Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Nhà nước ta nhấn mạnh: Đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu nên Đảng ta rất chú trọng tới phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong quá trình tạo vốn và tích luỹ vốn ban đầu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế trong những năm qua và trong thời gian tới Nhà nước ta luôn luôn nhận định:" Doanh nghiệp Nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ , nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành luật pháp.
Từ các đặc điểm trên đã cho thấy, vai trò, vị trí và lợi thế của công ty lương thực cấp I Lương Yên- một doanh nghiệp Nhà nước- trong thời kỳ đổi mới và phát triển nền kinh tế của đất nước.
Đây là một doanh nghiệp có tuổi đời gần 45 năm, trải qua những năm chiến tranh ác liệt luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp lương thực thực phẩm cho bộ đội, cán bộ công nhân viên trên địa bàn Hà nội cũng như đất nước của Đảng và Nhà nước.
Chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty này đã bị chững lại có phần giảm sút hiệu quả trên một số lĩnh vực kinh doanh, thậm chí có một số đơn vị có nguy cơ giải thế hoặc sáp nhập do không trụ nổi,. vì vậy mà Công ty đã phải vật lộn để vượt qua trụ vững và ổn định để phát triển thành công ty đa chức năng
Tuy nhiên sự phát triển đó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của một Công ty có bề dày gần nửa thế kỷ hoạt động trên lĩnh vực lương thực thực phẩm, với lợi thế của một thành phố lớn ở phía Bắc và các điều kiện để có thể vươn lên phát triển thành một doanh nghiệp mạnh. Vì vậy việc nghiên cứu và tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tìm hướng đi đúng đắn, ổn định và bền vững cho Công ty là một yêu cầu tất yếu và bức thiết.
Là một sinh viên kinh tế được thực tập tại công ty lương thực cấp I Lương Yên - Một doanh nghiệp Nhà nước, trước tình hình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh hiện tại của Công ty, cùng với những kiến thức đã được học tại trường đại học Kinh tế quốc dân và đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn: Phan Kim Chiến, em mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
"Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty lương thực cấp I Lương Yên."
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm ba chương:
Chương một: Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương hai: Phân tích hiệu quả kinh doanh ở công ty lương thực cấp I Lương Yên.
Chương ba: Một số phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty lương thực cấp I Lương Yên.
88 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1156 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty lương thực cấp I Lương Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời nói đầu
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Nhà nước ta nhấn mạnh: Đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu nên Đảng ta rất chú trọng tới phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong quá trình tạo vốn và tích luỹ vốn ban đầu cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế trong những năm qua và trong thời gian tới Nhà nước ta luôn luôn nhận định:" Doanh nghiệp Nhà nước có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế. Doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí then chốt, đi đầu ứng dụng khoa học và công nghệ , nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế xã hội và chấp hành luật pháp.
Từ các đặc điểm trên đã cho thấy, vai trò, vị trí và lợi thế của công ty lương thực cấp I Lương Yên- một doanh nghiệp Nhà nước- trong thời kỳ đổi mới và phát triển nền kinh tế của đất nước.
Đây là một doanh nghiệp có tuổi đời gần 45 năm, trải qua những năm chiến tranh ác liệt luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cung cấp lương thực thực phẩm cho bộ đội, cán bộ công nhân viên trên địa bàn Hà nội cũng như đất nước của Đảng và Nhà nước.
Chuyển sang cơ chế thị trường, Công ty này đã bị chững lại có phần giảm sút hiệu quả trên một số lĩnh vực kinh doanh, thậm chí có một số đơn vị có nguy cơ giải thế hoặc sáp nhập do không trụ nổi,... vì vậy mà Công ty đã phải vật lộn để vượt qua trụ vững và ổn định để phát triển thành công ty đa chức năng
Tuy nhiên sự phát triển đó chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của một Công ty có bề dày gần nửa thế kỷ hoạt động trên lĩnh vực lương thực thực phẩm, với lợi thế của một thành phố lớn ở phía Bắc và các điều kiện để có thể vươn lên phát triển thành một doanh nghiệp mạnh. Vì vậy việc nghiên cứu và tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và tìm hướng đi đúng đắn, ổn định và bền vững cho Công ty là một yêu cầu tất yếu và bức thiết.
Là một sinh viên kinh tế được thực tập tại công ty lương thực cấp I Lương Yên - Một doanh nghiệp Nhà nước, trước tình hình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh hiện tại của Công ty, cùng với những kiến thức đã được học tại trường đại học Kinh tế quốc dân và đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn: Phan Kim Chiến, em mạnh dạn nghiên cứu đề tài:
"Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty lương thực cấp I Lương Yên."
Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề thực tập tốt nghiệp gồm ba chương:
Chương một: Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường.
Chương hai: Phân tích hiệu quả kinh doanh ở công ty lương thực cấp I Lương Yên.
Chương ba: Một số phương hướng và biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty lương thực cấp I Lương Yên.
Chương I
Nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhiệm vụ cơ bản và lâu dài của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
I. Hiệu quả, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh thương mại.
1. Khái niệm hiệu qủa, và phân loại hiệu quả kinh doanh.
1.1. Khái niệm
Ngày nay khi đề cập đến hiệu quả người ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất. Bởi vì, ở mỗi lĩnh vực, mỗi giác độ khác nhau người ta có những cách nhìn khác nhau về hiệu quả. Và thông thường khi nói đến hiệu quả kinh doanh nào đó thì người ta gắn ngay tên của lĩnh vực đó sau tên của hiệu quả ví dụ như hiệu quả kinh doanh, hiệu quả thương mại, hiệu quả đầu tư tài sản cố định,.... Để hiểu rõ thêm về vấn đề hiệu quả thì chúng ta phải xem xét vấn đề hiệu quả ở hai góc độ: vĩ mô và vi mô.
Nhìn ở góc độ vĩ mô, người ta phân thành 3 lĩnh vực cơ bản: Kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng với 3 lĩnh vực này là 3 phạm trù hiệu qủa: Hiệu quả kinh tế, hiệu qủa chính trị, hiệu quả xã hội.
Hiệu qủa kinh tế.
Nếu theo mục tiêu cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là kết quả giữa thu về và chi phí bỏ ra để có hiệu qủa đó . Trong kết quả thu về chỉ là kết quả phản ánh mục tiêu tổng hợp như: doanh thu, lợi nhuận...
Nếu theo từng yếu tố riêng từng yếu tố riêng lẻ thì hiệu qủa kinh tế thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố, nguồn lực kinh tế, nó là kết quả kinh tế thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố tham gia vào nền kinh tế. Lúc này hiệu qủa kinh tế là một chỉ tiêu chất lượng phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố, nguồn lực của nền kinh tế. Từ đó ta có thể xác định được sự phát triển của nền kinh tế thông qua hiệu quả kinh tế đạt được là cao hay thấp.
Hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị.
Nếu đứng trên phạm vi toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị là những chỉ tiêu phản ánh ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh đối với việc giải quyết các yêu cầu và mục tiêu chung của nền kinh tế và xã hội. Đây là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển của nền kinh tế ở các mặt: Trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân...Thực tế ở các nước tư bản cho thấy do hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội đi kèm dẫn đến hậu quả là thất nghiệp, khủng hoảng có tính chất chu kỳ, khoảng cách giàu nghèo là quá lớn...Tuy nhiên chúng ta không nên chú trọng tới hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị một cách quá thái vì chúng ta có bài học để lại từ thời bao cấp.
Chung quy lại ở góc độ vĩ mô của nền kinh tế thì chỉ tiêu hiệu quả phản ánh đồng thời cả hai mặt: Định lượng và định tính, hai mặt này có quan hệ mật thiết với nhau. Trong những biểu hiện về định lượng nhằm đạt được các mục tiêu về xã hội- chính trị thì trong những biểu hiện của định tính lại nhằm đạt được những mục tiêu về kinh tế.
Nhìn ở góc độ vi mô, từng doanh nghiệp riêng lẻ thì hiệu quả kinh tế đạt được biểu hiện qua phạm trù hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh đầy đủ các mặt của một quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp. Cụ thể là:
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh đầy đủ những lợi ích đạt đựơc từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trên cơ sở so sánh lợi ích thu được với chi phí bỏ ra trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Dưới góc độ này thì chúng ta có thể xác định được một các cụ thể và từ đó có thể tính toán so sánh được. Một cách hiểu khác dưới góc độ này là phạm trù hiệu qủa kinh doanh là một phạm trù cụ thể, nó đồng nhất và là biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu,... thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra nó còn biểu hiện mức độ phát triển của doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Đến lúc này phạm trù kinh doanh là một phạm trù trừu tượng. Nói một cách khác ta có thể biểu hiện hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh trình độ và khả năng quản lý của doanh nghiệp. Tuy nhiên khi xem xét bản chất của hiệu quả kinh doanh phải xem xét chúng trong mối quan hệ với kết quả kinh doanh. Dựa trên kết quả của hoạt động kinh doanh mới có thể xác định được hiệu quả kinh doanh.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh là một việc phức tạp vì bản thân kết quả kinh doanh và chi phí kinh doanh nhiều khi không được phản ánh chính xác. Nguyên do là chi phí và kết quả không được tính toán một cách chính xác do không được tính toán bằng các đơn vị thông thường (như uy tín, chi phí vô hình, ...). Và một đặc điểm rất quan trọng của hiệu quả kinh doanh là khái niệm phức tạp và khó khăn vì ngay ở khái niệm đã cho thấy hiệu quả kinh doanh được xác định bởi mối tương quan giữa hai đại lượng là kết quả hoạt động kinh doanh và chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động kinh doanh đó. Thế mà cả hai đại lượng kết quả và chi phí đều khó xác định chính xác.
Hiệu quả kinh doanh có thể bao gồm hiệu quả sản xuất và hiệu quả thương mại.
Việc đánh giá và xác định hiệu quả kinh doanh thương mại cũng tương tự như việc xác định và đánh giá hiệu quả kinh doanh nhưng nó chỉ tính toán những chi phí và kết quả liên quan đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Về kết quả hoạt động kinh doanh: Hầu như rất ít khi gặp doanh nghiệp xác định chính xác hiệu quả kinh doanh mà doanh nghiệp đạt được ở bất kỳ thời điểm nào. Nguyên nhân là do quá trình kinh doanh không trùng hợp nhau. Việc xác định kết quả hoạt động kinh doanh ở một thời điểm nào đó là rất khó khăn, tốn kém. Hàng hoá của doanh nghiệp đang lưu thông trên thương trường như đang vận chuyển trên đường, lưu kho hoặc gửi bán ở đơn vị bạn,... Khó có thể biết đã diễn ra hoạt động mua bán hay chưa. Bên cạnh đó trong kinh doanh nhiều khi hàng hoá được mua của ở chu kỳ kinh doanh này lại được bán ở chu kỳ kinh doanh khác và ngược lại. Điều đó gây khó khăn cho việc xác định kết quả một cách chính xác.
Bên cạnh đó việc ảnh hưởng của thước đo giá trị ngày càng là nguyên nhân gây ra khó khăn trong việc đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh.Việc xác định chi phí trong kinh doanh cũng không dễ dàng. Về nguyên tắc chi phí kinh doanh được xác định từ chi phí vô hình và chi phí hữu hình. Nhưng việc xác định chi phí nhất là chi phí vô hình là rất khó khăn, nhiều khi chỉ mang tính ước đoán. Rất khó xác định được chi phí của một thương vụ kinh doanh. Trong kinh doanh tài sản vô hình nhiều khi rất quan trọng, chẳng hạn địa hình thuận lợi của cửa hàng, mạng lưới kho tàng nằm trong địa bàn dân cư có nhu cầu lớn,...tạo nên lợi thế so sánh của các công ty. Chi phí tạo lập uy tín cho doanh nghiệp chiếm tỷ lệ lớn trong chi phí kinh doanh của doanh nghiệp ở cả ngắn hạn và dài hạn. Chính vì những lý do trên mà việc xác định hiệu quả kinh doanh nói chung và chi phí kinh doanh nói riêng đòi hỏi phải tính tới cả chi phí vô hình, như vậy mới đảm bảo được tính chính xác của việc tính toán kết quả kinh doanh.
Cũng chính việc xác định hiệu quả kinh doanh và chi phí kinh doanh khó khăn như vậy nên dẫn tới một đặc điểm của hiệu quả kinh doanh là hiệu quả ngắn hạn và hiệu qủa dài hạn chưa chắc đã phù hợp với nhau, nhiều khi mâu thuẫn nhau. Hiệu quả ngắn hạn tốt nhưng hiệu quả dài hạn chưa chắc đã tốt và ngược lại. Chẳng hạn doanh nghiệp chú trọng hiệu quả ngắn hạn chạy theo phi vụ làm ăn mà bỏ qua thị trường, mất bạn hàng, khách hàng nên đem lại hiệu quả xấu cho doanh nghiệp trong dài hạn.
Nói tóm lại ở tầm vi mô, hiệu quả kinh doanh phản ánh đồng thời các mặt của quá trình kinh doanh: kết quả kinh doanh, trình độ sử dụng các yếu tố đầu vào... hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện các mức độ chiều sâu. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng tạo đà cho việc tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản đánh giá việc thực hiện mục tiêu doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
1.2 Phân loại hiệu quả kinh doanh ( Hiệu quả kinh tế)
Trong quản lý sản xuất kinh doanh, phạm trù hiệuquả kinh tê được biểu hiện ở những dạng khác nhau. Việc phân loại hiệu quả kinh tế là cơ sở để xác định các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế, phân tích hiệu quả kinh tê. Có ba cách phân loại sau.
* Hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tế quốc dân.
Hiệu quả kinh tế cá biệt. là hiệu quả thu được từ hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả này là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp thu được và chất lượng thực hiện các yêu cầu xã hội đặt ra cho nó.
Hiệu quả kinh tế quốc dân được tính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Về cơ bản nó là lượng sản phẩm thặng dư, thu nhập quốc dân hoặc tổng sản phẩm xã hội mà đất nước cơ bản thu đựơc trong từng thời kỳ với lượng sản xuất, lao động xã hội và lượng tài nguyên đã hao phí.
Giữa hiệu quả kinh tế cá biệt và hiệu quả kinh tê quốc dân có mối quan hệ nhân quả và tác động qua lại lẫn nhau. Trong việc thực hiện cơ chế của thị trường có sự quản lý của Nhà nước, không những cần tính toán và đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà còn cần phải đạt được hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Mức hiệu quả kinh tế quốc dân lại phụ thuộc vào hiệu quả cá biệt, nghĩa là phụ thuộc vào sự cố gắng của mỗi một doanh nghiệp, mỗi một người lao động. Đồng thời xã hội qua hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước cũng tác động trực tiếp tới hiệu quả cá biệt. Mỗi cơ chế quản lýđúng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao hiệu quả cá biệt. Ngược lại, một chính sách lạc hậu, sai lầm trở thành lực cản kìm hãm việc nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.2.2. Hiệu quả của chi phí bộ phận và hiệu quả của những chi phí tổng hợp.
Hiệu quả chi phí tổng hợp thể hiện mỗi quan hệ tương quan giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả chi phí bộ phận thể hiện mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí của từng yếu tố cần thiết để thực hiện nhiệm vụ (lao động, thiết bị, nguyên vật liệu,...)
Việc tính toán hiệu quả chi phí tổng hợp cho thấy hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp, hay nền kinh tế quốc dân. Việc tính toán và phân tích hiệu quả chi phí bộ phận cho thấy sự tác động của những nhân tố nội bộ sản xuất kinh doanh đến hiệu quả chung. Về nguyên tắc hiệu quả của chi phí tổng hợp phụ thuộc vào các chi phí bộ phận. Việc giảm chi phí bộ phận sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí tổng hợp, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy các doanh nghiệp phải quan tâm, xác định các biện pháp đồng bộ để thu được hiệu quả tổng hợp trên cơ sở các bộ phận cấu thành.
1.2.3. Hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối.
Trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh, việc xác định hiệu quả nhằm hai mục đích.
Một là, phân tích và đáng giá trình độ quản lý và sử dụng các loại chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hai là, phân tích luậnchứng về kinh tế- xã hội các phương án khác nhau, trong việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thế nào đó để chọn lấy một phương án có lợi nhất.
Hiệu quả tuyệt đối là hiệuquả được tính toán cho từng phương án bằng cách xác định mức lợi ích thu được với lượng chi phí bỏ ra. Chẳng hạn tính toán lượng lợi nhuận thu được từ một đồng chi phí hay một đồng vốn bỏ ra. Về mặt lượng hiệu quả này được biểu hiện ở các chỉ tiêu khác nhau, như năng suât lao động, thời hạn hoàn vốn, tỷ suất vốn, lợi nhuận..
Hiệu quả tương đối được xác định bằng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả tuyệt đối, hoặc so sánh tương quan các đại lượng thể hiện chi phí, hoặc kết quả các phương án, để chọn các phương án có lợi nhất về kinh tế.
Trên thực tế để thực hiện một nhiệm vụ nào đó người ta không chỉ tìm thấymột phương án mà có thể đưa ra nhiều phương án. Mỗi phương án đòi hỏi lượng chi phí khác nhau. Vì vậy muốn đạt hiệu quả cao, người làm công tác kinh doanh nói chung và kinh doanh thương mại nói riêng phải biết cân nhắc giữa các phương án, so sánh hiệu quả tương đối để tìm giải pháp tối ưu.
Hiệu quả tương đối và hiệu quả tuyết đối trong kinh doanh có quan hệ chặt chẽ với nhau, song chúng lại có tính độc lập tương đối. Trước hết xác định hiệu quả tuyệt đối là cơ sở để xác định hiệu quả tương đối. Nghĩa là trên cơ sở của những chỉ tiêu tuyệt đối của từng phương án người ta so sánh hiệu quả ấy của từng phương án với nhau. Mức chênh lệch là hiệu quả tương đối.
Tuy vậy có những chỉ tiêu tương đối được xác định không phụ thuộc vào việc xác định hiệu quả tương đối. Chẳng hạn, việc so sánh giữa các mức chi phí của các phương án khác nhau để chọn ra phương án có mức chi phí thấp nhất. Đây chỉ là sự so sánh giữa các mức chi phí của các phương án khác nhau chứ không phải là việc so sánh giữa các mức hiệu quả tuyệt đối của từng phương án.
Như vậy, thông qua khái niệm, bản chất, đặc điểm của hiệu quả kinh doanh chúng ta có thể thấy rằng:
Kết quả hoạt động kinh doanh về cơ bản được xác định bằng các chỉ tiêu, thể hiện mục tiêu kinh doanh cần đạt được như doanh số bán ra, lợi nhuận. hiệu quả kinh doanh thương mại được tính bằng các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau bao gồm các chỉ tiêu hiệu quả đặc thù. Còn hiệu quả xã hội của hoạt động kinh doanh thương mại được đánh giá thông qua việc thực hiện các chủ trương, chính sách và biện pháp xã hội của Nhà nước trong từng thời kỳ nhất định. Tuy nhiên việc phân định ranh giới hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp phải được xem xét một cách toàn diện về tất cả các mặt không gian và thời gian với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Về mặt thời gian: hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được trong từng giai đoạn, từng thời kỳ kinh doanh không được giảm sút hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ tiếp theo. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp không vì lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Không thể quan niệm một cách cứng nhắc là cứ giảm chi tăng thu là luôn đạt hiệu quả mà phải hiểu giảm chi tăng thu một cách toàn diện. Tức là tức là thu và chi có thể tăng đồng thời nhưng tốc độ tăng của chi phí phải nhỏ hơn tốc độ của doanh thu. Có như vậy mới đem lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Nói như vậy vì thực tế lý thuyết quản lý kinh doanh đã chỉ rõ thu và chi có quan hệ tương hỗ với nhau. Chỉ có chi mới có thu, kinh doanh không thể không bỏ chi phí. Phải đảm bảo có lãi, dám chi để có thu nếu xét thấy tính hiệu quả của nó.
Về mặt không gian: Hiệu quả kinh doanh chỉ có thể nói đạt được một cách toàn diện khi toàn bộ hoạt động của các bộ phận, các tổ chức, các khâu mang lại hiệu quả không làm giảm hiệu quả chung. Mỗi kết quả tính được từ một số giải pháp kinh tế hay hoạt động kinh doanh nào đó trong từng đơn vị nội bộ hay toàn bộ đơn vị nếu không làm tổn hại đến hiệu quả chung thì được coi là hiệu quả, mới trở thành mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp.
Như vậy đánh giá hiệu quả kinh doanh nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp từ đó tìm ra những tồn tại, những ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả kinh doanh để từ đó tìm ra những giả pháp, phương hướng khắc phục, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và đem lại hiệu quả cho toàn xã hội.
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả.
2.1 Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp.
Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp là tập hợp các nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được cũng như có thể điều chỉnh được ảnh hưởng của chúng. Tập hợp các nhân tố này bao gồm: lực lượng lao động, trình độ phát triển kinh tế kỹ thuật, mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, hệ thống trao đổi xử lý thông tin.... Mỗi một nhân tố có ảnh hưởng nhất định, tuỳ theo mỗi doanh nghiệp và loại hình kinh doanh của doanh nghiệp đó.
2.1.1. Nhân tố lao động.
Lực lượng lao động đóng vai trò then chốt trong kinh doanh. Trình độ, năng lực của người lao động là nhân tố tác động trực tiếp tới kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc tổ chức phân công lao động hiệp tác hợp lý giữa các bộ phận cá nhân trong doanh nghiệp, sử dụng đúng người đúng việc phải xuất phát từ yêu cầu mới tìm người. Tận dụng một cách tốt nhất năng lực sở trường của từng lao động là một yêu cầu không thể thiếu được trong tổ chức nhân lực của công ty. Có thể coi con người phù hợp trong kinh doanh là điều kiện cần để kinh doanh đạt hiệu qủa. Việc bố trí nhân lực phụ thuộc vào chiến lược, đặc điểm kinh doanh của từng công ty. Tổ chức nhân lực chặt chẽ ( chuyên môn hoá cao) sẽ giảm tính độc lập, sáng tạo của người lao động. Nhưng tổ chức lỏng lẻo quá sẽ gây lộn xộn, khó quản lý, khó tập trung sức mạnh vào mục tiêu chung. Tuy nhiên tổ chức nhân lực phải đảm bảo mục tiêu chung là đúng người đúng việc, quyền lợi trách nhiệm rõ ràng sao cho có thể thực hiện nhanh nhất, đồng bộ mệnh lệnh của cấp trên đồng thời khuyến kích được tính độc lập sáng tạo của công nhân viên.
Trong kinh doanh, xuất phát từ chức năng chính là mua bán hàng hoá nên việc tổ chức nhân lực hợp lý, chặt chẽ là yêu cầu không thể thiếu được, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp. Do kinh doanh có chu kỳ kinh doanh ngắn, chịu sự biến động mạnh mẽ của thị trường nên đòi hỏi bộ máy nhân lực phải gọn nhẹ, linh hoạt. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu kinh doanh, mang lại hiệu quả cao.
2.1.2.Cơ sở vật chất kỹ thuật.
Cơ sở vật chất kỹ thuật trong kinh doanh là yếu tố vật chất hữu hình quan trọng phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Cơ sơ vật chất của doanh nghiệp sẽ đem lại sức mạnh kinh doanh cho doanh nghiệp trên cơ sở sức sinh lời tài sản.
Nhân tố này đặc biệt quan trọng đối với các doanh nghiệp thương mại. Là đơi vị kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông, cơ sở vật chất của doanh nghiệp tuy không chiếm tỷ lệ lớn trong tổng tài sản nhưng nó lại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (nhà cửa, cửa hàng, kho tàng, bến bãi...). Cơ sở vật chất của doanh nghiệp càng được bố trí hợp lý bao nhiêu thì càng đem lại hiệu quả cao bấy nhiêu. Điều này có thể thấy khá rõ nếu một doanh nghiệp có hệ thống kho tàng, cửa hàng nằm trong khu vực dân cư có nhu cầu lớn, thuận tiện giao thông... sẽ đem lại cho doanh nghiệp tài sản vô hình lớn. Đó là lợi thế kinh doanh khó có thể có được từ các doanh nghiệp khác.
Hệ thống cơ sở vật chất của doanh nghiệp bố trí thành mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp. Mạng lưới kinh doanh có vai trò rất lớn giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh thị trường, mở rộng thị trường tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp góp phần mang lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp, nâng cao tính ổn định trong kinh doanh. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp cần phù hợp với mỗi doanh nghiệp, trên mỗi thị trường. Mạng lưới kinh doanh phải đảm bảo tính hợp lý, tiết kiệm cũng như kiểm soát được giữa các mắt sích trong mạng lưới. Trong thương mại mạng lưới kinh doanh phải đảm bảo bám sát thị trường phục vụ khách hàng nhanh, kịp thời, tiết kiệm chi phí. Mạng lưới phải dễ quản lý nhưng vẫn đảm bảo tính báo quát thị trường.
2.1.3. Nhân tố tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý.
Quản trị trong doanh nghiệp đóng vai trò thành công hay thất bại trong kinh doanh. Chính vì vậy mà nó ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Trước hết để quản trị doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố ngoại lai có ảnh hưởng. Sự phân tích đầy đủ các yếu tố trả lời cho chúng ta câu hỏi: Doanh nghiệp đang ở trong môi trường nào? Các doanh nghiệp suy cho cùng thường bị trói buộc bởi sự hạn hẹp về khả năng tài chính. Điều đó trả lời câu hỏi doanh nghiệp đang ở trong hoàn cảnh nào?
Tất cả các hoạt động quản trị nếu thiếu ý tưởng mới thì chỉ là sự chấp nhận sơ cứng một quá trình cũ. Mọi thẵng lợi chỉ có thể có nếu hoạt động chính trị bắt đầu từ các ý tưởng mới. Một doanh nghiệp nếu yếu tố quản trị non kém sẽ ảnh hưởng tiêu cực rất lớn tới kết quả cũng như hiệu quả kinh doanh, là điều tệ hại đối với doanh nghiệp trên thương trường. Kết qủa là doanh nghiệp sẽ kinh doanh không hiệu quả được. Nhưng bằng cách nào có thể xác định được yếu tố quản trị là mạnh hay yếu? Yếu tố quản trị như thế nào là mạnh? Cơ cấu tổ chức của ban lãnh đạo như thế nào là hợp lý? Điều này phụ thuộc vào mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh. Nhưng một yêu cầu chung của nhân tố quản trị là phải đảm bảo các nguyên tắc gọn nhẹ, thống nhất, linh hoạt vì chỉ có như vậy mới hạ thấp chi phí hành chính, tránh chồng chéo trách nhiệm tạo nên sức ỳ trong quản trị.
Ngoài những nhân tố trên, nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp còn có các nhân tố như: Nhân tố hệ thống trao đổi và xử lý thông tin, nhân tố toán kinh tế. Các nhân tố này có ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh với các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào mỗi doanh nghiệp, mỗi loại hình kinh doanh. Những nhân tố này hợp lý và kết hợp chặt chẽ với nhân tố trên sẽ tạo nên sức mạnh to lớn cho doanh nghiệp, tạo ra nội lực để doanh nghiệp kinh doanh có hiệu qủa.
2.2. Nhóm nhân tố ngoài doanh nghiệp.
Nhân tố ngoài doanh nghiệp là nhóm nhân tố không nằm trong sự kiểm soát của doanh nghiệp. Nhóm nhân tố này bao gồm: Môi trường kinh doanh, môi trường cạnh tranh, môi trường pháp luật- chính trị, môi trường tự nhiên, cơ sở hạ tầng, môi trường kinh tế, các chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước...Các nhân tố này doanh nghiệp không kiểm soát được mà phải tìm biện pháp thích ứng với nó.
2.2.1. Nhân tố môi trường kinh doanh.
Nhân tố môi trường kinh doanh bao gồm các nhân tố: đối thủ cạnh tranh, thị trường, cơ cấu ngành, tập quán và mức độ thu nhập bình quân của dân cư.
* Đối thủ cạnh tranh: Nếu doanh nghiệp có đối thủ cạnh tranh mạnh thì việc nâng cao hiệu quả thương mại là việc khó khăn hơn rất nhiều. Vì giờ đây doanh nghiệp chỉ có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh bằng cách nâng cao chất lượng để đẩy mạnh tiêu thụ, giảm giá thành, tổ chức lại bộ máy hoạt động kinh doanh phù hợp, hợp lý hơn,tối ưu hơn để bù lại những mất mát của doanh nghiệp do cạnh tranh về giá, cạnh tranh về chất lượng, mẫu mã...Như vậy đổi thủ cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn tới việc nâng cao hiệu quả thương mại của doanh nghiệp. Nó vừa là đối thủ mang lại trở ngại vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường khi xuất hiện đổi thủ cạnh tranh thì việc nâng cao hiệu quả thương mại sẽ bị giảm đi một cách tương đối.
* Thị trường: ở đây thị trường bao gồm cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp. Bởi vì thị trường ảnh hưởng rất lớn tới giá thành sản phẩm, tính liên tục và hiệu qủa của sản xuất. Thị trường đầu ra quyết định tới doan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 100369.doc