuyên nghiệp là rất
cần thiết. Chính sách giá đúng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bán hàng và lợi
nhuận doanh nghiệp. Hiện nay, VBH xác định giá chủ yếu trên cơ sở giá cả các đối
thủ cạnh tranh (các đối thủ mà VBH cho rằng sản phẩm tương đồng với sản phẩm
của công ty) bằng cách định giá bằng hoặc thấp hơn. Việc định giá này dẫn đến hệ
quả là VBH phải có giá thành sản phẩm thấp hơn giá bán của đối thủ và nếu giá
thành có cao hơn thì VBH khi đó sẽ giảm chất lượng sản phẩm để đạt được mức giá
thành thấp hơn. Đây là một phương pháp định giá sai lầm do bởi không chú trọng
đến giá trị gia tăng về mặt giá cả mà khách hàng thu được. Việc định giá có nhiều
phương pháp như: Định giá theo cách cộng lời vào chi phí, định giá theo lợi nhuận
mục tiêu, định giá theo giá trị nhận thức được, định giá theo giá hiện hành … Tuy
nhiên, dù là chọn phương pháp định giá nào, công ty cũng nên chú trọng các vấn đề
sau:
Giá cả phải căn cứ vào giá trị gia tăng mà nó mang lại cho khách hàng. Phải xác
định được mức giá mà ở đó khách hàng cảm nhận rằng giá trị của khách hàng cao
hơn chi phí phải bỏ ra để có sản phẩm/dịch vụ đó và phần thu được này cao hơn đối
thủ.
Giá cả phải căn cứ vào mục tiêu, phí tổn, mức lời, tiêu chuẩn giá cả của đối thủ
cạnh tranh, tình hình kinh tế (tăng trưởng hay suy thoái)
Định giá cần căn cứ vào phương thức thanh toán, thời hạn thanh toán, số lượng
đơn hàng.
Có biện pháp kiểm tra sự móc ngoặc tạo giá giữa nhân viên bán hàng, đại diện
bán hàng với các đại lý, nhà phân phối, với khách hàng.
3.7 Nhóm giải pháp tài chính:
Đầu tư các dự án trong ngành điện tử cần phải có vốn đầu tư rất lớn, đặc biệt là
đối với các công nghệ, dây chuyền sản xuất linh kiện điện tử, các thiết bị chính hay
mẫu thiết kế chính. VBH lại có tiềm lực tài chính yếu :
Năm 2003, lợi nhuận để lại doanh nghiệp là: 1.750.300.058 đ trong đó chia
thành 5 loại quỹ như sau:
-Quỹ phát triển SXKD (50%) : 875.150.029 đ.
-Quỹ dự phòng tài chính (10%) : 175.030.000 đ.
-Quỹ dự phòng mất việc làm (5%) : 87.515.003 đ.
-Quỹ khen thưởng :183.781.056 đ.
-Quỹ phúc lợi : 128.823.514 đ.
Do vậy, muốn thực hiện được chiến lược kinh doanh đề ra, các giải pháp huy
động vốn sau cần được thực hiện:
Đới với các dự án vốn lớn, công nghệ hiện đại mà công ty không đủ năng lực
vốn cũng như trình độ quản lý thì việc lựa chọn giải pháp liên doanh là ưu tiên
hàng đầu. Phần vốn góp của công ty sẽ là hệ thống nhà xưởng, kho tàng, lao động.
Phần vốn của bên liên doanh (chủ yếu lựa chọn các đối tác nước ngoài có uy tín,
trình độ cao về công nghệ, về quản lý) sẽ là máy móc thiết bị, qui trình công nghệ ..
Nên ràng buộc các điều kiện về chuyển giao công nghệ, đào tạo … hay qui định các
loại NVL là sản phẩm của VBH trong hợp đồng liên doanh.
Đối với các dự án có đầu tư không lớn lắm và tính khả thi cao, phù hợp với mục
tiêu chiến lược của công ty thì nên huy động vốn qua các nguồn như: tự đầu tư, vay
vốn tín dụng, tận dụng nguồn vốn vay từ tổng công ty … chú ý không dùng vốn vay
ngắn hạn để đầu tư dài hạn.
Việc thuê mua tài chính các máy móc thiết bị cũng là một giải pháp tốt, nó giúp
công ty không bị áp lực lớn một lần về tài chính và nó cũng thuận lợi cho việc thử
nghiệm dự án để biết chắc khả năng thành công. Đây là vấn đề quan trọng vì công
ty có thể dừng dự án với một mức lỗ chấp nhận được khi mà dự án không thành
công như mong đợi.
Cổ phần hóa công ty là việc làm thiết thực, cần chuẩn bị thực hiện. Cổ phần hóa
giúp công ty huy động vốn với số lượng lớn từ nhiều nguồn khác nhau qua các nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Cổ phần hóa còn giúp công ty hoạt động hiệu quả hơn.
Sáp nhập cũng là một giải pháp tính đến, việc này sẽ giúp công ty mới có nguồn
lực tài chính lớn hơn, qui mô lớn hơn … và khả năng cạnh tranh cao hơn.
Tận dụng nguồn vốn ưu đãi của nhà nước, đặc biệt nguồn vốn vay kích cầu
trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Với chiến lược lựa chọn ngành điện tử là một
ngành công nghiệp mũi nhọn cần tập trung đầu tư, chính phủ đã dành một nguồn
vốn 60.000 tỷ đồng để đầu tư cho ba ngành công nghiệp mũi nhọn: đó là điện tử,
hóa chất, công nghệ sinh học từ đây đến năm 2010. Đây là một cơ hội mà công ty
nên chú trọng tận dụng để tìm nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
3.8 Nhóm giải pháp về công nghệ:
Hoạt động trong ngành mà trình độ về công nghệ là yếu tố chính quyết định sự
thành bại của doanh nghiệp,VBH càng khó khăn hơn khi tụt hậu khá xa về công
nghệ. VBH chưa có khả năng nắm bắt, thậm chí là một công thức nhỏ về sản xuất
linh kiện cho ngành điện tử. Trước thực tế như vậy, việc đề ra các giải pháp và tổ
chức thực hiện các giải pháp là vấn đề rất cần thiết với mục tiêu nâng cao trình độ
công nghệ của công ty lên ngang tầm với trình độ công nghệ của khu vực và thế
giới. Các giải pháp chủ yếu cần thực hiện :
Xây dựng lộ trình cụ thể để tiến hành đổi mới, thay thế các máy móc thiết bị cũ,
chất lượng kém, năng suất thấp bằng các máy móc thiết bị hiện đại sử dụng công
nghệ mới. Khi tiến hành giải pháp này cần lưa ý: (i) Hiệu quả về mặt kinh tế (phải
có thị trường cho các sản phẩm về công nghệ mới, bảo đảm dự án sinh lời ); (ii)
Hiệu quả về mặt công nghệ (đưa trình độ công nghệ của công ty lên một tầm cao
hơn và góp phần vào việc nâng cao trình độ công nghệ của ngành, của đất nước );
(iii) Hiệu quả về mặt chi phí (mua đúng công nghệ cần, trả đúng giá trị công
nghệ ); (iv) Hiệu quả sử dụng (có thể thích ứng với nhiều đời sản phẩm).
Nâng cao trình độ phần mềm của công nghệ. Đó là trình độ quản lý, tiếp nhận
và vận hành công nghệ, là khả năng khai phá và cải tiến công nghệ, từng bước làm
chủ hoàn toàn công nghệ. Việc này đòi hỏi phải nâng cao trình độ của đội ngũ cán
bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật. Bên cạnh đó cần tổ chức thi đua sáng kiến cải tiến
kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tỉ lệ phế phẩm, tiết kiệm các
yếu tố đầu vào, nâng cao năng suất lao động. Có chế độ khen thưởng xứng đáng
cho các giải pháp cải tiến được áp dụng (giá trị giải thưởng có thể là tỉ lệ phần trăm
trên lợi ích bằng tiền mà giải pháp mang lại). Tôn trọng những sáng kiến chưa được
áp dụng. Có như vậy sẽ khuyến khích toàn công ty tham gia cải tiến kỹ thuật.
Tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển với nhiệm vụ là khai phá nhanh chóng
công nghệ mới nhập, rút ngắn thời gian tiếp nhận và làm chủ công nghệ. Thực hiện
các nghiên cứu ứng dụng để cải tiến, tạo mới nhằm gia tăng công nghệ nội tăng
khả năng cạnh tranh cho sản phẩm làm ra. Tham vấn cho các quyết định công nghệ.
Tăng cường mối liên kết giữa các viện nghiên cứu, các trung tâm khoa học công
nghệ đầu ngành, các trường đại học. Đầu tư vào ứng dụng ngay các phát minh, sáng
chế có tính khả thi cao. Ưu tiên cho các phát minh công nghệ nguồn. Làm được
điều này chắc chắn nâng lực cạnh tranh của ta sẽ rất cao, ngang tầm với khu vực và
thế giới.
Bên cạnh các giải pháp trên thì việc liên doanh, hợp tác với các đối tác có công
nghệ cao để tiếp thu công nghệ và làm chủ công nghệ mới là việc cần làm. Do bởi,
giải pháp này giúp ta khắc phục yếu kém về tài chính, về năng lực quản lí, về trình
độ công nghệ cũng như khả năng làm công tác marketing.
3.9 Một số kiến nghị:
Trong tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, yếu tố cạnh tranh sẽ quyết định kết
quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp đều nhận ra rằng việc nâng cao
năng lực cạnh tranh nội tại bằng năng lực chính mình là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, đối
với một ngành công nghiệp, được chọn là ngành mũi nhọn trong chiến lược phát triển đất
nước, còn kém phát triển, năng lực cạnh tranh còn yếu và còn tụt hậu nhiều so với thế giới
như ngành điện tử thì sự hỗ trợ của bộ chuyên ngành, của chính phủ là rất cần thiết.
3.9.1 Kiến nghị đối với tổng công ty:
(1)Cần nghiên cứu và triển khai ngay việc thực hiện cổ phần hóa đối với
công ty TNHH một thành viên điện tử Bình Hòa. Việc cổ phần hóa sẽ giúp cho
VBH huy động thêm vốn để đầu tư phát triển. Cổ phần hóa sẽ giúp VBH có tính
độc lập tương đối và sẽ linh hoạt hơn trước sự biến động của thị trường. Cổ phần
hóa cũng giúp nâng cao năng lực tổ chức quản lý công ty.
(2)Với vai trò điều phối, TCT nên có chiến lược để các công ty thành viên
liên kết với nhau, tổng hợp sức mạnh. Nên tránh đầu tư chồng chéo, cạnh tranh lẫn
nhau, bằng việc phân chia phân khúc thị trường hợp lý. Khuyến khích các công ty
thành viên sử dụng các yếu tố đầu vào là sản phẩm của nhau.
(3)Là người đi sát với thị trường, thông qua Bộ Công Nghiệp tham vấn cho
chính phủ các chính sách hỗ trợ ngành.
3.9.2 Kiến nghị đối với chính phủ:
(1)Đầu tư và phát triển nguồn nhân lực thông qua định hướng đào tạo. Cần
tăng cường đào tạo nghề trong cơ cấu đào tạo. Chú trọng việc phân bổ lực lượng
chuyên gia và các nhà khoa học đang làm việc tại các văn phòng đại diện bộ
trưởng và chính phủ về các nhà máy công nghiệp. Bên cạnh đó cần có chính sách
thông thoáng và ưu đãi để thu hút đội ngũ nhân tài là các chuyên gia Việt kiều
đang làm việc tại nước ngoài.
(2)Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành điện tử. Bao gồm: (i) Thiết lập
và duy trì một cơ sở dữ liệu đầy đủ và cập nhật về ngành điện tử trong nước, khu
vực và cả thế giới; (ii)Ưu tiên khai thác các nguồn khoáng sản là nguyên liệu đầu
vào; (iii)Cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng viễn thông; (iv) Xây dựng và đưa vào
hoạt động nhanh chóng các khu công nghệ cao nhằm thu hút các nhà đầu tư vào
lĩnh vực này; (v)Xây dựng trung tâm tư vấn về công nghệ quản lý.
(3)Cải cách thủ tục hành chính, dẹp bỏ tệ quan liêu, đấu tranh chống tham
nhũng, chú trọng vào các ngành Hải Quan, thuế, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ thương
mại, Bộ tài nguyên và môi trường nhằm làm giảm các chi phí bất hợp pháp mà
doanh nghiệp phải gánh chịu, rút ngắn thời gian lưu thông hàng hóa, nâng cao năng
lực cạnh tranh cho doanh nghiệp.
(4)Chính phủ cần phải nghiên cứu các chính sách để gắn kết việc nghiên cứu
khoa học với thị trường. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp sử dụng được thành tựu
khoa học của các đơn vị nghiên cứu trong nước với chi phí thấp, hiệu quả cao. Đẩy
mạnh hơn nữa chương trình hỗ trợ doanh nghiệp hiện đại hóa với chi phí thấp, nâng
cao năng lực quản lý, hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng.
(5)Khuyến khích và có những chính sách đặc biệt nhằm thu hút các tổ chức
nước ngoài đầu tư vào việc huấn luyện nâng cao chuyển giao công nghệ và chương
trình nghiên cứu phá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42824.pdf