Lịch sử ra đời , sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, thì đồng thời nó cũng gắn liền với sự phát triển của tiền tệ. Từ cổ xưa đến cách đây vài trăm năm, các kim loại quý như vàng, bạc được coi như một phương tiện trao đổi trong Xã hội trừ Xã hội sơ khai nhất. Vấn đề đặt ra với một hệ thống thanh toán hoàn toàn dựa vào kim loại quý thì việc vận chuyển từ nơi này sang đến nơi khác rất khó khăn . Sự phát triển tiếp theo của hệ thống thanh toán là đồng tiền giấy, đồng tiền giấy có lợi hơn so với đồng tiền kim loại ở chỗ, nó nhẹ hơn rất nhiều,việc cầm theo nó cũng dễ dàng hơn, nhưng vấn đề đặt ra khi công nghệ in ấn tiền phát triển tiên tiến, thì tệ nạn in tiền giả cũng phát triển theo, chi phí in tiền, vận chuyển tiền. Mặt khác, cả hai loại tiền này nổi lên một số yếu điểm đó là dễ bị lấy cắp, tốn thời gian vận chuyển, chi phí bảo quản, in ấn, thời gian thanh toán bị kéo dài. Để khắc phục khó khăn này, một bước tiến mới của Hệ thống thanh toán đã xuất hiện với hoạt động Ngân hàng hiện đại.
Hoạt động Ngân hàng sơ khai ban đầu chỉ là thu nhận giữ hộ tiền , kim loại quý cho khách hàng. Theo quy luật của thị trường , nền kinh tế hàng hoá là luôn vận động và luôn phát triển, Ngân hàng phát sinh thêm một số nghiệp vụ như việc thanh toán cho khách hàng gửi tiền tại một Ngân hàng khi có nhu cầu chi trả lẫn nhau. Khi sản xuất và lưu thông hàng hoá ở mức thấp, quá trình mua bán diễn ra trong phạm vi hẹp thì người ta thanh toán với nhau bằng tiền mặt, sự vận động của vật tư hàng hoá, vật tư gắn liền vớí sự vận động của khối lượng tiền tệ nhất định. Lúc này thanh toán bằng tiền mặt đã tỏ rõ sự linh hoạt của nó. Qua trình thanh toán bằng tiền mặt không gặp phải một vấn đề nào.
Nhưng theo quy luật của sự phát triển Kinh tế – Xã hội, công việc giao thương không chỉ bó hẹp trong một phạm vi, một quốc gia mà xuyên suốt khắp quốc gia trên cả thị trường thế giới với khối lượng hàng hoá lớn nhiều chủng loại đa đạng và phong phú. Lúc này thanh toán bằng tiền mặt đã nảy sinh hàng loạt những điểm bất lợi cho công việc thanh toán như thời gian, chi phí, vận chuyển. Thì lúc này hệ thống thanh toán hiện đại Ngân hàng hay còn gọi thể thức thanh toán không dùng tiền mặt phần nào đã thoả mãn được những bất lợi của thanh toán bằng tiền mặt nói trên . Người ta không còn phải mất thời gian vào việc vận chuyển tiền, bảo quản, mà thay vào đó chỉ việc trích chuyển vốn từ Tài khoản vốn đơn vị này sang Tài khoản vốn đơn vị khác, huặc thanh toán bù trừ lẫn nhau giữa các tổ chức Tài chính. Để thực hiện được quá trình này phải có ít nhất ba chủ thể tham gia đó là bên mua, bên bán và Ngân hàng đóng vai trò trung gian Tài chính Với chức năng là trung tâm thanh toán của nền Kinh tế quốc dân. Các Ngân hàng Thương mại hoàn toàn có khả năng tổ chức các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thích hợp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, sẽ góp phần lớn trong việc thực hiện chiến lược phát triển Kinh tế của Đảng, ổn định giá cả, đẩy lùi lạm phát,lưu thông hàng hoá, tăng thu nhập quốc dân. Vì có tính ưu việt như trên , nên công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được khách hàng ưa chuộng, nên nó không ngừng phát triển và không thể thiếu được trong nền Kinh tế thị trường hiện nay. Do đó nó ra đời là một tất yếu khách quan của lịch sử loài người.
Tóm lại , thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của Ngân hàng, đây chính là cách thức mang lại nhiều hiệu quả nhất cho cả hai bên - đơn vị mở Tài khoản , Ngân hàng, mà lại phù hợp với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Việc thay thế thanh toán bằng tiền mặt bởi thanh toán không dùng tiền mặt đã thực sự thu hút dòng tiền mặt chảy vào Ngân hàng , Ngân hàng sẽ tăng nguồn thu và nguồn vốn bằng tiền mặt đồng thời qua đó Ngân hàng có thể kiểm soát và điều hành chặt chẽ hơn thông qua công tác thanh toán. Còn khách hàng đơn vị mở Tài khoản tại Ngân hàng đảm bảo được chi trả đúng thời hạn, tiết kiệm thời gian, an toàn nhất.
48 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1055 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp để hoàn thiện và phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt qua sở giao dịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương i
lý luận cơ bản về công tác thanh toán không dùng tiền mặt
1.1-Sự cần thiết và vai trò của công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong nền Kinh tế thị trường:
1.1.1-Sự cần thiết của Thanh toán không dùng tiền mặt:
Lịch sử ra đời , sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, thì đồng thời nó cũng gắn liền với sự phát triển của tiền tệ. Từ cổ xưa đến cách đây vài trăm năm, các kim loại quý như vàng, bạc được coi như một phương tiện trao đổi trong Xã hội trừ Xã hội sơ khai nhất. Vấn đề đặt ra với một hệ thống thanh toán hoàn toàn dựa vào kim loại quý thì việc vận chuyển từ nơi này sang đến nơi khác rất khó khăn . Sự phát triển tiếp theo của hệ thống thanh toán là đồng tiền giấy, đồng tiền giấy có lợi hơn so với đồng tiền kim loại ở chỗ, nó nhẹ hơn rất nhiều,việc cầm theo nó cũng dễ dàng hơn, nhưng vấn đề đặt ra khi công nghệ in ấn tiền phát triển tiên tiến, thì tệ nạn in tiền giả cũng phát triển theo, chi phí in tiền, vận chuyển tiền. Mặt khác, cả hai loại tiền này nổi lên một số yếu điểm đó là dễ bị lấy cắp, tốn thời gian vận chuyển, chi phí bảo quản, in ấn, thời gian thanh toán bị kéo dài. Để khắc phục khó khăn này, một bước tiến mới của Hệ thống thanh toán đã xuất hiện với hoạt động Ngân hàng hiện đại.
Hoạt động Ngân hàng sơ khai ban đầu chỉ là thu nhận giữ hộ tiền , kim loại quý cho khách hàng. Theo quy luật của thị trường , nền kinh tế hàng hoá là luôn vận động và luôn phát triển, Ngân hàng phát sinh thêm một số nghiệp vụ như việc thanh toán cho khách hàng gửi tiền tại một Ngân hàng khi có nhu cầu chi trả lẫn nhau. Khi sản xuất và lưu thông hàng hoá ở mức thấp, quá trình mua bán diễn ra trong phạm vi hẹp thì người ta thanh toán với nhau bằng tiền mặt, sự vận động của vật tư hàng hoá, vật tư gắn liền vớí sự vận động của khối lượng tiền tệ nhất định. Lúc này thanh toán bằng tiền mặt đã tỏ rõ sự linh hoạt của nó. Qua trình thanh toán bằng tiền mặt không gặp phải một vấn đề nào.
Nhưng theo quy luật của sự phát triển Kinh tế – Xã hội, công việc giao thương không chỉ bó hẹp trong một phạm vi, một quốc gia mà xuyên suốt khắp quốc gia trên cả thị trường thế giới với khối lượng hàng hoá lớn nhiều chủng loại đa đạng và phong phú. Lúc này thanh toán bằng tiền mặt đã nảy sinh hàng loạt những điểm bất lợi cho công việc thanh toán như thời gian, chi phí, vận chuyển. Thì lúc này hệ thống thanh toán hiện đại Ngân hàng hay còn gọi thể thức thanh toán không dùng tiền mặt phần nào đã thoả mãn được những bất lợi của thanh toán bằng tiền mặt nói trên . Người ta không còn phải mất thời gian vào việc vận chuyển tiền, bảo quản,… mà thay vào đó chỉ việc trích chuyển vốn từ Tài khoản vốn đơn vị này sang Tài khoản vốn đơn vị khác, huặc thanh toán bù trừ lẫn nhau giữa các tổ chức Tài chính. Để thực hiện được quá trình này phải có ít nhất ba chủ thể tham gia đó là bên mua, bên bán và Ngân hàng đóng vai trò trung gian Tài chính Với chức năng là trung tâm thanh toán của nền Kinh tế quốc dân. Các Ngân hàng Thương mại hoàn toàn có khả năng tổ chức các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt thích hợp để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, sẽ góp phần lớn trong việc thực hiện chiến lược phát triển Kinh tế của Đảng, ổn định giá cả, đẩy lùi lạm phát,lưu thông hàng hoá, tăng thu nhập quốc dân. Vì có tính ưu việt như trên , nên công tác thanh toán không dùng tiền mặt ngày càng được khách hàng ưa chuộng, nên nó không ngừng phát triển và không thể thiếu được trong nền Kinh tế thị trường hiện nay. Do đó nó ra đời là một tất yếu khách quan của lịch sử loài người.
Tóm lại , thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ trung gian của Ngân hàng, đây chính là cách thức mang lại nhiều hiệu quả nhất cho cả hai bên - đơn vị mở Tài khoản , Ngân hàng, mà lại phù hợp với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. Việc thay thế thanh toán bằng tiền mặt bởi thanh toán không dùng tiền mặt đã thực sự thu hút dòng tiền mặt chảy vào Ngân hàng , Ngân hàng sẽ tăng nguồn thu và nguồn vốn bằng tiền mặt đồng thời qua đó Ngân hàng có thể kiểm soát và điều hành chặt chẽ hơn thông qua công tác thanh toán. Còn khách hàng đơn vị mở Tài khoản tại Ngân hàng đảm bảo được chi trả đúng thời hạn, tiết kiệm thời gian, an toàn nhất.
1.1.2 Vai trò của công tác thanh toán không dùng tiền mặt trong nền Kinh tế thị trường:
Ngân hàng ra đời để đảm nhiệm trọng trách là trung tâm thanh toán cho nền Kinh tế. Trọng trách này được thể hiện qua việc mua bán, cung ứng dịch vụ hàng hoá giữa các cơ quan đoàn thể, các tổ chức kinh tế, các doanh ngiệp và cá nhân trong xã hội. Chính vì thế thanh toán không dùng tiền mặt không thể thiếu được, vì hàng hoá và tiền tệ luôn có mối quan hệ song hành với nhau, liên hệ với nhau như những mắt xích trong nền kinh tế Tiền – Hàng – Tiền. Thanh toán không dùng tiền mặt đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tổ chức và lưu thông hàng hoá. Ngân hàng thực hiện tốt công tác thanh toán không dùng tiền mặt sẽ góp phần đem lại lợi ích nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Sau đây là một số vai trò của công tác thanh toán không dùng tiền mặt:
Thứ nhất: Làm giảm được một khối lượng tiền mặt trong lưu thông. Như chúng ta biết thanh toán bằng tiền mặt có những nhược điểm đó là : Khối lượng tiền lớn, cồng kềnh, tốn công sức chuyên trở, kiểm đếm, chi phí cho nhiều khâu như in ấn, bảo quản …Ngày nay nền kinh tế thị trường có nhiều mối quan hệ kinh tế phức tạp và đa dạng, tăng tỷ trọng thanh lớn không dùng tiền mặt sẽ làm giảm được khối lượng tiền mặt lưu hành trong lưu thông.
Thứ hai: Luân chuyển vốn nhanh gọn, chính xác, an toàn tuyệt đối đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh kịp thời…mỗi ngiệp vụ phát sinh Ngân hàng chỉ cần căn cứ vào lệnh của chủ Tài khoản và số dư trên Tài khoản của khách hàng để ghi nợ Tài khoản này và đồng thời ghi có Tài khoản kia trong cùng một Ngân hàng. Nếu chuyển tiền qua mạng vi tính khác ngân hàng, khác địa phương ngay trong ngày sẽ thực hiện được chuyển tìên đảm bảo an toàn chính xác tuyệt đối cả Tài sản khách hàng và của Ngân hàng. Chính ngiệp vụ này đã rút ngắn được thời gian thanh toán, đem lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp. Vì ở mỗi doanh ngiệp nếu khâu thanh toán chậm trễ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc sử dụng vốn, kết quả sản xuất kinh doanh sẽ giảm thấp và ảnh hưởng đến đời sống cán bộ công nhân viên, và ảnh hưởng tồn sự tồn tại các doanh ngiệp.
Thứ ba: Giúp các Ngân hàng thương mại tập trung nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để cấp vốn cho công tác tín dụng. Để được tham gia thanh toán không dùng tiền mặt trong Ngân hàng các cá nhân , doanh ngiệp, tổ chức kinh tế, phải nộp tiền của mình vào ngân hàng và mở Tài khoản tiền gửi thanh toán, trên Tài khoản luôn tồn tại số dư nhất định để đảm bảo việc chi trả. Số dư tiền này chính là nguồn vốn tiền gửi mà ngân hàng được phép sử dụng phần lớn để cho vay mà chỉ cần để lại một tỷ lệ nhất định để đảm bảo đủ khả năng chi trả. Về phía khách hàng được hưởng một khoản lãi nhất định trên số dư tiền của họ.
Thứ tư: Thanh toán không dùng tiền mặt là công cụ trong chiến lược cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại, nhằm thu hút khách hàng đến với mình Khi Ngân hàng thực hiện tốt công tác thanh toán thì chính nó là nguồn vốn tiềm tàng ở ngoài Xã hội đổ về Ngân hàng tự nguyện, Ngân hàng không phải tốn nhiều chi phí như khi huy động vốn ở các hình thức khác (tiền gứi có kỳ hạn, kỳ phiếu…). Vì vậy Ngân hàng nào tổ chức tốt công tác thanh toán là giải pháp tích cực để thay thế nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng nguồn vốn có mức lãi suất thấp, trên cơ sở đó hạ lãi suất tiền vay. Khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân đầu tư, sản xuất, vào hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi. Ngân hàng còn nắm được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh ngiệp cũng như khả năng Tài chính của doanh ngiệp qua việc quản lý biến động của vốn, số dư trên Tài khoản tiền gửi, trên cơ sở đó Ngân hàng thực hiện nhiệm vụ tư vấn có hiệu quả.
Thứ năm: Giúp cho Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền . Trong thực tế nếu thanh toán bằng tiền mặt , sau khi lĩnh tiền mặt ra khỏi Ngân hàng, số tiền đó không còn nằm trong phạm vi kiểm soát của Ngân hàng nữa. Nhưng nếu thực hiện bằng hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, khách hàng trích từ Tài khoản tiền gửi của mình huặc được Giám đốc duyệt cho vay chuyển số tiền đó đến Ngân hàng khác. Đến Ngân hàng thứ hai để lại tỷ lệ dự trữ bắt buộc chung 10%, cứ thế đến các Ngân hàng thứ hai, thứ ba…từ 10 triệu ban đầu có thể lên đến 100 triệu. Như vậy Ngân hàng đã thực hiện được chức năng tạo tiền trong khâu thánh toán.
Thứ sáu: Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước qua Ngân hàng chỉ thực sự phát huy đầy đủ tác dụng khi phần khối lượng thanh toán tập trung qua Ngân hàng, giúp Ngân hàng Nhà nước quản lý tổng thể quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Mặt khác, sử dụng công cụ thanh toán, kiểm soát được mức tạo tiền và tăng tín dụng, thực hiện tốt chính sách tiền tệ là giải pháp tích cực nhằm kìm chế lạm phát, tạo đà cho kinh tế tăng trưởng. Trên lĩnh vực Ngân hàng nó phản ánh trình độ ngiệp vụ, kỹ thuật thanh toán, trang thiết bị, cơ sở vật chất của ngành ở tầm vĩ mô, nó phản ánh trình độ dân trí, tốc độ phát triển của một quốc gia. Với đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện tốt trong thanh toán dựa trên cơ sở các nguyên tắc sau: Tuyệt đối an toàn về Tài sản, vốn của Ngân hàng cũng như của khách hàng, giúp cho khách hàng tránh được rủi ro trong thanh toán, chuyển dịch vốn nhanh gọn, kịp thời chính xác. Từ đó làm giảm thấp nhất thời gian vốn nằm trong thanh toán.
1.2Khái niệm và nguyên tắc chung về thanh toán không dùng tiền mặt
1.2.1 KháI niệm:
Thanh toán không dùng tiền mặt, là quá trình thanh toán không
xuất hiện tiền mặt, mà thanh toán bằng cách trích chuyển từ Tài khoản của người trả cho người thụ hưởng mở tại Ngân hàng hoặc thanh toán bù trừ.
Thanh toán không dùng tiền mặt thường bao gồm có 4 bên tham gia
+ Bên mua hàng
+ Ngân hàng phục vụ bên mua, tức là Ngân hàng nơi đơn vị mở Tài khoản giao dịch.
+ Bên bán, tức là bên cung ứng dịch vụ hay hàng hoá
+ Ngân hàng phục vụ bên bán, tức là Ngân hàng nơi đơn vị bán mở Tài khoản giao dịch.
1.2.2 Nguyên tắc chung khi thực hiện:
Theo Nghị định 91/CP ngày 25/11/1993 của chính phủ, Quyết định số 22/QĐ ngày 21/02/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước VN, Nghị định 30/CP của Chính phủ ngày 09/05/1996 và hàng loạt thông tư hướng dẫn thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong giai đoạn hiện nay có các quy định cụ thể sau:
Hiện nay các cá nhân, đơn vị thanh toán qua Ngân hàng huặc Kho bạc Nhà nước được sáp dụng các thể thức thanh toán
+ Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi – Sec chuyển tiền.
+ Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu.
+ Thanh toán bằng Séc.
+ Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C)
+ Thanh toán bằng Ngân phiếu thanh toán.
+Thanh toán bằng thẻ thanh toán
* Quy định chung khi thực hiện giữa các khách hàng qua Ngân hàng, kho bạc
Điều một:Các Doanh nghiệp, cơ quan tổ chức, đoàn thể, đơn vị lực lượng vũ trang, công dân Việt nam và người nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt nam được quyền lựa chọn Ngân hàng để mở Tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Điều hai: Việc mở Tài khoản thanh toán tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước và thực hiện thanh toán qua Tài khoản được ghi bằng đồng Việt nam. Trường hợp mở Tài khoản thanh toán và bằng ngoại tệ phải thực hiện theo quy chế quản lý ngoại hối của chính phủ Việt nam ban hành.
Điều ba: -Để thực hiện thanh toán đầy đủ kịp thời, các chủ Tài khoản (bên trả tiền) phải có đủ tiền trên Tài khoản. Mọi trường hợp thanh toán vượt quá số dư Tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước là phạm pháp và phải bị xử lý theo pháp luật.
Điều bốn: Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm:
Thực hiện các uỷ nhiệm thanh toán của chủ Tài khoản đảm bảo chính xác, an toàn, thuận tiện. Các Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước có trách nhiệm chi trả bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản trong phạm vi số dư tiền gửi theo yêu cầu của chủ Tài khoản.
Kiểm tra khả năng thanh toán của chủ Tài khoản (bên trả tiền) trước khi thực hiện thanh toán và được quyền từ chối thanh toán nếu chủ Tài khoản không đủ tiền, đồng thời chịu trách nhiệm về những nội dung liên đới của hai bên khách hàng.
Nếu do thiếu sót trong quá trình thanh toán gây thiệt hại cho khách hàng thì Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước phải bồi thường thiệt hại và tuỳ theo mức độ vi phạm có thể bị xử ký theo pháp luật.
Điều năm:Ngân hàng và Kho bạc Nhà nước chỉ cung cấp số liệu trên Tài khoản khách hàng cho các cơ quan ngoài Ngân hàng, Kho bạc Nhà nước khi có các văn bản của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều sáu:Khi thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng, Ngân hàng được thu phí theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam.
1.3 một số thể thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện đang được dùng ở việt nam
1.3.1.Thanh toán bằng Uỷ nhiệm thu:
Uỷ nhiệm thu là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, được áp dụng giữa người mua và người bán trên cơ sở hợp đồng kinh tế huặc đơn đặt hàng, trong đó người mua sẽ chủ động lập Uỷ nhiệm thu gửi tới Ngân hàng phục vụ mình để uỷ nhiệm cho Ngân hàng thu hộ số tiền hàng hoá, dịch vụ theo các chứng từ thanh toán hợp lệ, hợp pháp.
Phạm vi áp dụng của hình thức thanh toán này là giữa cac đơn vị mở Tài khoản ở cùng một chi nhánh huặc các chi nhánh Ngân hàng trong cùng một hệ thống huặc khác hệ thống.
Bên mua và bên bán phải thống nhất với nhau dùng hình thức thanh toán Uỷ nhiệm thu, đồng thời thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng của bên thụ hưởng để có căn cứ thực hiện uỷ nhiệm thu
Bên bán lập uỷ nhiệm thu theo mẫu của Ngân hàng, kèm theo hoá đơn, vận đơn gửi tới Ngân hàng. Khi nhận được uỷ nhiệm thu, Ngân hàng bên mua phải trích tiền từ Tài khoản của bên mua để thanh toán trong vòng một ngày làm việc. Nếu Tài khoản bên mua không đủ tiền để thanh toán cho bên bán thì bên mua sẽ bị chịu một khoản tiền phạt.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán Uỷ nhiệm thu
* Trường hợp bên mua và bên bán mở Tài khoản tiền gửi ở hai Ngân hàng cùng hệ thống.
Đơn vị mua
Đơn vị bán
(1 )
(6 ) (2) (4 )
Ngân hàng
Bên mua
Ngân hàng
Bên bán
(3)
(5)
(1) Đơn vị bán giao hàng hoá, dịch vụ cho đơn vị mua (2) Đơn vị bán nộp 4 liên Uỷ nhiệm thu cùng hoá đơn thanh toán sang Ngân hàng bên bán.
(3) Ngân hàng bên bán giữ lại 1 liên, gửi 3 liên và hoá đơn sang Ngân hàng bên mua.
(4) Ngân hàng bên mua sau khi kiểm soát, hạch toán, gửi một liên và hoá đơn cho đơn vị mua để báo Nợ.
(5) Ngân hàng bên mua gửi 1 liên giấy báo Có liên hàng kê theo 1 liên Uỷ nhiệm thu cho Ngân hàng bên bán
(6) Ngân hàng bên bán xuất sổ theo dõi Uỷ nhiệm thu, hạch toán và gửi giấy báo Có cho đơn vị bán.
* Trường hợp hai bên khách hàng có Tài khoản ở hai chi nhánh Ngân hàng khác hệ thống: Thanh toán xử lý qua mạng thanh toán bù trừ theo quy định hiện hành.
1.3.2. Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi – Séc chuyển tiền:
1.3.2.1.Thanh toán bằng Uỷ nhiệm chi:
Uỷ nhiệm chi là lệnh của chủ Tài khoản được lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng, yêu cầu Ngân hàng phục vụ trích tiền từ Tài khoản để chi trả cho người thụ hưởng.
Uỷ nhiệm chi được sử dụng để thanh toán hàng hoá, dịch vụ huặc chuyển tiền giữa hai đơn vị tín nhiệm nhau. Phạm vi áp dụng của hình thức này là giữa các đơn vị có Tài khoản ở cùng một Ngân hàng, huặc ở hai ở hai Ngân hàng khác nhau trong cùng hệ thống huặc khác tỉnh, cùng tỉnh. Ngân hàng có trách nhiệm xử lý, giải quyết các Uỷ nhiệm chi của khách hàng nộp vào ngay trong ngày hôm đó.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán Uỷ nhiệm chi giữa hai Ngân hàng khác nhau trong cùng một hệ thống:
(1 )
Đơn vị mua
Đơn vị bán
(3a) (2) (4)
Ngân hàng
Bên bán
Ngân hàng
Bên mua
(3b)
(1) Bên bán giao hàng hoá, dịch vụ cho đơn vị mua theo hợp đồng đã ký kết.
(2) Đơn vị mua lập 4 liên Uỷ nhiệm chi và Ngân hàng yêu cầu trích Tài khoản chuyển tiền cho đơn vị bán.
(3. a) Ngân hàng bên mua gửi một liên giấy báo “Nợ” cho đơn vị mua sau khi hạch toán ghi “Nợ” cho đơn vị mua.
(3. b) Ngân hàng bên mua lập chứng từ thanh toán liên hàng với Ngân hàng cùng hệ thống để Ngân hàng này ghi “Có” cho bên thụ hưởng.
(4) Ngân hàng bên bán ghi “Có” vào Tài khoản của đơn vị thụ hưởng và báo “Có" cho người thụ hưởng.
* Trong trường hợp hai đơn vị mua và bán mở Tài khoản ở hai Ngân hàng khác hệ thống và khác tỉnh, thành phố thì việc chuyển tiền giữa hai Ngân hàng được thực hiện thông qua NHNN. Trong trường hợp này NHNN đóng vai trò trung gian thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại.
1.3.2.2. Thanh toán bằng Séc chuyển tiền:
Séc chuyển tiền là một hình thức chuyển tiền theo yêu cầu khách hàng trong đó người đại diện đứng tên trên tờ Séc trực tiếp cầm và chuyển nộp Séc vào Ngân hàng trả chuyển để lĩnh tiền mặt hay chuyển khoản để chi trả cho người cung cấp hàng hoá dịch vụ.
Séc chuyển tiền được áp dụng trong một hệ thống Ngân hàng. Thời hạn hiệu lực tối đa là 30 ngày kể từ ngày phát hành séc.
Séc chuyển tiền tạo cho khách hàng cảm thấy an tâm khi sử dụng vì trên tờ Séc chuyển tiền có ký hiệu mật.
Sơ đồ thanh toán Séc chuyển tiền
Đơn vị
chuyển tiền
Người đại diện
(1)
Ngân hàng
Trả chuyển
Ngân hàng
Chyển tiền
(2á) (2b)
(3)
(1) Đơn vị chuyển tiền đến Ngân hàng phục vụ mình làm thủ tục xin được cấp Séc chuyển tiền.
(2) Người cầm Séc trực tiếp cầm Séc nộp vào Ngân hàng trả chuyển tiền để được thanh toán.
(3) Ngân hàng trả chuyển tiền sau khi trả Séc xong chuyển “Nợ” lại Ngân hàng chuyển tiền.
1.3.3. Thanh toán bằng Séc:
Thanh toán bằng Séc là lệnh trả tiền của chủ Tài khoản, được lập trên mẫu in sẵn do NHNN quy định, yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích một số tiền từ Tài khoản tiền gửi thanh toán của mình để trả cho người thụ hưởng có tên ghi trên Séc huặc người cầm Séc. Về nguyên tắc Séc chỉ được phát hành trong phạm vi số dư tiền gửi trên Tài khoản của mình nếu vượt quá số dư sẽ bị phạt một khoản tiền theo quy định chung.
Thời hạn hiệu lực của tờ Séc là thời hạn tính từ ngày phát hành Séc được quy định là 15 ngày.
Séc được hạch toán theo nguyên tắc ghi “Nợ” trước, ghi “Có” sau. Các tờ séc sau khi kiểm tra phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp, có đủ tiền trên Tài khoản thì Ngân hàng phải ghi “Nợ” vào Tài khoản người phát hành séc trước và ghi “Có” vào Tài khoản người thụ hưởng sau, hiện nay thanh toán Séc qua Ngân hàng thông dụng nhất là hai loại Séc chuyển khoản và Séc bảo chi.
3.3.3.1. Séc chuyển khoản:
Séc chuyển khoản là giấy uỷ nhiệm lập trên mẫu in sẵn của Ngân hàng do chủ Tài khoản phát hàng giao trực tiếp cho đơn vị thụ hưởng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ ngay sau khi nhận cung ứng.
Phạm vi thanh toán séc chuyển khoản là giữa các Ngân hàng huặc khác chi nhánh Ngân hàng nhưng các chi nhánh này có tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn.
Thời gian hiệu lực của thanh toán Séc chuyển khoản là 15 ngày làm việc kể từ ngày ký phát Séc đến ngày Séc được nộp vào Ngân hàng.
Việc thanh toán Séc chuyển khoản theo nguyên tắc ghi “Nợ” trước, và ghi “Có” sau. Các chứng từ kèm theo tờ séc để hạch toán là các bảng kê nộp séc. Séc chỉ được phát hành trong phạm vi số dư Tài khoản tiền gửi, trong trường hợp vượt quá số dư tiền gửi thì sẽ chịu phạt theo qy định của pháp luật hiện hành.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán séc chuyển khoản khác ngân hàng, cùng địa bàn tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp:
Người thụ hưởng
(Đơn vị bán)
Người phát hành
(Đơn vị mua)
(1)
(4) (2’) (6) (2)
Ngân hàng
Thu hộ
Ngân hàng
Thanh toán
(3)
(5)
(1) Người phát hành séc giao séc cho đơn vị bán.
(2) Người thụ hưởng (đơn vị bán) nộp séc và bảng kê cho Ngân hàng phục vụ mình để thanh toán.
(2’) Người thụ hưởng có thể nộp trực tiếp séc vào Ngân hàng thanh toán.
(3) Ngân hàng thu hộ chuyển bảng kê nộp séc và tờ séc sang cho Ngân hàng thanh toán.
(4) Ngân hàng thanh toán sau khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc thì ghi “Nợ” và báo ‘Nợ” cho người phát hành séc.
(5) Ngân hàng thanh toán chuyển bảng kê nộp séc kèm bảng kê thanh toán bù trừ cho Ngân hàng thu hộ thông qua thanh toán bù trừ.
(6) Ngân hàng thu hộ chuyển giấy báo “Có” cho người thụ hưởng.
1.3.3.2. Séc báo chi:
Séc bảo chi là tờ séc chuyển khoản thông thường nhưng được Ngân hàng đảm bảo chi trả bằng cách trích trước số tiền ghi trên tờ séc từ Tài khoản của bên trả tiền đưa vào một Tài khoản riêng (Tài khoản tiền gửi séc bảo chi) được Ngân hàng làm thủ tục bảo chi và đóng dấu bảo chi séc trước khi giao cho khách hàng.
Séc bảo chi được thanh toán trong phạm vị các đơn vị có Tài khoản ở cùng một Ngân hàng nhưng trong cùng hệ thống huặc khác hệ thống thì phải cùng địa bàn tham gia thanh toán bù trừ
Thời hạn hiệu lực của séc bảo chi tối đa là 15 ngày làm việc bảo chi séc, nhận Được séc bảo chi, sau khi kiểm tra tính hợp lệ Ngân hàng có quyền ghi “Có”vào Tài khoản của người thụ hưởng. Sau đó mới báo “Nợ” cho Ngân hàng phát hành để ghi ”Nợ” vào Tài khoản séc bảo chi.
Trường hợp hai Ngân hàng có tham gia thanh toán bù trừ thì được phép ghi đồng thời “Nợ”, “Có” trong phiên giao dịch.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán séc bảo chi
* trường hợp thanh toán séc bảo chi khác Ngân hàng nhưng cùng một hệ thống
Đơn vị mua
Đơn vị bán
Ngân hàng
Bên mua
Ngân hàng
Bên bán
(3)
(1) (2) (4) (5)
(6)
(1) Đơn vị mua đến Ngân hàng phục vụ mình làm thủ tục bảo chi séc.
(2) Ngân hàng làm thủ tục bảo chi séc, giao séc cho đơn vị mua và giấy nợ.
(3) Đơn vị mua giao séc cho đơn vị bán.
(4) Đơn vị bán nộp bảng kê nộp séc và tờ séc vào Ngân hàng bên bán.
(5) Ngân hàng bán hạch toán và báo “Có” cho đơn vị bán.
(6) Ngân hàng bên bán gửi giấy báo “Nợ’ cho ngân hàng bên mua
*Trường hợp thanh toán séc bảo chi khác Ngân hàng, cùng địa bàn tham gia thanh toán bù trừ:
(3)
Đơn vị mua
Đơn vị bán
NH bên mua
NH bên bán
(1) (2) (4) (7)
(5.)
(6)
(1), (2), (3), (4): giống trường hợp khác chi nhánh nhưng cùng hệ thống.
(5) Ngân hàng bên bán chuyển bảng kể nộp séc cùng tờ séc để Ngân hàng bên mua ghi “Nợ” trước.
(6) Ngân hàng bên mua lập bảng kê chứng từ thanh toán bù trừ báo “Có” gửi tới Ngân hàng bên bán
(7) Ngân hàng bên bán hạch toán và báo “Có” cho đơn vị bán.
1.3.4. Thanh toán bằng thư tín dụng (L/C):
Thư tín dụng là uỷ nhiệm của Ngân hàng bên mua đối với Ngân hàng bên bán, để thanh toán cho người bán theo hoá đơn, vận đơn huặc chứng từ giao hàng có chữ ký người đại diện bên mua.
Thể thức thanh toán bằng thư tín dụng được áp dụng để thanh toán dịch vụ, tiền hàng trong điều kiện hai bên mua bán chưa thực sự tín nhiệm lẫn nhau, ngưòi bán đòi hỏi người mua phải có đủ số tiền để trả ngay, phù hợp vói số tiền hàng đã giao theo hợp đồng.
Thư tín dụng được sử dụng thanh toán giữa hai bên mua bán mở Tài khoản của hai chi nhánh Ngân hàng khác địa phương cùng hệ thống huặc khác hệ thống, mức tiền tối thiểu để mở một tín dụng thư là 10 triệu đồng và chỉ dùng để trả cho một người thụ hưởng, thời hạn hiệu lực tối thiểu là 3 thàng kể từ ngày tín dụng thư được mở.
Sau khi mở thư tín dụng Ngân hàng bên mua phải gửi thư tín dụng sang cho bên bán biết . Bên bán có trách nhiệm giao hàng cho bên mua sau khi nhận được giấy báo mở thư tín dụng, sau khi hoàn thành thủ tục giao hàng cho bên mua, bên bán làm thủ tục xin được thanh toán thư tín dụng, sau đó Ngân hàng bên bán kiểm soát nếu hợp lệ sẽ tiến hành thanh toán và báo Nợ cho Ngân hàng bên mua để biết thanh toán thư tín dụng.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán L/C
* Trường hợp khách hàng có Tài khoản tại hai Ngân hàng cùng hệ thống:
Đơn vị mua
Đơn vị bán
NH bên mua
NH bên bán
(5)
(1) (2) (3) (4) (6) (8)
(7)
(1) Đơn vị mua lập 05 liên giấy xin mở L/C nộp vào Ngân hàng phục vụ mình
(2) Ngân hàng bên mua lưu ký tiền, gửi một liên L/C báo nợ cho đơn vị mua.
(3) Ngân hàng bên mua gửi 03 liên L/C đến Ngân hàng bên bán.
(4) Ngân hàng bên mua sau khi ghi sổ theo dõi L/C, gửi 01 liên cho bên bán làm căn cứ giao hàng.
(5) Đơn vị bán gioa hàng cho đơn vị mua.
(6) Đơn vị bán lập 04 liên bảng kê hoá đơn chứng từ giao nhận hàng nộp cho Ngân hàng bên bán để thanh toán.
(7) Ngân hàng bên baná hạch toán, gửi giấy báo “Nợ” cho Ngân hàng bên mua.
(8) Ngân hàng bên bán gửi giấy báo “Có” cho đơn vị bán.
* Trường hợp thanh toán giữa hai Ngân hàng khác hệ thống: Được thực hiện qua Tài khoản thu chi hộ với Ngân hàng thương mại khác.
Tóm lại: thanh toán L/C chủ yếu được thực hiện trong hoạt động Xuất nhập khẩu, vì khi đó bên mua và bên ban hầu như không biết nhau và do đó có thể biết đượckhả năng Tài chính của nhau. Do vậy thanh toán bằng L/C đối với các doanh ngiệp trong nước là rất ít và hầu như không được áp dụng mặc dù các đơn vị này cũng không tín nhiệm lẫn nhau nhưng ít nhiều họ cũng có thể tìm hiểu về nhau, Mặt khác thủ tục mở L/C là quá phiền phức, trong khi đó lại có rất nhiều thể thức thanh toán khác hữu dụng hơn mà thủ tục của nó lại đơn gián hơn nhiều mà vẫn đảm bảo khả năng thanh toán.
1.3.5. Thanh toán bằng Ngân phiếu thanh toán:
Ngân phiếu thanh toán là phương tiện thanh toán không dùng tiên mặt do Ngân hàng Nhà nước phát hành. Ngân phiếu thanh toán được dùng để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ, trả nợ nộp ngân sách, nộp NHNN, tổ chức tín dụng.
Ngân phiếu thanh toán có mệnh giá, có thời hạn lưu hành, không g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100151.doc