Đề tài Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh

Sựra đời của luật thuếgiá trịgia tăng (GTGT) và luật thuếthu nhập doanh

nghiệp (được thực thi từ đầu năm 1999). Luật thuếGTGT đã khắc phục tình trạng

đánh thuếtrùng. Nhưng hiện tại các doanh nghiệp ngành nhựa đều có kiến nghị đề

nghịChính phủxét giảm 50% mức thuếsuất thuếVAT cho các sản phẩm nhựa;

bỏphụthu 5% đối với nguyên liệu nhựa nhập khẩu.

Năm 1990, Nhà nước thực hiện thí điểm trao quyền quản lý và sửdụng

vốn, trách nhiệm bảo toàn vốn cho DNNN. Năm 1991, mởrộng việc giao vốn nhà

nước và quy định trách nhiệm bảo toàn vốn của doanh nghiệp. Sau khi luật

DNNN được công bố. Chính phủ đã có nghị định số59/CP ngày 3/10/1996 (được

sửa đổi bổsung bằng nghị định số27/1999/NĐ-CP ngày 20/4/1999) ban hành quy

chếquản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với DNNN nhằm thay đổi về

chất trong quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với doanh nghiệp. Đó là

Nhà nước chuyển hình thức cấp vốn (vốn cố định và vốn lưu động) cho từng

doanh nghiệp sang hình thức xác định vốn điều lệcho doanh nghiệp. DNNN được

43

quyền sửdụng vốn, quỹvà thay đổi cơcấu vốn, tài sản đểphục vụphát triển kinh

doanh theo nguyên tắc hiệu quả, bảo toàn và phát triển vốn, được quyền sửdụng

vốn, tài sản thuộc sởhữu của mình đầu tưra ngoài doanh nghiệp (kểcảdoanh

nghiệp không thuộc sởhữu nhà nước); được quyền huy động vốn dưới các hình

thức: phát hành trái phiếu, cổphiếu, vay vốn, nhận vốn, góp vốn liên kết với các

hình thức khác nhưng không làm thay đổi hình thức sởhữu của doanh nghiệp.

Cơchếchính sách trong quản lý chuyên ngành: Tổng Công ty Nhựa Việt

Nam được giao nhiệm vụquản lý toàn ngành song trong thời gian qua nhiều

doanh nghiệp mới ra đời, Tổng Công ty không được tham gia đóng góp ý kiến và

do vậy không nắm bắt được sựtồn tại và phát triển của nhiều doanh nghiệp trong

ngành, hạn chếchức năng quản lý, khó khăn trong đềxuất ý kiến giải quyết các

vấn đềthuộc ngành.

Các doanh nghiệp trong ngành thuộc nhiều thành phần kinh tế(nhà nước,

tưnhân, liên doanh, nước ngoài) do nhiều cơquan chủquản (trung ương, địa

phương) quản lýnên định hướng, quy hoạch và quản lý toàn ngành còn chưa

thống nhật dẫn đến sựphát triển tựphát. Khi thực hiện các luật công ty, luật doanh

nghiệp tưnhân, cơsởsản xuất kinh doanh nào cũng cảm thấy mình bịthua thiệt.

Việc tiến tới đồng nhất hóa hai bộluật này thành một bộluật doanh nghiệp là cần

thiết tạo ra một sân chơi chung trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.

Việc thu thập các sốliệu thống kê chính xác làm cơsởkhoa học cho công

tác hoạch định đầu tưrất khó khăn và thiếu tin cậy vì không có đầu mối cho thống

kê cũng nhưthông tin từcác nhà sản xuất không đầy đủdẫn đến việc diầu tưtrùng

lắp, lãng phí vốn.

* Vềtổchức quản lý:

- Tổchức hiệp hội: Hiệp hội nhựa Việt Nam được thành lập theo quyết định

số1713QĐ/TCCB ngày 7/10/1997 của BộCông nghiệp. Mục tiêu của Hiệp hội là

bảo vệvà hỗtrợlợi ích của các doanh nghiệp nhựa, góp phần chấp hành pháp luật

và phát triển kinh tếxã hội của đất nước, thúc đẩu hợp tác, quan hệquốc tế,

thương mại và khoa học công nghệgiữa Việt Nam và các nước nhất là các nước

trong khu vực trên cơsởbình đẳng và cùng có lợi

- Hiệp hội nhựa Việt Nam đến nay đã có 294 Hội viên trong đó 80% sốHội

viên là các thành phần ngoài quốc doanh.

Bên cạnh đó còn Hiệp hội nhựa của các thành phốcũng hoạt động rất mạnh

và tích cực nhưhiệp hội nhựa TP.HCM thu hút 800 doanh nghiệp nhựa và cao su

chếbiến tham gia hội đoàn, trong đó 200 là doanh nghiệp liên doanh và 100% vốn

nước ngoài. Hiện tại Hiệp hội nhựa Hà Nội cũng đang xúc tiến thành lập.

pdf74 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1284 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Dày dép nhựa 40 125 264 Tổng cộng 140 11,5%/năm 435 10%/năm 764 Bảng 15: Dự đoán kim ngạch xuất khẩu nhựa gia dụng đến năm 2010 - 2015 Xét về sản phẩm tiêu dùng có sử dụng chi tiết nhựa, ngoài sản phẩm nhựa gia dụng được dùng trực tiếp còn cần kể tới các sản phẩm tiêu dùng có kết cấu 52 gồm một phần là các chi tiết nhựa. Đối với các loại sản phẩm này thì hiện nay có xu hướng gia tăng đáng kể nhu cầu các sản phẩm tiêu dùng có các chi tiết phụ tùng bằng nhựa như đồ dùng điện, điện tử gia dụng (TV, cassette, máy giặt, quạt điện, …) xe gắn máy, ô tô, …(mà trong phân loại được xếp vào nhóm các sản phẩm nhựa phục vụ các ngành công nghiệp khác), theo dự đoán tỉ lệ tăng trưởng của nhóm sản phẩm nhựa phục vụ ngành công nghiệp này sẽ gia tăng nhanh từ 18% - 20%/năm trong thập niên tới. b/ Bao bì nhựa Theo chủ trương của Nhà nước, nền kinh tế nước ta trong thời gian tới hướng vào xuất khẩu nên khả năng xuất khẩu gián tiếp của bao bì nhựa rất là lớn. Hiện nay, các nước phát triển đang bỏ dần các công nghệ làm bao bì nhựa do không có hiệu quả kinh tế cao tại các nước này. Chính điều này đã mở ra một tiềm năng lớn xuất khẩu trực tiếp bao bì nhựa. Trong nhóm mặt hàng bao bì nhựa thì bao bì mềm đơn lớp, đa lớp và bao dệt PP có khả năng xuất khẩu cao do có đặc điểm không cồng kềnh khi vận chuyển so với bao bì rỗng và két nhựa. Mục tiêu đến năm 2010, ngành bao bì nhựa xuất khẩu ước tính đạt 435 triệu USD. 3.1.1.4. Dự báo nguồn nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp nhựa Đơn vị tính: ngàn tấn Nguyên liệu 2000 2005 2010 2015 PE 300 686 1.300 2.093 Trong đó: LDPE 70 137 130 209 LLDPE 60 206 620 837 HDPE 170 343 650 1.047 PP 300 600 1.032 1.700 PVC 160 300 530 853 PS 33 66 116 186 Màng BOPP 15 30 60 - Chất dẻo DOP 24 48 77 107 Bảng 16: Dự báo nhu cầu sử dụng nguồn nguyên liệu cho ngành nhựa Việt Nam 3.1.2. Mục tiêu và phương hướng phát triển ngành nhựa Thành phố Hồ Chí Minh 3.1.2.1. Quan điểm phát triển ngành công nghiệp nhựa TP Hồ Chí Minh 53 Trong bối cảnh chung, ngành nhựa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và vùng phụ cận đã có những bước tiến vững chắc, phát huy tính năng động sáng tạo trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành nhựa, đảm bảo phục vụ đầy đủ thị trường trong nước và hội nhập thị trường quốc tế, tiếp tục phát huy vị trí trung tâm ngành nhựa cả nước. Quan điểm phát triển ngành công nghiệp nhựa TP Hồ Chí Minh như sau: - Phát triển ngành công nghiệp nhựa theo hướng hiện đại, đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội của đất nước. Từng bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm đảm bảo tính cân đối toàn ngành. - Phát triển phải khai thác triệt để thế mạnh về các nguồn lực. Tận dụng các nguồn vốn trong nước và tranh thủ vốn nước ngoài để hiện đại hóa ngành. - Phát triển công nghệ luôn gắn kết với việc phát triển năng lực nghiên cứu triển khai và xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu phát triển ngành. - Phát triển ngành gắn với phát triển ổn định lâu dài các ngành công nghiệp khác và phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp của cả nước theo vùng lãnh thổ. - Phát triển ngành nhựa gắn với việc bảo vệ môi trường và tiết kiệm các nguồn tài nguyên, nhiên vật liệu. 3.1.2.2. Mục tiêu phát triển ngành công nghiệp nhựa Thành phố Hồ Chí Minh Những chỉ tiêu phát triển cơ bản của ngành nhựa Việt Nam trong thời kỳ 2005 – 2015 như sau: * Về tổng sản lượng nhựa toàn quốc và cơ cấu sản phẩm: Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng hàng năm trong những năm tới bảo đảm tối thiểu là 15% để sau 5 năm đạt sản lượng gấp đôi sản lượng của 5 năm trước. Năm Sản lượng (kg) Chỉ số chất dẻo/người So sánh 2000 950.000 12 1996/2000 tăng hơn 2 lần 2005 2.100.000 20 2005/2000 tăng gần 2 lần 2010 4.200.000 40 2010/2005 tăng gần 2 lần 2015 8.400.000 80 2010/2015 tăng gần 2 lần 54 Bảng 17: Mục tiêu tăng trưởng sản lượng của ngành nhựa Việt Nam 2000-2015 * Về doanh thu toàn ngành: - Năm 2005 : 3,0 tỷ USD (tương đương 45.000 tỷ đồng) - Năm 2010 : 6,3 tỷ USD (tương đương 95.500 tỷ đồng) - Năm 2015 : 13 tỷ USD (tương đương 200.000 tỷ đồng) 0 2 4 6 8 10 12 14 D oa nh th u (t ỷ U SD ) 1 2 3 Năm Doanh thu (tỷ USD) 2005 2010 2015 Đồ thị 11: Dự báo doanh thu ngành nhựa từ năm 2005-2015 * Tỷ lệ sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước: - Năm 2005 : 30% nhu cầu tức 700.000 tấn - Năm 2010 : 50% nhu cầu tức 2.100.000 tấn - Năm 2010 : 70% nhu cầu tức 5.800.000 tấn 3.2. NHÓM GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP NHỰA TP HỒ CHÍ MINH NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH 3.2.1. Mở rộng thị trường tiêu thụ Ngành nhựa Việt Nam là ngành công nghiệp trẻ rất giàu tiềm năng, trong quá trình hợp tác hội nhập quốc tế, cần có những giải pháp tối ưu để khắc phục những hạn chế và phát huy lợi thế, tăng khả năng cạnh tranh để trở thành ngành công nghiệp có đóng góp lớn vào phát triển kinh tế của đất nước ta trong thời gian tới. Các chính sách và giải pháp về thị trường chủ yếu tập trung theo hướng mở rộng thị trường tiêu thụ. 55 3.2.1.1. Đối với thị trường trong nước Có thể xem đây là yếu tố quyết định sự thành bại đối với sự phát triển của ngành nhựa Thành phố Hồ Chí Minh cũng như ngành nhựa cả nước nói chung. Nếu các doanh nghiệp không nắm bắt được nhu cầu của thị trường thì không những chúng ta không thể mở rộng ra thị trường nước ngoài mà còn có khả năng bị hàng hóa nhựa nước ngoài xâm nhập đặc biệt khi hàng rào thuế quan được dỡ bỏ. Thông qua nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp mới phát hiện các chi tiết của sản phẩm cần cải tiến, các sản phẩm nào thích hợp với nhu cầu thị trường và xu hướng của thị trường trong thời gian tới để có thể đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường. Để nắm vững các thông tin về thị trường các doanh nghiệp sản xuất nhựa tại Thành phố Hồ Chí Minh cần phải có một chương trình cụ thể cho việc nghiên cứu thị trường. Đồng thời phải có kế hoạch đầu tư ngân sách cho việc nghiên cứu thị trường. - Thứ nhất, coi trọng thị trường nội địa với 80 triệu dân, với các lứa tuổi khác nhau và nhiều vùng khác nhau. Bên cạnh việc đáp ứng các nhu cầu sử dụng các sản phẩm nhựa của các ngành công nghiệp: giao thông vận tải, cấp thoát nước, nông nghiệp, thủy sản, thực phẩm, mỹ phẩm, các doanh nghiệp trong khu chế xuất – khu công nghiệp để có kế hoạch cung cấp sản phẩm hoặc đầu tư sản xuất các sản phẩm nhựa mới cung cấp theo nhu cầu. Đặc biệt, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm với mẫu mã phong phú, hạn chế tối đa việc nhập khẩu các sản phẩm chuyên ngành. - Thứ hai, phải có chương trình liên kết các doanh nghiệp trong việc cũng cố và phát triển thị trường. Chương trình này được thực hiện theo các liên kết ngang và liên kết dọc nhằm tạo ra hệ thống cung ứng và sản xuất tối ưu, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đảm bảo sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu vào. - Thứ ba, cần có chương trình xây dựng và quảng bá thương hiệu cho doanh nghiệp và cho sản phẩm của doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh trên thị trường trong nước và quốc tế bằng cách tham gia trưng bày sản phẩm hàng hóa trong “Nhà Việt Nam” ở các nước. - Thứ tư, các doanh nghiệp cần xây dựng được chiến lược tổng thể, phát triển theo từng giai đoạn trong đó cần phải xác định rõ thị trường cơ bản cần chiếm lĩnh (trong và ngoài nước) và phải xác định rõ mặt hàng chủ lực trong từng giai đoạn, tương ứng với từng thị trường (các mặt hàng chính này quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và toàn ngành). 56 3.2.1.2. Đối với thị trường xuất khẩu - Trước tiên, duy trì và mở rộng thị trường truyền thống đồng thời không ngừng phát triển và tìm kiếm thị trường mới ở nước ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu. Tăng cường công tác tiếp thị, nắm bắt thông tin, tiếp cận với các bạn hàng trực tiếp, giảm dần các khâu trung gian nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Thứ hai, cải tiến hệ thống phân phối tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu ở các thị trường, mục tiêu ở nước ngoài. Hệ thống này phải được các doanh nghiệp nhựa Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài liên kết thực hiện với mục tiêu là phân phối theo nhu cầu của thị trường mục tiêu, phân phối linh hoạt, tính cạnh tranh cao, cung cấp hàng hóa đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, trong thực tế, hệ thống này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nước ta trở thành thành viên của WTO. - Thứ ba, các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh phải biết tận dụng các chương trình xúc tiến thương mại của nhà nước trong các chuyến đi khảo sát thị trường, mở phòng trưng bày, website, tham quan triển lãm hội chợ để phát triển thị trường xuất khẩu. Đối với các nhóm sản phẩm, ngoài mục tiêu ngắn hạn là giữ vững thị phần trong nước và thay thế nhập khẩu, còn nhằm mục đích lâu dài là cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Đối với sản phẩm hiện nay đã có thị trường xuất khẩu như: Túi siêu thị, áo mưa, bình xịt, giày dép nhựa giả da, bao bì, nhựa gia dụng, …cần củng cố và duy trì ổn định, đồng thời quan hệ thêm với các khách hàng nước ngoài để mở rộng thị trường tiêu thụ, bên cạnh đó cần nghiên cứu nhu cầu và thị hiếu của thị trường nước ngoài để sản xuất sản phẩm mới đáp ứng theo yêu cầu Ngoài ra, xây dựng các bước tiếp cận, xâm nhập và chiếm lĩnh đối với từng thị trường. Có các giải pháp cạnh tranh (về giá cả, chất lượng, phương thức thanh toán, chủng loại mặt hàng, …). Nâng cao sức cạnh tranh là điều kiện tiên quyết để phát triển nhanh công nghiệp nhựa và hội nhập quốc tế có hiệu quả. Ngoài ra, cần tăng khả năng tiếp thị, các dịch vụ hậu mãi sau bán hàng đồng thời thiết lập các liên kết thích hợp với những tập đoàn sản xuất lớn trên thế giới. 3.2.2. Cải tiến mẫu mã và nâng cao chất lượng sản phẩm Mẫu mã là yếu tố đập vào mắt khách hàng đầu tiên, nhất là những sản phẩm nhựa gia dụng thì mẫu mã rất quan trọng. Hai sản phẩm giống hệt nhau về chức năng, về chất lượng và giá cả, … thì khi mua chắc chắn khách hàng sẽ chọn sản phẩm có mẫu mã đẹp. 57 Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam phải thường xuyên nghiên cứu những sản phẩm trên thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng để có kế hoạch thay đổi mẫu mã phù hợp. Chất lượng của sản phẩm cũng đóng vai trò rất quan trọng cho việc thành bại trên thị trường. Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam cần phải có sản phẩm vừa có chất lượng cao nhưng giá thành thấp, phế phẩm ít. Muốn được thế, các doanh nghiệp cần phải: - Tổ chức kiểm tra sản phẩm thường xuyên. - Biến việc kiểm tra chất lượng sản phẩm là của mọi người chứ không phải là của phòng kỹ thuật hoặc phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm. - Đào tạo cán bộ thường xuyên để theo kịp công nghệ mới. - Mở rộng phạm vi áp dụng hệ thống tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000 trong các doanh nghiệp nhựa Việt Nam. 3.2.3. Đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị sản xuất Công nghệ thiết bị trong ngành nhựa được cập nhật tiến bộ khoa học kỹ thuật thế giới rất nhanh, theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, tăng tính thẩm mỹ, tăng năng suất lao động, kiểm soát quy trình tự động, giảm tiêu hao điện năng, giảm định mức tiêu hao nguyên liệu trong sản xuất, giảm tỷ lệ phế phẩm trong sản xuất. Bất kỳ một ngành sản xuất công nghiệp nào, trình độ công nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng, giá thành và sự phát triển của ngành. Chính vì vậy, tất cả các nước, muốn đẩy nhanh sự phát triển của ngành công nghiệp đều phải quan tâm hàng đầu tới việc đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động. Tốc độ đổi mới về công nghệ sản xuất của ngành nhựa phụ thuộc rất nhiều vào việc nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của ngành và phụ thuộc vào các ngành công nghiệp khác như chế tạo máy, hóa dầu, hóa chất, tự động hóa. Các chính sách phát triển khoa học công nghệ của ngành nhựa như sau: - Tăng chi phí cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ của ngành nhựa bằng cách cho phép các doanh nghiệp được trích 2% doanh thu cho công tác nghiên cứu triển khai và đầu tư bổ sung thêm trang thiết bị và nâng cao năng lực các phòng nghiên cứu, phòng thí nghiệm gắn với sản xuất, phối 58 hợp với các cơ sở khác trong và ngoài ngành, nghiên cứu phục vụ mục tiêu phát triển ngành - Nên đầu tư nhiều loại công nghệ tùy thuộc vào từng nhóm sản phẩm nhựa khác nhau: + Đối với sản phẩm như nhựa gia dụng do kỹ thuật sản xuất đơn giản thì nên chọn công nghệ sử dụng nhiều lao động giúp cho ngành tiết kiệm được vốn, tận dụng được những điều kiện sẵn có, giải quyết được lao động dư thừa của xã hội. + Đối với sản phẩm kỹ thuật cao (như màng mỏng PVC, giả da PVC, vải tráng nhựa PVC, giả da PU) đòi hỏi độ chính xác cao, chất lượng tốt nên lựa chọn công nghệ cao vì công nghệ cao không chỉ giúp ta rút ngắn dần khoảng cách và trình độ công nghệ của ngành với các nước tiên tiến trên thế giới mà còn giúp ngành nhựa sản xuất được nhiều mặt hàng có chất lượng, giá trị cao đáp ứng được yêu cầu đa dạng của các ngành kinh tế kỹ thuật khác trong nước và xuất khẩu, tạo thế cạnh tranh. Điều quan trọng là phải chọn đúng được công nghệ đang cần và đầu tư đón đầu đúng hướng. Phải tận dụng, phát huy ngay được công nghệ mới đầu tư, tổ chức tiếp thu và làm chủ được các công nghệ nhập bằng cách đào tạo mới và đạo độ ngũ cán bộ kỹ thuật (gởi đi nước ngoài đào tạo). Để nhập công nghệ cần: - Các doanh nghiệp cần có sự chọn lựa kỹ càng, chủ động tìm kiếm hoặc thông qua công ty tư vấn. Chỉ nhập thiết bị mới và công nghệ với khoảng cách không xa quá về trình độ so với công nghệ hiện đại của ngành. Tổ chức tốt các đơn vị thẩm định, kiểm tra khi nhập công nghệ. - Các doanh nghiệp phải tổ chức tốt đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật tiếp thu tốt các công nghệ nhập để tổ chức sản xuất ổn định, tiến tới làm chủ được công nghệ nhập. Có thể tự sản xuất một số phụ tùng thay thế để phát huy hết công suất của thiết bị và khả năng của công nghệ để tạo ra sản phẩm có giá trị cao. - Những doanh nghiệp có vốn nhiều có thể nhập thiết bị công nghệ cao để sản xuất mặt hàng cao cấp, đồng thời lại chuyển giao các thiết bị, công nghệ hiện tại cho một số cơ sở nhỏ để củng cố, cải tiến nâng cao thành công nghệ nội tạo ra thị trường chuyển giao công nghệ sôi động liên tục trong toàn ngành. - Các doanh nghiệp đặc biệt chú ý công nghệ xử lý bảo vệ môi trường. Bởi vì vấn đề bảo vệ môi trường là một vấn đề lớn cần có sự phối hợp nhiều ngành và tiến hành đồng bộ trên từng khu cụm công nghiệp nhựa cụ thể thông qua các chính sách lớn của Nhà nước. Nhà Nước cần quy hoạch các đơn vị sản xuất nhựa tập trung vào một khu vực nhằm hạn chế độc hại do sản xuất nhựa gây ra có thể ảnh 59 hưởng đến sức khỏe của mọi người, hoặc là đề ra các biện pháp buộc nhà sản xuất phải đóng thuế rác dựa trên sản lượng sản xuất ra, phải tự bỏ chi phí để thu hồi nhựa phế thải tái chế lại, cao hơn nữa là đưa phế liệu vào dây chuyền hóa dầu để tái tạo các sản phẩm hóa dầu mới. - Các doanh nghiệp cần nhanh nhạy trong việc ứng dụng những thành tựu của thế giới về các loại vật liệu nhựa mới có khả năng tự phân hủy, các loại nhựa sinh học, nhằm hạn chế tối đa ô nhiễm môi trường như các loại bao bì trên cơ sở tinh bột hoặc màng từ polyninylalcol đã và đang được nghiên cứu và bước đầu đưa vào sử dụng như túi áo đựng sản phẩm áo sơ mi may sẵn xuất qua thị trường Nhật Bản được làm từ màng polyvinylalcol, … - Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh nên liên kết, hợp tác để đầu tư thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tăng chất lượng nghiên cứu, ứng dụng và giảm chi phí tránh việc nghiên cứu bị trùng lập. Nên thành lập các dịch vụ kỹ thuật nghiên cứu – phát triển theo hình thức liên doanh trong nước và nước ngoài tại Việt Nam, nhằm giúp các doanh nghiệp nhỏ trong việc đổi mới và nâng cấp công nghệ. 3.2.4. Tăng cường đầu tư và vốn kinh doanh Căn cứ trên suất đầu tư bình quân cho một tấn sản phẩm nhựa với công nghệ hiện đại và với chỉ số chất dẻo bình quân đầu người Việt Nam vào năm 2010 là 40 kg/người (theo “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành nhựa Việt Nam đến 2010” của Bộ Công Nghiệp) và 2015 là 80 kg/người thì đòi hỏi phải có kế hoạch đầu tư rất lớn nhằm đạt được các mục tiêu dự báo. Hướng chính của việc đầu tư nhằm: - Tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Theo danh mục các ngành hàng ưu tiên xuất khẩu của ngành, thực hiện việc liên doanh giữa các doanh nghiệp lớn trong nước và các công ty nước ngoài, hoặc các công ty cổ phần với sự tham gia cổ phần không hạn chế của các công ty nước ngoài nhằm thu hút đầu tư trực tiếp và gián tiếp, tri thức khoa học và kinh nghiệm quản lý, kinh doanh nhằm khai thác thị trường xuất khẩu trên cơ sở công nghệ thiết bị hiện đại, quy mô vốn lớn, tạo ra các sản phẩm có tính cạnh tranh cao trong thị trường. - Đổi mới một cách cơ bản cơ cấu sản phẩm hiện có đi theo hướng mở rộng cơ cấu sản phẩm phục vụ công nghiệp, xây dựng nông nghiệp và sản phẩm kỹ thuật cao vì đây là những ngành hàng sản xuất đòi hỏi kỹ thuật và công nghệ sản xuất phức tạp. 60 - Đầu tư thêm các doanh nghiệp mới nhằm đáp ứng nhu cầu hoặc hướng tới một sản phẩm mới hoàn toàn nhằm thay thế hàng nhập khẩu, đồng thời nhanh chóng tiếp nhận kỹ thuật sản xuất và công nghệ sản xuất tiên tiến để sánh vai kịp các nước trong khu vực nhất là quá trình gia nhập của nước ta AFTA đang đến gần. - Các doanh nghiệp cần đầu tư vào các nhà máy hoặc máy móc thiết bị nhằm mở rộng viêc sử dụng các chủng loại nguyên liệu khác nhau. Hiện nay chúng ta chỉ tập trung vào sử dụng các loại nguyên liệu chính là PVC, PE, PS, PP. Trong khi đó nguyên liệu nhựa này trên thế giới đã có vài chục loại. Theo thống kê tổng vốn đầu tư cho phát triển ngành nhựa trong 10 năm qua khoảng 2 tỷ USD, trong đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 1,3 tỷ USD, các doanh nghiệp trong nước đầu tư khoảng 0,7 tỷ USD. Riêng Tổng Công ty Nhựa Việt Nam giai đoạn 1996 – 2000 có tổng vốn đầu tư khoảng 134 tỷ đồng, trong đó hầu hết là vốn vay chiếm 62,2%, còn lại là vốn tự bổ sung, không sử dụng vốn ngân sách. Thời gian qua vốn đầu tư nhằm hiện đại hóa thiết bị sản xuất, đầu tư mới các khu công nghiệp, trong đó tỷ trọng đầu tư cho thiết bị 57%, cho nhà xưởng khoảng 35,5%. Trong quy hoạch phát triển ngành tới 2015 nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án phát triển của các chuyên ngành là rất lớn. Nhu cầu vốn đầu tư tới 2010 với tổng vốn đầu tư: 3.854 triệu USD. Giai đoạn Vốn đầu tư hiện có (tỷ USD) Vốn đầu tư tăng thêm (tỷ USD) Tổng vốn đầu tư cho ngành (tỷ USD) Chỉ số chất dẻo bình quân đầu người (kg/đầu người) 2001 - 2005 2,21 0,488 2,698 23 2005 – 2010 2,69 2,810 5,509 46 2010 - 2015 5,51 7,200 10 80 Bảng 18: Dự kiến tổng vốn đầu tư cho từng giai đoạn Để huy động được lượng vốn rất lớn như trên nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư đòi hỏi phải phối hợp đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau như sau: - Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhanh và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn trong và ngoài nước. Ưu tiên khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và cả nhà đầu tư trong nước đầu tư vào các dự án sản xuất nguyên liệu 61 trong nước. Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài bằng cách giảm thuế trong những năm đầu của dự án một cách hợp lý nhằm thu hút đầu tư 100% vốn nước ngoài và vốn liên doanh vào lĩnh vực sản xuất nguyên liệu cho ngành nhựa. Đây là những bước quan trọng đầu tiên nhằm thúc đẩy ngành công nghiệp nhựa Việt Nam phát triển. - Nhà nước phải có chính sách ưu đãi về vốn cho các dự án mang tính chiến lược. Đối với các dự án sản xuất nguyên liệu, nhà nước cho vay vốn đầu tư dài hạn tới 15 năm với lãi suất ưu đãi như đối với ngành cơ khí và được hưởng ân hạn 3 – 5 năm. - Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo cán bộ kỹ thuật cho ngành thông qua các chương trình hỗ trợ hợp tác với nước ngoài. Về nguồn vốn đầu tư theo chúng tôi đề nghị một số biện pháp nhằm huy động một số nguồn như sau: - Vốn trong nước: Dự kiến huy động trong nước 60-65%. Từ các nguồn vốn ưu đãi đầu tư (từ ngân sách Nhà nước), vốn đóng góp của các cổ đông, vốn tự có của doanh nghiệp, các nguồn vốn khác để đầu tư cơ sở hạ tầng, nhà xưởng và một phần vốn lưu động tạo môi trường thu hút các nhà đầu tư nước ngoài cùng hợp tác phát triển ngành. - Vốn đầu tư nước ngoài: Dự kiến thu hút 35-40%, phần vốn này chủ yếu đầu tư máy móc thiết bị. Cần tập trung cho các dự án có quy mô lớn, sản phẩm có chất lượng cao và thời gian thu hồi vốn nhanh. - Nguồn vốn ODA: Ưu tiên dành nguồn vốn này cho các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng để sản xuất nguyên liệu trong nước, các dự án về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong ngành. - Các nguồn vốn khác: Huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển ngành nhựa như vốn nhàn rỗi trong dân, vốn của các đối tác đầu tư, vốn của các nhà đầu tư trong nước, vốn của các Việt kiều. Ngoài ra, thu hút thêm vốn đầu tư trong nước thông qua việc đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp Nhà nước bằng các hình thức như cổ phần hóa, cho thuê, bán, 62 khoán để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, vốn của các thành phần kinh tế. Tiến hành cổ phần hóa một số doanh nghiệp nhà nước nhất là đối với một số doanh nghiệp không chiếm tỷ trọng lớn của ngành. Giai đoạn 2005 - 2010 Giai đoạn 2010 – 2015 Nguồn vốn Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000 USD) 1. Vốn cổ phần 15 421.500 15 1.080.000 2. Vốn tự có của doanh nghiệp 10 281.000 20 1.440.000 3. Tín dụng trả chậm 5 140.500 5 360.000 4. Cho thuê tài chính 25 702.500 10 720.000 5. Tín dụng ngân hàng 10 281.000 20 1.440.000 6. Tín dụng ưu đãi nước ngoài 5 140.500 10 720.000 7. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 25 702.500 15 1.080.000 8. Quỹ đầu tư mạo hiểm 5 140.500 5 360.000 Bảng 19: Dự kiến tỷ trọng và giá trị các nguồn vốn đến 2015 3.2.5. Một số giải pháp phát triển nguồn nguyên liệu Hiện nay ngành nhựa Việt Nam mới chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nguyên liệu phục vụ cho ngành, còn lại phải nhập khẩu của nước ngoài. Với nguồn nguyên liệu phải nhập khẩu chiếm tới 90% thì ngành nhựa thực sự là phát triển rất bấp bênh, không có tính bền vững, rủi ro lớn. Để thực sự trở thành một ngành kinh tế mạnh trong nền kinh tế, ngành nhựa cần phát triển nguồn nguyên liệu cho mình. Đây không chỉ đơn thuần cần sự nỗ lực của ngành mà cần có sự phối hợp của 63 nhiều ngành có liên quan đặc biệt là ngành dầu khí và hóa chất. Công nghiệp hóa dầu Việt Nam đầy triển vọng trên cơ sở công nghiệp dầu khí không ngừng gia tăng. Chính vì vậy, chiến lược sản xuất nguyên liệu nhựa tại Việt Nam là có cơ sở. Song khả năng tài chính thực thi thì hạn chế. Đây là một thách thức đối với ngành nhựa vì không đủ vốn đầu tư xây dựng nhà máy và một loạt các vấn đề khác như thuế, môi trường, … Tuy nhiên, tất cả các thách thức này có thể tạo cơ hội phát triển nhanh hơn khi có sự hỗ trợ từ Chính phủ và liên kết sản xuất liên ngành các Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam, Tổng Công ty Hóa Chất Việt Nam và Tổng Công ty Nhựa Việt Nam. Ngành nhựa Việt Nam nói chung và ngành nhựa TP Hồ Chí Minh nói riêng cần phải xây dựng các nhà máy sản xuất nguyên liệu nhựa trong nước. Mặt khác, phải liên kết với các công ty nước ngoài nhằm tận dụng trình độ khoa học công nghệ, kỹ thuật sản xuất cũng như kinh nghiệm quản lý của họ. * Cần xây dựng một số xí nghiệp sản xuất nguyên liệu: Hiện nay, hàng năm ngành nhựa Việt Nam nhập khẩu hàng chục loại nhựa khác nhau, nhưng chủ yếu là nhựa PVC, nhựa PP, PE, PS, nhựa Melamin, nhựa Phenol, nhựa Acrylic, nhựa ABS, EVA, …Hóa chất như dầu DOP, TDI, MDI, PPG, PEG, các loại dung môi hữu cơ, keo dán, mực in, chất mầu, …Các loại bán thành phẩm như màng BOPP, OPP, …Các loại phụ gia như chất độn và các hóa chất chuyên dùng khác. Về số lượng hàng năm gia tăng rất nhanh. Để đáp ứng được yêu cầu trên thì phải xây dựng hàng chục nhà máy, điều này không thể thực hiện ngay. Vì vậy, trong 10 năm từ nay đến 2015, chúng ta cần phải xây dựng các nhà máy sản xuất một số nguyên liệu cho ngành mà tập trung chủ yếu vào 4 loại nguyên liệu là: PVC, PE, PP và PS. Và cũng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu trong nước. Cụ thể tới năm 2005 phải đáp ứng được 30% nhu cầu trong nước tức là 700.000 tấn và tới 2015 đáp ứng được 70% nhu cầu tức 5.880.000 tấn Để có những sản phẩm cho ngành nhựa, ngành hóa dầu phải đi từ hai loại nguyên liệu chính là naphta và khí (metal, etan, LPG, …). Do đó, để sớm đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế quốc dân trong đó có ngành nhựa thì ngành hóa dầu nên thực hiện song song hai phương hướng phát triển trong thời gian tới: - Trên cơ sở khai thác khí của ngành công nghiệp hóa dầu cần phải xây dựng các nhà máy tách

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf43779.pdf
Tài liệu liên quan