Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch ở Công ty kim khí Hà Nội

Hơn 10 năm đã qua đi, đó là khoảng thời gian đất nước ta được hồi sinh, nhưng cũng là khoảng thời gian khó khăn và thử thách đối với các doanh nghiệp nói chung và của các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng vốn đã quen với cơ chế quản lý bảo hộ của Nhà nước, nay phải chịu sự sàng lọc khắc nghiệt của cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển. Sự đổi mới này đã tạo ra một bước cho sự phát triển kinh tế Việt nam. Để đứng vững trong cơ chế mới, chúng ta không thể làm gì khác là phải giám tiếp nhận cái đúng, cái mới và xoá bỏ những tư tưởng trì trệ, bảo thủ, từ đó hình thành lên đồng bộ các yếu tố thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển hữu hiệu.

Cơ chế thị trường nếu biết vận hành nó sẽ phát huy được những mặt tích cực mà chúng ta khong thể phủ nhận được. Nhưng nó cũng đặt ra một yêu cầu: cơ chế quản lý kinh tế Nhà nước phải thực sự đổi mới. Chuyển sang nền kinh tế thị trường đồng nghĩa với Nhà nước đã chuyển giao cho các Doanh nghiệp Nhà nước quyền lợi to lớn và gắn liền với nó là những trách nhiệm nặng nề khi sự hỗ trợ của còn lại của Nhà nước là không đáng kể. Chính vì vậy, để thích nghi được trong cơ chế thị trường, mỗi Doanh nghiệp phải tìm ra đáp án của 3 vấn đề kinh tế lớn, đó là: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? phù hợp với năng lực và nghành nghề của mình. Điều quan trọng là Doanh nghiệp phải làm như thế nào để đáp ứng được một cách tốt nhất nhu cầu thị trường. Đó là vấn đề sống còn của mỗi Doanh nghiệp, đó cũng chính là lý do tại sao mỗi Doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một phương án sản xuất kinh doanh tối ưu.

Vì vậy có thể nói, công tác lập kế hoạch là một công cụ chủ yếu, hữu hiệu để Doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển cho mình. Trong những năm gần đây, công tác công tác lập kế hoạch đã có sự đổi mới. Tuy nhiên sự đổi mới đó đặc biệt là về công tác lập kế hoạch Doanh nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề cần được bàn bạc và tiếp tục được hoàn thiện trên nhiều phương diện từ nhận thức của người làm kế hoạch đến nội dung phương pháp làm kế hoạch.

Trong thời gian thực tập tại Công ty Kim khí Hà Nội tôi đã tìm hiểu về công tác công tác lập kế hoạch và đi sâu nghiên cứu công tác lập kế hoạch và thực hiện đề tài:

“ Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch ở Công ty kim khí Hà Nội.”

Nội dung của đề tài bao gồm những phần sau:

Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận cơ bản của công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trong Doanh nghiệp.

Phần thứ hai: Thực trạng công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty Kim khí Hà Nội.

Phần thứ ba: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty Kim khí Hà Nội.

 

doc92 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1231 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch ở Công ty kim khí Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời nói đầu Hơn 10 năm đã qua đi, đó là khoảng thời gian đất nước ta được hồi sinh, nhưng cũng là khoảng thời gian khó khăn và thử thách đối với các doanh nghiệp nói chung và của các doanh nghiệp Nhà nước nói riêng vốn đã quen với cơ chế quản lý bảo hộ của Nhà nước, nay phải chịu sự sàng lọc khắc nghiệt của cơ chế thị trường để tồn tại và phát triển. Sự đổi mới này đã tạo ra một bước cho sự phát triển kinh tế Việt nam. Để đứng vững trong cơ chế mới, chúng ta không thể làm gì khác là phải giám tiếp nhận cái đúng, cái mới và xoá bỏ những tư tưởng trì trệ, bảo thủ, từ đó hình thành lên đồng bộ các yếu tố thị trường, tạo điều kiện cho thị trường phát triển hữu hiệu. Cơ chế thị trường nếu biết vận hành nó sẽ phát huy được những mặt tích cực mà chúng ta khong thể phủ nhận được. Nhưng nó cũng đặt ra một yêu cầu: cơ chế quản lý kinh tế Nhà nước phải thực sự đổi mới. Chuyển sang nền kinh tế thị trường đồng nghĩa với Nhà nước đã chuyển giao cho các Doanh nghiệp Nhà nước quyền lợi to lớn và gắn liền với nó là những trách nhiệm nặng nề khi sự hỗ trợ của còn lại của Nhà nước là không đáng kể. Chính vì vậy, để thích nghi được trong cơ chế thị trường, mỗi Doanh nghiệp phải tìm ra đáp án của 3 vấn đề kinh tế lớn, đó là: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? và sản xuất như thế nào? phù hợp với năng lực và nghành nghề của mình. Điều quan trọng là Doanh nghiệp phải làm như thế nào để đáp ứng được một cách tốt nhất nhu cầu thị trường. Đó là vấn đề sống còn của mỗi Doanh nghiệp, đó cũng chính là lý do tại sao mỗi Doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình một phương án sản xuất kinh doanh tối ưu. Vì vậy có thể nói, công tác lập kế hoạch là một công cụ chủ yếu, hữu hiệu để Doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển cho mình. Trong những năm gần đây, công tác công tác lập kế hoạch đã có sự đổi mới. Tuy nhiên sự đổi mới đó đặc biệt là về công tác lập kế hoạch Doanh nghiệp vẫn còn nhiều vấn đề cần được bàn bạc và tiếp tục được hoàn thiện trên nhiều phương diện từ nhận thức của người làm kế hoạch đến nội dung phương pháp làm kế hoạch. Trong thời gian thực tập tại Công ty Kim khí Hà Nội tôi đã tìm hiểu về công tác công tác lập kế hoạch và đi sâu nghiên cứu công tác lập kế hoạch và thực hiện đề tài: “ Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch ở Công ty kim khí Hà Nội.” Nội dung của đề tài bao gồm những phần sau: Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận cơ bản của công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trong Doanh nghiệp. Phần thứ hai: Thực trạng công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh ở công ty Kim khí Hà Nội. Phần thứ ba: Một số biện pháp nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty Kim khí Hà Nội. Phần thứ nhất Những vấn đề lý luận cơ bản của công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh trong Doanh nghiệp Sự cần thiết khách quan của công tác kế hoạch trong cơ chế thị trường. Quan niệm về kế hoạch Khi các Doanh nghiệp tiến hành thực hiện sản xuất kinh doanh việc đầu tiên của họ là lập kế hoạch cho việc thực hiện đó. kế hoạch sản xuất kinh doanh là một công cụ quản lý của các Doanh nghiệp và tổ chức kinh tế nhằm đem lại hiệu quả cho các Doanh nghiệp và các tổ chiức đó. Cũng như mọi phạm trù quản lý khác, đối với công tác công tác lập kế hoạch cũng có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Mỗi cách tiếp cận đều xem xét kế hoạch theo một góc độ riêng và đều cố gắng biểu hiện đúng bản chất của phạm trù quản lý này. Cách tiếp cận theo quá trình cho rằng: kế hoạch sản xuất kinh doanh là một quá trình có tính chất liên tục từ khi chuẩn bị xây dựng kế hoạch cho đến khi thực hiện kế hoạch, kiểm tra đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch để đưa Doanh nghiệp phát triển theo các mục tiêu đã xác định. Theo Steiner thì “ công tác lập kế hoạch là một quá trình bắt đầu từ việc thiết lập các mục tiêu và việc quyết định chến lược, các chính sách, kế hoạch chi tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết định khả thi và nó bao gồm chu kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và quyết định chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa”. Trong cách tiếp cận này, khái niệm hiện tượng tương lai, tính liên tục của quá trình, sự gắn bó của hàng loạt hành động và quyết định để đạt được mong muốn đều đã được thể hiện. Công tác lập kế hoạch chến lược là một trạng thái ý tưởng, đó là sự suy nghĩ về sự tiến triển của Doanh nghiệp, về những gì mong muốn và cách thức để thực hiện chúng. ngày nay công tác lập kế hoạch Doanh nghiệp được xem là một quá trình xác định mục tiêu, các phương án huy động nguồn lực(bên trong và bên ngoài) nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã xác định. công tác lập kế hoạch chú ý đến tính phức tạp của các vấn đề: số lượng các bộ phận kế hoạch, tính chất đặc điểm, chức năng, thời hạn, đối tượng khác nhau cần được cân nhắc kỹ lưỡng. Công tác lập kế hoạch của các Doanh nghiệp nhằm mục tiêu sử dụng một cáchi hợp lý nhất toàn bộ giá trị tài sản Nhà nước giao cho tập thể lao động trong xí nghiệp trực tiếp quản lý để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao năng xuất lao động, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế xã hội, tạo nhiều sản phẩm và sản xuất hàng hoá, dịch vụ cần thiết cho xã hội, tạo nguồn thu cho ngân sách quốc gia và cải thiện từng bước đời sống công nhân viên chức.công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh nhằm xác định số lượng từng loại sản phẩm, giá cả, chất lượng sản phẩm để đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường và hiệu quả ngày càng cao. Cách tiếp cận theo nội dung và vai trò: Theo HENRYPAYH, kế hoạch là một trong những hoạt động cơ bản của chu trình quản lý cấp công ty. xét về mặt bản chất hoạt động này là nhằm xem xét mục tiêu các phương án kinh doanh, bước đi trình tự và cách tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo RONNEY: hoạt động công tác lập kế hoạch là một trong những hoạt động nhằm tìm ra con đường để huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả để phục vụ cho các mục tiêu kinh doanh. Trong thời kỳ bao cấp, ở Việt nam quan niệm: công tác lập kế hoạch là tổng thể các hoạt động nhằm xác định các mục tiêu, các nhiệm vụ của sản xuất kinh doanh, về tổ chức đời sống và tổ chức thực hiện để đạt được các mục tiêu đó, trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan, các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ. Các khái niệm trước đây cho thấy công tác lập kế hoạch được đề cập chủ yếu thông qua các nội dung của nó mà chưa làm nổi bật đặc tính về thời gian, mức độ những nét đặc trưng của công tác lập kế hoạch. Có quan niệm lại cho rằng: kế hoạch là tập hợp các mục tiêu và các phương thức để thực hiện mục tiêu. Việc lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải làm gì? làm như thế nào? và làm bằng công cụ gì? khi nào làm? và ai làm? Mặt dù ít tiên đoán được chính xác trong tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát có thể phá vở cả những kế hoạch tốt nhất đã có, nhưng không có kế hoạch thì các sự kiện xẩy ra một cáchi ngẫu nhiên và ta sẽ mất đi khả năng hành động một cách chủ động. 2.Đặc điểm của thị trường và công tác xây dựng kế hoạch Cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước mà nước ta đang hướng tới xây dựng đã và đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải được giải quyết. Riêng trong lĩnh vực công tác lập kế hoạch, trong những năm chuyển đổi cơ chế vừa qua đã tồn tại những ý kiến rất khác nhau, thậm trí trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Những cuộc tranh luận, trao đổi theo các hướng khác nhau đã tương đối thống nhất với nhau. Bài học thực tế, bài học và kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, cùng với các kết quả ngghiên cứu bước đầu ở nước ta cho phép khẳng định sự tồn tại của công tác công tác lập kế hoạch trong cơ chế quản lý mới, cơ chế quản lý thị trường có sự quản lý của Nhà nước là một tất yếu khi quan. Trong điều kiện này, công tác lập kế hoạch cần được tăng cường và đổi mới, bởi lẽ: Về mặt lý luận Những đặc trưng của nền kinh tế thị trường và ưu nhược điểm của nó Sự vận động của thị trường dựa trên 3 quy luật sau : Quy luật giá trị : Tức trao đổi hàng hoá được tiến hành phù hợp với hoa phí lao động xã hội cần thiết để tạo ra nó. Quy luật giá trị được biểu hiện trên thị trường thông qua quy luật giá cả biến động xoay quanh giá trị . Quy luật cung, cầu : Tức sự thay đổi thường xuyên giữa nhu cầu với hàng hoá được cung cấp đã tạo ra một điểm cân bằng mới.Tại đó cung cầu và giá cả được xác định đối với một loạt hàng hoá, khi cầu lớn hơn cung thì giá tăng và ngược lại cầu nhỏ hơn cung thì giá giảm. Quy luật cạnh tranh: tức là chủ thể kinh tế tham gia hoạt động trên thị trường phải chấp nhận sự xuất hiện của các chủ thể kinh tế khác cùng bán hoặc cùng mua một loại hàng hoá hoặc những mặt hàng tương tự. ở đó có sự tranh dành về địa bàn hoạt động và khách hàng mua hoặc bán để trao đổi hàng hoá được nhiều nhất nhằm thu lợi nhuận cao. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường có tính năng động và thích nghi rất cao trước các biến động của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị. ở đó tính cạnh tranh cao đòi hỏi các chủ thể kinh tế phải đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, đổi mới cung cách quản lý. Cơ chế thị trường mở ra một môi trường thông thoáng, thuận lợi cho mọi người lao động và các tổ chức kinh tế phát huy tính tự chủ tự làm, tự chịu trước trách nhiệm trước các việc làm của mình đồng thời được đánh giá khên thưởng kỷ luật đúng với thực lực. Các quan hệ kinh tế được mở rộng không chỉ giữa các tổ chức kinh tế trong nước với nhau và giữa nước ta với các nước trên thế giới, tạo điều kiện giúp đỡ nhau về vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý để phát triển. Có thể nói rằng, kinh tế thi trường vừa là động lực vừa là phương tiện của sự phát triển. - Nhược điểm của nền kinh tế thị trường Mặc dù mang trong mình những ưu điểm nổi bật. Nhưng kinh tế thị trường cũng có những khuyết tật của nó. Đó là sự tự phát trong sản xuất kinh doanh, từ đó gây ra sự mất cân đối kinh tế nghành, kinh tế vùng, làm lãng phí nguồn lực, khủng hoảng thừa thiếu về hàng hoá, phân hoá giàu nghèo. Không những thế, nó còn gây ra những hậu quả về mặt xã hội như làm xói mòn phong tục tập quán, truyền thống tốt đẹp của đân tộc. Bởi tính thực dụng và mục đích kinh doanh là lợi nhuận đã được đề cao quá mức ở một số cá nhân hoặc tổ chức kinh tế… Do vậy, để có được sự phát triển lành mạnh thì cần phải có sự can thiệp của nhà nước bằng các công cụ chính sách hữu hiệu không chỉ riêng quốc gia nào. Đặc điểm của công tác lập kế hoạch Công tác lập kế hoạch là hoạt động chủ quan có ý thức, có tổ chức của con người nhằm xác định các mục tiêu, phương án, buớc đi, trình tự và cách thức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó kế hoạch là yêu cầu của bản thân quá trình lao động của con người và gắn bó với quá trình đó. Nhân tố quan hệ sản xuất chỉ có tác động chủ yếu vào quá trình hình thành mục tiêu và phương thức thực hiện chúng chứ không thể loại trừ quá trình này . Thực chất của công tác lập kế hoạch là quá trình định hướng và điều khiển định hướng đối với sự phát triển của sản xuất theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp của nền kinh tế. Cùng với qúa trình phát triển lực lượng sản xuất, quá trình xã hội hoá sản xuất và mở rộng phân công hiệp tác lao động, phạm vi và trình độ kế hoạch này càng được nâng cao tương xứng. Trên phương diện đó công tác lập kế hoạch là thành quả chung của mọi hình thái kinh tế xã hội. ở nước ta, xuất phát từ mô hình kinh tế mà chúng ta đang hướng tới xây dụng là mô hình kinh tế hỗn hợp thích ứng với nó là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Kế hoạch được xác định là một trong những công cụ điều tiết để Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế. Như vậy, công tác lập kế hoạch là việc làm chủ quan của con ngưòi nhằm can thiệp và điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh với mong muốn chúng càng ngày càng có hiệu quả và ổn định. nhưng công tác lập kế hoạch lại có nhược điểm lớn là luôn luôn có độ sai lệch. Chỉ có điều là sai lệch ít hay nhiều tuỳ thuộc vào làm kế hoạch. Bởi vì các phương án và quyết định kế hoạch thường dựa vào kết quả dự đoán, dự báo, về hiện tượng sẽ xẩy ra trong tương lai. vì vậy tất yếu sẽ xẩy ra khoảng cách giữa thực tế và kế hoạch, điều này phải được tiến hành điều chỉnh kịp thời mà mọi sự thay đổi phương án kế hoạch thường kéo theo hậu quả ảnh hưởng tới lĩnh vực khác có liên quan. Từ đặc điểm của công tác lập kế hoạch và thị trường cho chúng ta thấy sự mâu thuẫn nhưng thống nhất của hai vấn đề chủ quan và khách quan. do đó nhất thiết chúng phải được gắn kết với nhau để phát huy những thế mạnh và bù đắp thiếu hụt cho nhau vì mục tiêu đưa hoạt động sản xuất kinh doanh, phát triển nhanh và ổn định. Thị trường sẽ xuất hiện ở mọi khâu của kế hoạch. nó là căn cứ xây dụng thực hiện đồng thời là tiêu chuẩn để đánh giá kế hoạch. Ngược lại , kế hoạch làm lành mạnh hoá hoạt động thị trường biến chúng thành phương tiện hữu hiệu để thực hiện các mục đích chủ quan của con người. Về mặt thực tiễn Trong những năm đầu chuyển đổi cơ chế, công tác kế hoạch không được coi trọng đúng mức. Vì vậy, quản lý Doanh nghiệp bị cuốn hút và trôi nổi theo thị trường. Công tác lập kế hoạch không những không phát huy được tác dụng là điều chỉnh thị trường mà còn gây ra sự gò bó cứng nhắc thiếu linh hoạt trong quản lý. biểu hiện cụ thể là những cơn sốt về nhà đất, ngoại tệ, vốn, thừa thiếu sắt thép, xi măng, sự tăng trưởng đột biến cũng như giảm nhanh các dịch vụ, du lịch trong khi công nghiệp, nông nghiệp phát triển ì ạch. sự phát triển nhanh chóng và quá tải ở các thành phố lớn trong khi các thành phố khác vẫn là nền văn minh nông nghiệp. người nông dân ở các tỉnh nghèo ùn ùn kéo ra thành phố kiếm sống từ người già đến trẻ em kéo theo nẩy sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Nền kinh tế Việt Nam thực sự bị chao đảo trước cơn lốc thị trường. Mặt khác, kinh nghiệm của các nước trong khu vực và trên thế giới đã chỉ ra rằng không chỉ để bàn tay vô hình điều khiển nền kinh tế từ vi mô đến vĩ mô mà phải có sự can thiệp của Nhà nước bằng nhiều cách trong đó có sử dụng công tác lập kế hoạch. Tóm lại : công tác lập kế hoạch vãn cần thiết và phải được phát huy trong cơ chế mới: cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chỉ có điều khác trước là nó sẽ được đổi mới và ngày càng được hoàn thiện hơn về nội dung phương pháp và tổ chức để phù hợp với thực tiễn khách quan, phát huy được thế mạnh vốn có của một công cụ quản lý gián tiếp quan trọng. Vai trò của công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường Trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, kế hoạch sản xuất - kinh doanh của các Doanh nghiệp cũng chỉ là những chỉ tiêu pháp lệnh mà Nhà nước giao cho các đơn vị. Cùng với các chỉ tiêu đó, Nhà nước quy định giá bán, địa điểm tiêu thụ. 3 vấn để kinh tế cơ bản của Doanh nghiệp đều do Nhà nước quy định. Do vậy nhiều Doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, không có tính sáng tạo, tự chủ, không kích thích sản xuất phát triển. Khi chuyển sang mô hình kinh tế hỗn hợp, cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, kế hoạch là khâu đầu tiên, là bộ phận quan trọng của công tác quản lý. Không có kế hoạch một Doanh nghiệp, hay một tổ chức bất kỳ nào sẽ như con thuyền không lái và chẳng ai biết nó sẽ đi tới đâu. Hoạt động kế hoạch hoá sẽ giúp cho các Doanh nghiệp chủ động hoạch định các mục tiêu cũng như thực hiện chúng. Nó giúp mọi người biết mục tiêu cần đạt được và cần phải làm gì để thực hiện mục tiêu đó. Thiếu kế hoạch Doanh nghiệp sẽ không tiến tới mục tiêu một cách hữu hiệu, hơn nữa nó vạch ra những tác động quản trị nhằm đối phó với những biến đổi. Các phương án với sản phẩm khác nhau theo thời gian (tuỳ thuộc vào thời gian của chiến lược, chương trình, dự án, kế hoạch tác nghiệp…) là công cụ để điều hành chỉ huy sản xuất, là cơ sở để xác định nhiệm vụ và mối quan hệ cộng tác giữa các bộ phận và giữa người lao động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh. kế hoạch hoá góp phần giúp các Doanh nghiệp thắng lợi trong cạnh tranh bằng cách xây dụng các kế hoạch nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh, tập trung tận dụng thế mạnh của Doanh nghiệp. kế hoạch sản xuất - kinh doanh đảm bảo sự an toàn chống rủi ro kinh doanh cho Doanh nghiệp thông qua việc định ra nhiệm vụ an toàn, trong đó khả năng rủi ro vẫn có thể xẩy ra nhưng chỉ là thấp nhất. Các kế hoạch dự phòng cho phép ứng phó một cách nhanh nhạyvới những thay đổi mà không lường trước tuy vậy, cần tránh tu tưởng xây dụng kế hoạch theo kiểu “được ăn cả ngã về không“. Khi xây dụng kế hoạch người ta thường phải tính toán sao cho khắc phục được tình trạng dàn trải nguồn lực hoặc tránh không sử dụng hết nguồn lực nhằm khai thác tối đa nguồn lực của Doanh nghiệp. kế hoạch là sự kết hợp giữa độ chín muồi với thời cơ, thể hiện những tham vọng trong tương lai nhằm đạt mục tiêu tồn tại và phát triển không ngừng của Doanh nghiệp. Lập kế hoạch là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý của Doanh nghiệp với việc phác thảo các mục tiêu và phương án thực hiện góp phần không nhỏ vào việc xác định đúng các mục tiêu hướng đi từ đó xác lập đánh giá, lựa chọn các phương án phối hợp các nguồn lực bên trong và bên ngoài để thực hiện có kết quả tốt các mục tiêu sản xuất - kinh doanh. II. Phương pháp lập kế hoạch sản xuất - kinh doanh Phân loại các chỉ tiêu kế hoạch Các loại kế hoạch sản xuất - kinh doanh Tuỳ theo các cách phân loại, theo những tiêu thức khác nhau mà kế hoạch sản xuất - kinh doanh được chia thành: Kế hoạch dài hạn (kế hoạch chiến lược ) Nhằm xác định các lĩnh vực đã tham gia, đa dạng hoá hoặc cải thiện hoạt động trên các lĩnh vực hiện taị, xác địng các mục tiêu chính sách. Giải pháp dài hạn thường từ 4 – 5 năm, về mặt tài chính, đầu tư nghiên cứu phát triển con người. kế hoạch trung hạn thường từ 2 – 3 năm nhằm phát thảo các chính sách, chương trình trung hạn để thực hiện các mục tiêu chính sách, giải pháp được hoạch định trong chiến lược lựa chọn. Kế hoạch hàng năm: là sự cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất - kinh doanh dựa vào mụa tiêu chiến lược, kế hoạch, kết quả điều tra, các căn cứ xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện năm kế hoạch. Kế hoạch dài hạn, trung hạn, hàng năm có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Kế hoạch dài hạn giữ vai trò trung tâm, chỉ đạo trong hệ thống kế hoạch sản xuất - kinh doanh, là cơ sở để xây dựng kế hoạch trung hạn và hàng năm. Nên những nhiệm vụ và nội dung của kế hoạch chiến lược được thể hiện trong nội dung và chiến lược hàng năm. Mặt khác, thông qua việc lập kế hoạch hàng năm có thể phát huy được chỗ chưâ cân đối, không hợp lý của kế hoạch dài hạn để kịp thời điều chỉnh và có những biện pháp thích hợp. Như vậy không có nghĩa là kế hoạch hàng năm là một bộ phận mang tính chất tỷ lệ đơn thuần máy móc của kế hoạch dài hạn. ở nước ta, nội dung, phương pháp xác định, chỉ tiêu biểu mẫu của kế hoạch hàng năm được thể hiện theo quyết định 217/ HĐBT ngày 14/11/1987 và các văn bản sửa đổi bao gồm: Kế hoach sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: Là bộ phận chủ đạo và trung tâm của kế hoạch hàng năm, nó còn là căn cứ để tính toán các chỉ tiêu khác, kế hoạch sản xuất tiêu thụ gồm hai bộ phận là kế hoạch sản xuất và kế hoạch tiêu thụ. Nội dung của kế hoạch sản xuất thể hiện qua các chỉ tiêu sản lượng, sản phẩm chủ yếu mà các loại sản phẩm tính bằng đơn vị hiện vật. Nội dung của kế hoạch tiêu thụ được phản ánh qua các chỉ tiêu giá trị, sản lượng hàng hoá thực hiện và số lượng sản phẩm mỗi loại được tiêu thụ… Kế hoạch vật tư kỹ thuật: Là bộ phận tái sản xuất của Doanh nghiệp. Nó phản ánh thu mua sử dụng hợp lý tiết kịêm nguyên liệu đẩm bảo có hiệu quả kế hoạch sản xuất tiêu thụ nội dung chủ yếu thể hiện qua các chỉ tiêu số lượng vật tư cần dùng, dự trữ, cần thu mua trong năm kế hoạch. Kế hoạch lao động tiền lương là kế hoạch đảm bảo số lượng và chất lượng lao động nó thể hiện khả năng sử dụng có hiệu quả sức lao động, quỹ tiền lương, quỹ tiền thưởng…nội dung thể hiện qua năng suất lao động. -Kế hoạch nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật: là bộ phận quan trọng của kế hoạch sản xuất kinh doanh. Kế hoạch phản ánh khả năng thực hiện có hiệu quả các mục tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh. Nội dung của kế hoạch được thể hiện qua các đề tầi nghiên cứu khoa học, phương pháp áp dụng quy trình công nghệ tiên tiến, sử dụng máy móc thiết bị kỹ thuật mới. -Kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản: Là bộ phận của kế hoạch đảm bảo phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh trên cơ sở xác định hợp lý vốn đầu tư cơ bản và sửa chữa tài sản của Doanh nghiệp. Nội dung cuả kế hoạch được thể hiện qua cấc chỉ tiêu về xây dựng cơ bản. -Kế hoạch giá thành sản phẩm đảm bảo việc xác định phù hợp và tiết kiệm các loại chi phí sản xuất cho một đơn vị sản phẩm. Nội dung bao gồm các chỉ tiêu như giá thành đơn vị chủ yếu, giá thành toàn bộ, tỷ lệ hạ giá thành… + Kế hoạch tài chính là kế hoạch tổng hợp toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp dưới hình thức tiền tệ. Nó phản ánh tổng chi phí cho các dự án, hiệu quả kinh tế sẽ đạt được của dự án đó…nội dung gồm các chỉ tiêu khấu hao tài sản cố định, định mức vốn lưu động các chỉ tiêu luân chuyển vốn lưu động + Kế hoạch đời sống phản ánh mức độ cải thiện đời sống, sử dụng quỹ phúc lợi…các bộ phận kế hoạch trên có mối qua hệ chặt chẽ trên, vì vậy khi xây dựng cũng như chỉ đạo thực hiện phải chú ý tới mối quan hệ đó. Nếu căn cứ vào mối quan hệ gắn bó giữa các loại hoạt động công tác lập kế hoạch gồm: - Bộ phận kế hoạch điều kiện hay hỗ trợ nhằm xác định các mục tiêu, giải pháp các phương án huy động, khai thác khả năng và nguồn lực nhằm xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn liền với từng phương án được hoạch định. Các kế hoạch, điều kiện hay hỗ trợ nhằm xác định các mục tiêu giải pháp phương án huy động, khai thác các khả năng và nguồn lực nhằm thực hiện có hiệu quả các phương án kế hoạch, mục tiêu. Việc xác định các kế hoạch này căn cứ và gắn bó với kế hoạch , mục tiêu, giải pháp, điều kiện thực hiện các hoạt động kế hoạch hoá và quản lý. Độ đài về thời gian và yêu cầu của kế hoạch, mục tiêu sẽ quyết định các vấn đề tương ứng của kế hoạch, điều kiện. Hơn nữa việc xây dựng và thực hiện kế hoạch điều kiện là nhằm đảm bảo và năng cao tính khả thi của các phương án và các chương trình kế hoạch của Doanh nghiệp. 1.2 Hệthống chỉ tiêu kế hoạch -Căn cứ vào tính chất phản ánh các chỉ tiêu phân thành: + Các chỉ tiêu định lượng phản ánh hướng phấn đấu của Doanh nghiệp về mặt quy mô số lượng… của các hoạt động bao gồm giá trị tổng sản lượng, số lượng lao động, giá trị tài sản cố định. + Các chỉ tiêu định tính bao gồm các chỉ tỉêu phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất - kinh doanh. Chẳng hạn năng suất lao động, tỉ lệ lợi nhuận, tỉ lệ doanh lợi… - Căn cứ vào đơn vị tính toán chia thành + Các chỉ tiêu hiện vật, đó là các chỉ tiêu được đo lường bằng các đơn vị tiền tệ( nội tệ hoặc ngoại tệ) - Căn cứ vào phân cấp quản lý các chỉ tiêu, hệ thống chỉ tiêu kế hoạch bao gồm + Các chỉ tiêu pháp lệnh là các chỉ tiêu Nhà nước giao kế hoạch cho các Doanh nghiệp Nhà nước. đó là các chỉ tiêu được quy định thống nhất về nội dung phương pháp tính toán và có tính chất trong thực hiện. Hiện tại Nhà nước giao cho các Doanh nghiệp từ 1 – 3 chỉ yiêu pháp lệnh. Trong tương lai hệ thống chỉ tiêu này sẽ được thay thế bằng các đơn đặt hàng Nhà nước có điều kiện và các bộ luật tương ứng . + Các chỉ tiêu hướng dẫn là các chỉ tiêu không có ý nghĩa bắt buộc trong thực hiện, song lại bắt buộc về nội dung và phương pháp tính toán + Các chỉ tiêu tính toán: đó là các chỉ tiêu từng Doanh nghiệp tự quy định và tính toán phục vụ công tác quản lý và công tác lập kế hoạch trong phạm vi Doanh nghiệp. 2. Phương pháp luận xây dựng kế hoạch sản xuất - kinh doanh 2.1. Những yêu cầu đổi mới công tác lập kế hoạch sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Công tác lập kế hoạch sản xuất trong cơ chế tập trung quan liêu có những lợi ích nhất định. Nhưng khi chuyển sang cơ chế thị trường nó không còn phù hợp nữa. do vậy yêu cầu cấp thiết đặt ra đối với Doanh nghiệp là phải đổi mới công tác kế hoạch sản xuất kinh doanh của đơn vị mình cho phù hợp với cơ chế thị trường. Quá trình đổi mới đó cần quán triệt các yêu cầu chủ yếu sau đây: - Công tác kế hoạch hoá trong Doanh nghiệp, quán triệt yêu cầu hiệu quả. Các Doanh nghiệp hoạt động đều hướng tới mục tiêu hiệu quả, nó là tiêu chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng, lựa chọn và quyết định phương án kế hoạch của Doanh nghiệp. - Kế hoạch hoá Doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu hệ thống đồng bộ. Nền kinh tế quốc dân là một hệ thống thống nhất, bao gồm các phân hệ là các Doanh nghiệp. Thực hiện yêu cầu này, trong các khâu công tác kế hoạch hoá phải đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của Doanh nghiệp đồng hướng và góp phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bao trùm của cả hệ thống. Công tác kế hoạch hoá Doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu” vừa tham vọng vừa khả thi”. Mục tiêu lợi nhuận đòi hỏi các Doanh nghiệp công nghiệp phải xây dựng để thực hiện các phương án đó. Tuy nhiên các kế hoạch này phải có khả năng thực thi. Công tác kế hoạch hoá Doanh nghiệp phải quán triệt yêu cầu” kết hợp mục tiêu chiến lược với mục tiêu tình thế “. Hay hệ thống m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc903.doc
Tài liệu liên quan